1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam

118 8 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo Tồn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Cơ Tu Gắn Với Phát Triển Du Lịch Tộc Người Ở Huyện Đông Giang, Tỉnh Quảng Nam
Tác giả Nguyễn Viết Hải Hiệp
Người hướng dẫn TS. Trần Thị Mai An
Trường học Đại học Đà Nẵng
Chuyên ngành Việt Nam học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Đà Nẵng
Định dạng
Số trang 118
Dung lượng 7,71 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (0)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (13)
    • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (14)
    • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (14)
    • 4. Tổng quan tình hình nghiên cứu (14)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu (16)
    • 6. Đóng góp về khoa học của luận văn (16)
    • 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn (17)
    • 8. Bố cục của luận văn (17)
  • B. NỘI DUNG (0)
  • Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa gắn với phát triển du lịch và khái quát về địa bàn nghiên cứu (18)
    • 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài (18)
      • 1.1.1. Các khái niệm chính và liên quan trong đề tài (18)
        • 1.1.1.1. Văn hóa (18)
        • 1.1.1.2. Bản sắc văn hóa (19)
        • 1.1.1.3. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa (20)
        • 1.1.1.4. Tộc người (20)
        • 1.1.1.5. Loại hình du lịch văn hóa tộc người (21)
      • 1.1.2. Mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa và hoạt động du lịch (21)
      • 1.1.3. Một số mô hình thực tiễn về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa gắn với du lịch tộc người (22)
        • 1.1.3.1. Ở Việt Nam (22)
        • 1.1.3.2. Một số nước trên thế giới (25)
    • 1.2. Khái quát về huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam (26)
      • 1.2.1. Đặc điểm địa lý, tự nhiên (26)
        • 1.2.1.1. Vị trí địa lý (26)
        • 1.2.1.2. Địa hình, địa mạo (27)
        • 1.2.1.3. Khí hậu (27)
        • 1.2.1.3. Thuỷ văn (29)
      • 1.2.2. Điều kiện lịch sử (29)
      • 1.2.3. Điều kiện kinh tế, xã hội và dân cư (30)
    • 1.3. Khái quát về tộc người Cơ tu ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam (32)
      • 1.3.1. Nguồn gốc và lịch sử tộc người (32)
      • 1.3.2. Tên gọi, dân số (32)
        • 1.3.2.1. Tên gọi (32)
        • 1.3.2.2. Dân số (32)
      • 1.3.3. Quá trình sinh sống và phát triển của người Cơ tu ở huyện Đông Giang (33)
  • Chương 2. Thực trạng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Cơ tu ở huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam gắn với du lịch văn hóa tộc người (36)
    • 2.1. Những giá trị văn hóa của tộc người Cơ tu ở huyện Đông Giang (36)
      • 2.1.1. Văn hóa vật chất (36)
        • 2.1.1.1. Sinh hoạt kinh tế (36)
        • 2.1.1.2. Làng, nhà cửa (40)
        • 2.1.1.3. Ăn uống (45)
        • 2.1.1.4. Phương tiện đi lại (46)
        • 2.1.1.5. Trang phục (46)
      • 2.1.2. Văn hóa tinh thần (48)
        • 2.1.2.1. Lễ hội (48)
        • 2.1.2.2. Tín ngưỡng – tôn giáo (49)
        • 2.1.2.3. Văn hóa nghệ thuật (50)
      • 2.2.3. Văn hóa xã hội (53)
        • 2.2.3.1. Hôn nhân (53)
        • 2.2.3.2. Gia đình (54)
        • 2.2.3.3. Dòng họ (55)
        • 2.2.3.4. Ma chay (55)
    • 2.2. Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở huyện Đông Giang (57)
      • 2.2.1. Quản lý của Nhà nước, địa phương và cộng đồng (57)
        • 2.2.1.1. Chính sách, chủ trương của chính quyền trong quản lý Nhà nước (57)
        • 2.2.1.2. Kết quả thực hiện công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa Cơ tu (58)
      • 2.2.2. Hoạt động du lịch và du lịch văn hóa tộc người trên địa bàn huyện Đông Giang (60)
        • 2.2.2.1. Hoạt động du lịch trên địa bàn huyện (60)
        • 2.2.2.2. Loại hình du lịch văn hóa tộc người (61)
  • Chương 3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Cơ tu gắn với phát triển du lịch văn hóa tộc người trong bối cảnh hội nhập văn hóa hiện nay (73)
    • 3.1. Tác động, ảnh hưởng của hoạt động du lịch văn hóa tộc người đến việc bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người Cơ tu (73)
    • 3.2. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người (76)
    • 3.3. Các giải pháp (77)
      • 3.3.1. Giải pháp về chính sách (77)
      • 3.3.2. Giải pháp về thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương (79)
      • 3.3.3. Giải pháp tăng cường liên kết vùng trong bảo tồn và phát triển du lịch văn hóa tộc người (80)
      • 3.3.3. Giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển du lịch (83)
    • C. KẾT LUẬN (0)
    • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)
  • PHỤ LỤC (95)

Nội dung

Cơ sở lý luận về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa gắn với phát triển du lịch và khái quát về địa bàn nghiên cứu

Cơ sở lý luận của đề tài

1.1.1 Các khái niệm chính và liên quan trong đề tài

Văn hóa không chỉ phản ánh mà còn thể hiện một cách sống động toàn bộ cuộc sống con người qua các thời kỳ lịch sử Nó tạo ra một hệ thống các giá trị truyền thống, bao gồm thẩm mỹ và lối sống, giúp mỗi dân tộc xây dựng bản sắc riêng Văn hóa là sản phẩm của sự sáng tạo và nỗ lực của con người, khác biệt hoàn toàn với những gì tồn tại trong tự nhiên.

Một trong những người đưa ra khái niệm văn hoá sớm nhất là E B Taylo (Năm

Theo định nghĩa của E.B Tylor trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thủy”, văn hóa hay văn minh được hiểu rộng rãi là tổng thể tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp và các thói quen khác mà con người tích lũy trong xã hội Điều này cho thấy văn hóa và văn minh không thể tách rời, bao gồm mọi lĩnh vực liên quan đến đời sống con người.

Theo Bách khoa toàn thư Pháp, văn hóa được định nghĩa rộng rãi là tổng hợp các tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng và thị hiếu thẩm mỹ Nó bao gồm cả những hiểu biết kỹ thuật và cách tổ chức môi trường sống của con người, cũng như các công cụ và nhà ở Nói chung, văn hóa là toàn bộ những sản phẩm có thể truyền lại, điều tiết các mối quan hệ và hành vi của một nhóm xã hội đối với môi trường sinh thái của họ.

F Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tinh thần tập thể vừa có tinh thần cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau” Định nghĩa này đề cao vai trò của mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường trong việc hình thành văn hóa của con người [6]

Theo UNESCO, văn hóa có hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp Nghĩa rộng định nghĩa văn hóa là một phức hệ tổng hợp các đặc trưng tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm, phản ánh bản sắc của cộng đồng Nó không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn chương mà còn cả lối sống, quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng Nghĩa hẹp lại coi văn hóa là tổng thể các hệ thống biểu trưng chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, tạo nên đặc thù riêng Tại Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng văn hóa là sự sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học và nghệ thuật, nhằm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày và thích ứng với nhu cầu sinh tồn Văn hóa chính là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt và biểu hiện mà con người tạo ra.

Hồ Chí Minh đã chỉ ra được nguồn gốc động lực và cấu trúc của văn hoá

Nhà văn hoá học Phan Ngọc định nghĩa văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong tâm trí cá nhân hoặc tộc người với thế giới thực tại, mà thế giới thực này đã được mô hình hoá theo cách riêng của họ Sự thể hiện rõ nét nhất của mối quan hệ này là văn hoá, được biểu hiện qua những lựa chọn độc đáo của từng cá nhân hay tộc người khác nhau.

Nhà văn hóa học Trần Ngọc Thêm định nghĩa văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất, được con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn Định nghĩa này nhấn mạnh sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội trong việc hình thành văn hóa.

Văn hóa có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều đề cập đến các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống Nó được coi là nấc thang giúp con người vượt lên trên các loài động vật khác và là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động để sinh tồn Trong luận văn này, chúng tôi đồng tình và áp dụng định nghĩa văn hóa của Trần Ngọc Thêm.

Bản sắc văn hóa là cảm giác thuộc về một nhóm, phản ánh khái niệm về bản thân và nhận thức cá nhân của mỗi người Nó liên quan đến các yếu tố như quốc tịch, sắc tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội, thế hệ và địa phương, tạo nên sự đặc trưng cho từng nhóm xã hội Bản sắc văn hóa không chỉ thể hiện ở cá nhân mà còn ở sự đồng nhất của nhóm, nơi các thành viên chia sẻ những giá trị và đặc điểm văn hóa chung.

Trong bài viết này, chúng tôi khẳng định rằng bản sắc văn hóa là những yếu tố cốt lõi và đặc trưng nhất của một nền văn hóa, giúp phân biệt nó với các nền văn hóa khác.

1.1.1.3 Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

Bảo tồn là quá trình bảo vệ và duy trì sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng theo hình thức ban đầu của chúng Mục tiêu của bảo tồn là giữ lại những giá trị nguyên vẹn, không để chúng bị mất mát hay biến đổi.

Phát huy, theo Từ điển tiếng Việt, là hành động làm cho những giá trị tốt đẹp tỏa sáng và phát triển thêm Điều này liên quan đến việc đưa văn hóa vào thực tiễn xã hội, xem văn hóa như nguồn nội lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển xã hội Việc phát huy văn hóa không chỉ mang lại lợi ích vật chất mà còn nâng cao tinh thần cho con người, đồng thời khẳng định vai trò của văn hóa trong sự phát triển xã hội Mục tiêu của việc phát huy văn hóa là lan tỏa các giá trị văn hóa và nghệ thuật truyền thống trong cộng đồng, tạo ra những tác động tích cực cho xã hội.

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là hai lĩnh vực gắn kết chặt chẽ và tương hỗ, ảnh hưởng lẫn nhau trong việc giữ gìn tài sản văn hóa Để phát huy các giá trị văn hóa, cần phải bảo tồn di sản văn hóa một cách thành công Hơn nữa, phát huy di sản cũng chính là một phương pháp bảo tồn hiệu quả, giúp lưu giữ giá trị di sản trong ý thức cộng đồng xã hội.

Theo định nghĩa hẹp, tộc người là một cộng đồng có chung ngôn ngữ mẹ đẻ, bao gồm những người sống trong cùng một khu vực và chia sẻ các đặc điểm văn hóa tương đồng, trong đó ngôn ngữ là yếu tố nổi bật nhất.

Tộc người được hiểu là một cộng đồng liên kết bởi các đặc điểm chung về nhân chủng, ngôn ngữ và chính trị Sự kết hợp này tạo thành một hệ thống văn hóa độc đáo, hình thành nên một nền văn hóa riêng biệt.

Khái quát về huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

1.2.1 Đặc điểm địa lý, tự nhiên

1.2.1.1 Vị trí địa lý Đông Giang là một trong tám huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, được chia tách từ huyện Hiên thành 2 huyện Đông Giang và Tây Giang theo Nghị định số 72/2003/NĐ-CP, ngày 20 tháng 06 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ Huyện Đông Giang tọa độ từ 15 0 50’ đến 16 0 10’ độ Vĩ Bắc và từ 107 0 35’ đến 107 0 56’ độ Kinh Đông Ranh giới hành chính được xác định cụ thể như sau:

- Phía Đông giáp : Huyện Hoà Vang (thành phố Đà Nẵng)

- Phía Tây giáp : Huyện Tây Giang

- Phía Nam giáp : Huyện Đại Lộc và huyện Nam Giang

- Phía Bắc giáp : Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế

Huyện có 11 đơn vị hành chính, bao gồm các xã Ba, Tư, A Ting, Jơ Ngây, Sông Kôn, Tà Lu, Za Hung, A Rooi, Mà Cooih, Kà Dăng và thị trấn Prao Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 82.185,16 ha, được phân chia theo các đơn vị hành chính nêu trên.

Bảng 1.1: Diện tích đất tự nhiên theo đơn vị hành chính cấp xã

STT ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH DIỆN TÍCH NĂM 2015

(Nguồn: Thống kê, kiểm kê đất đai huyện Đông Giang năm 2015)

Huyện miền núi này có địa hình chủ yếu là đồi núi cao, với độ cao trung bình trên 700 m, dần thấp xuống từ Tây sang Đông Khu vực bị chia cắt bởi hệ thống sông suối, tạo ra nhiều thung lũng hẹp giữa các dãy núi thấp, phân bố rộng rãi trên toàn huyện.

Với địa hình như vậy, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng gặp nhiều khó khăn nhất là xây dựng hệ thống giao thông nông thôn

Huyện Đông Giang, nằm trong khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam, thuộc vùng nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Trường Sơn, có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 và mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8 Trong mùa mưa, gió mùa Đông Bắc tạo ra các tiểu vùng khí hậu khác nhau.

Vùng Đông bao gồm các xã Tư, Ba và Kà Dăng, nơi có khí hậu đặc trưng của Nam Hải Vân Trong đó, xã Tư và xã Ba chịu ảnh hưởng trực tiếp từ không khí lạnh của dãy núi Bà Nà, dẫn đến điểm rét và lượng mưa nhiều, với mùa mưa kéo dài Ngược lại, xã Kà Dăng, được che chắn bởi các dãy núi cao, có mức độ ảnh hưởng khí hậu nhẹ hơn so với hai xã còn lại.

Vùng Trung, bao gồm A Ting, Sông Kôn và Jơ Ngây, chịu tác động từ hai dòng khí hậu Bắc Hải Vân và Nam Hải Vân, dẫn đến thời tiết rét lạnh thường xuyên hơn trong mùa mưa.

Vùng Tây bao gồm Tà Lu, Prao, Zà Hung, A Rooi và Mà Cooih chịu ảnh hưởng của khí hậu Bắc Hải Vân và không khí lạnh từ dãy núi Bạch Mã thuộc Thừa Thiên - Huế.

Thời tiết ở huyện Đông Giang thường xuyên bị ảnh hưởng bởi không khí lạnh từ vùng núi Bạch Mã và Bà Nà, dẫn đến tình trạng rét lạnh kéo dài Điều này ảnh hưởng không chỉ đến thời vụ sản xuất mà còn đến điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây trồng trong khu vực.

Trong mùa khô xuất hiện gió mùa Tây Nam, vào giữa tháng 6 đến cuối tháng 7 dương lịch thường hay có những đợt gió khô nóng từ Lào thổi sang

Mức độ tác động ảnh hưởng của gió Lào ở từng vùng cũng có khác nhau:

- Các xã vùng Tây có vị trí tiếp giáp gần nhất nên chịu ảnh hưởng nặng nhất

- Các xã vùng Trung do khi dòng khí nóng thổi vào đã bị cản lại bởi các dãy núi cao nên mức độ ảnh hưởng ít hơn

Các xã vùng Đông ít bị ảnh hưởng bởi dòng khí nóng suy yếu, nhờ vào địa hình độ dốc thấp, điều này không tạo ra sự chênh lệch lớn về áp suất giữa đỉnh núi và chân núi, từ đó hạn chế sự phát triển của hiện tượng gió phơn khô.

Nhiệt độ trung bình của Đông Giang khoảng 23,5 0 C (Nhiệt độ thấp nhất khoảng

Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 8°C đến 38°C, với biên độ nhiệt ngày và đêm khoảng 8-9°C Lượng mưa trung bình hàng năm đạt khoảng 2.650mm, với 189 ngày mưa trong năm Đặc biệt, 80% lượng mưa tập trung vào mùa mưa lũ, và các tháng có lượng mưa cao nhất thường rơi vào thời gian này.

Từ tháng 10 đến tháng 12 dương lịch, lượng bốc hơi trung bình hàng năm đạt khoảng 95mm, với mức bốc hơi cao nhất có thể lên đến 125 - 130mm, chủ yếu tập trung vào tháng 6.

Độ ẩm trung bình hàng năm đạt 86,5%, với mức cao nhất khoảng 97% và thấp nhất là 50% Sương mù thường xuyên xuất hiện, đặc biệt trong các tháng mùa mưa rét khi không khí lạnh tràn vào Thời gian bão thường rơi vào khoảng từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm, và lũ quét thường xảy ra sau những trận mưa lớn từ đầu nguồn các khe suối.

Khí hậu huyện Đông Giang mát mẻ quanh năm với hai mùa rõ rệt, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch văn hóa, sinh thái và nghỉ dưỡng Tuy nhiên, chế độ mưa tập trung theo mùa và lượng mưa lớn cùng địa hình dốc cao dẫn đến hiện tượng xói mòn, rửa trôi, sạt lở đất và lũ lụt thường xuyên Đặc biệt, khu vực thượng nguồn và ven sông suối thường xảy ra lũ quét, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất của người dân.

1.2.1.3 Thuỷ văn Đông Giang có địa hình hầu hết là núi cao, độ dốc lớn và bị chia cắt bởi hệ thống các sông suối khá dày đặc, hình thành nên hệ thống các sông lớn như Sông Kôn, Sông

A Vương, Sông Vàng, Sông Bung và nhiều khe suối nhỏ

Sông Kôn, bắt nguồn từ huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên - Huế, chảy qua các xã ATing, Sông Kôn, Kà Dăng và cuối cùng đổ ra sông Vu Gia (Đại Lộc) Lưu lượng nước của sông Kôn dao động từ 4m3/s trong mùa kiệt đến 21m3/s trong mùa lũ, với mực nước trung bình vào mùa khô đạt 1,5m.

Khái quát về tộc người Cơ tu ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

1.3.1 Nguồn gốc và lịch sử tộc người

Nguồn gốc tộc người ở Trung Bộ Việt Nam, đặc biệt là các nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer và Katuic, vẫn chưa được xác định rõ ràng về thời điểm xuất hiện Tuy nhiên, sự hiện diện ổn định của các nhóm tộc như Cơ tu, Bru - Vân Kiều, và Pacoh - Tà Ôi hiện nay cho thấy họ đã sinh sống trên một vùng đất rộng lớn từ Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đến Quảng Nam và hướng ra biển Qua thời gian, vì nhiều lý do khác nhau, các nhóm này đã di chuyển lên phía Tây.

Trong lịch sử, tộc người Cơ tu đã có nhiều tên gọi khác nhau như Cao, Hạ, Phương, Ca Tang, Ca tu, A taouat, và Kato Hiện nay, hai tên gọi phổ biến nhất là “Cơ tu” và “Katu” Theo danh mục của nhà nước Việt Nam năm 1979, tên gọi chính thức được thống nhất là “Cơ tu”, trong khi “Katu” thường xuất hiện trong các nghiên cứu của các nhà dân tộc học Mặc dù hai tên gọi này có những lý giải khác nhau, nhưng đều dựa trên chứng cứ ngôn ngữ, ý thức tộc người, cùng các đặc điểm văn hóa và xã hội được công nhận bởi người Cơ tu và cộng đồng.

Người Cơ Tu tại huyện Đông Giang chiếm 76,2% dân số, tương đương với 5.368 hộ và 20.740 nhân khẩu, trong khi các dân tộc khác chỉ chiếm 1% Một số xã như Arooi và Za Hung chủ yếu là người Cơ Tu, do vị trí tách biệt và xa trục đường chính, việc đi lại trở nên rất khó khăn.

1.3.3 Quá trình sinh sống và phát triển của người Cơ tu ở huyện Đông Giang Đông Giang là địa bàn cư trú lâu đời của người Cơ tu từ xưa đến nay Trước năm

Năm 1975, khu vực chủ yếu chỉ có người Cơ tu sinh sống do địa hình tách biệt và khó khăn trong việc di chuyển, dẫn đến việc chưa có sự hiện diện của các tộc người khác Thời điểm này, người Cơ tu chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, thực hiện các hình thức làm rẫy, săn bắn và hái lượm, giữ gìn các giá trị văn hóa nguyên thủy.

Sau năm 1975, sự di cư và cư trú của người Kinh cùng một số dân tộc khác diễn ra chủ yếu để phục vụ các nông trường ở xã Ba và xã Tư Sự quản lý chặt chẽ của Đảng và chính quyền đã giúp người Cơ tu từ bỏ các hủ tục như tục “Săn máu”, đồng thời mở rộng các hình thức canh tác tiến bộ và văn minh hơn Điều này dẫn đến sự thay đổi rõ rệt trong tập tục và phương thức sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng.

Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ thành phần dân tộc huyện Đông Giang tính đến tháng 3/2019

Thông qua nghiên cứu lý thuyết chung, chúng tôi đã xác định các vấn đề liên quan đến văn hóa, tộc người và việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa tộc người Hiện nay, có nhiều định nghĩa về văn hóa, nhưng hầu hết đều đề cập đến các dạng thức và lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống Trong luận văn này, chúng tôi đồng tình và áp dụng định nghĩa văn hóa học của Trần Ngọc Thêm.

Bản sắc văn hóa là những đặc trưng cốt lõi giúp phân biệt các nền văn hóa khác nhau, trong khi tộc người là cộng đồng với lịch sử, không gian và đặc điểm chung như ngôn ngữ và văn hóa Du lịch văn hóa tộc người là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc, với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Mối quan hệ giữa bảo tồn bản sắc văn hóa và hoạt động du lịch là biện chứng, trong đó bảo tồn văn hóa là cơ sở để phát triển du lịch, đồng thời du lịch cũng tạo điều kiện cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Nghiên cứu thực tiễn tại Việt Nam cho thấy các mô hình du lịch văn hóa của người Dao ở SaPa, người K’ho ở Lạc Dương và người Chăm ở Ninh Thuận đã đạt được nhiều thành công, khai thác giá trị văn hóa đặc trưng để phát triển du lịch địa phương, giới thiệu văn hóa bản địa và cải thiện đời sống cộng đồng Luận văn cũng đề cập đến các mô hình du lịch văn hóa tại Campuchia, Thái Lan và Indonesia để có cái nhìn tổng quan và so sánh trong nghiên cứu du lịch văn hóa.

Huyện Đông Giang, một trong tám huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ huyện Hiên và hiện có 10 xã Nghiên cứu của chúng tôi đã khái quát những đặc điểm nổi bật của huyện này.

Thị trấn nằm chủ yếu trên địa hình đồi núi cao, bị chia cắt bởi hệ thống sông suối, tạo nên các thung lũng hẹp với độ chênh cao trung bình trên 700 m Nhiệt độ trung bình khoảng 23,5°C và khí hậu mát mẻ quanh năm với hai mùa rõ rệt, tạo điều kiện thuận lợi cho huyện phát triển du lịch gắn liền với các loại hình văn hóa, sinh thái và nghỉ dưỡng.

Huyện Đông Giang đã xác định cơ cấu kinh tế gồm nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, giúp nền kinh tế địa phương đạt nhiều kết quả tích cực Sự tăng trưởng liên tục về các chỉ số kinh tế đã cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân Trong cơ cấu này, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn do lịch sử phát triển và sinh kế của người dân gắn liền với lĩnh vực này từ lâu.

Cơ tu là tộc người chiếm ưu thế tại huyện Đông Giang, với 76,2% dân số, tương đương 5.368 hộ và 20.740 nhân khẩu Đây là nơi cư trú lâu đời của người Cơ tu, nơi họ chủ yếu tham gia vào các hoạt động kinh tế như săn bắn, hái lượm và trồng trọt Kể từ sau năm 1975, nhiều dân tộc khác cũng đã xuất hiện và sinh sống cùng trong khu vực này.

Thực trạng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Cơ tu ở huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam gắn với du lịch văn hóa tộc người

Những giá trị văn hóa của tộc người Cơ tu ở huyện Đông Giang

Người Cơ tu ở huyện Đông Giang có truyền thống nông nghiệp lâu đời, chủ yếu thực hiện canh tác du canh bằng cách phát rẫy trồng các loại cây lương thực như lúa, sắn, bắp, dứa, bầu và rau cải Sau nhiều mùa vụ, họ chuyển sang vùng đất khác khi đất cạn kiệt độ phì nhiêu, rồi quay lại các rẫy ban đầu Từ những năm 1950 - 1960, người Cơ tu bắt đầu áp dụng kỹ thuật canh tác lúa nước, tuy nhiên, do địa hình bị chia cắt, diện tích lúa nước vẫn còn hạn chế.

Chăn nuôi là một phần quan trọng trong đời sống của người Cơ tu ở Đông Giang, bên cạnh việc làm rẫy và trồng lúa nước Họ chủ yếu chăn nuôi trâu, bò, lợn và gà theo phương thức thả rông, với chỉ một số ít gia đình xây dựng chuồng trại Các loại gia súc và gia cầm không chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà còn được nuôi để phục vụ cho các lễ hội hiến tế Trước đây, trâu là gia súc lớn được nuôi nhiều và rất quý trọng, nhưng hiện nay, bò trở nên phổ biến hơn do dễ nuôi và sinh sản nhanh, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Săn bắn là một hoạt động truyền thống của đàn ông Cơ tu, nổi bật với kỹ năng và kinh nghiệm trong rừng, am hiểu về đời sống động vật Hình thức và dụng cụ săn bắn rất đa dạng, với thành quả săn được chia sẻ trong cộng đồng, đặc biệt là vào thời điểm trước Tết âm lịch Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động này đã giảm do lệnh cấm từ Nhà nước tại các khu rừng nguyên sinh Bên cạnh đó, đánh bắt thủy sản cũng là nguồn thực phẩm quan trọng, với cá Liêng và cá Chình được coi là đặc sản, thường được sử dụng trong các lễ hội và cưới xin Các phương pháp đánh bắt cá như chài, lưới và câu xúc bằng vợt rất phổ biến, và người Cơ tu cũng sáng tạo trong việc sử dụng địa hình để bắt cá bằng Aru, một dụng cụ truyền thống làm từ tre.

Hái lượm là một hoạt động truyền thống lâu đời của đồng bào sống trên dãy Trường Sơn, song hành cùng với nghề săn bắn Sản phẩm hái lượm chủ yếu bao gồm các nguồn lợi từ rừng như rau, măng, nấm, quả và củ, phục vụ cho nhu cầu sống hàng ngày Ngoài ra, đồng bào còn chế biến nước từ thân cây để làm rượu, nổi bật là rượu Tà Đin và Tà Vạc, được coi là những đặc sản độc đáo của vùng.

Người Cơ Tu nổi bật với nghề thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là dệt thổ cẩm và đan lát Họ tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú từ mây, tre, nứa, lồ ô và các loại cây dây leo có sẵn trong rừng để sản xuất các sản phẩm thủ công Những sản phẩm này không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà còn hỗ trợ cho việc vận chuyển, săn bắn và hái lượm của cộng đồng.

Đan lát là một nghệ thuật truyền thống của người Cơ Tu, yêu cầu sự kiên nhẫn và khéo léo Nguyên liệu được khai thác và xử lý tùy thuộc vào từng loại sản phẩm, như ngâm ở khe suối hoặc chẻ thành nan để tăng độ bền và thẩm mỹ Các sản phẩm như gùi vận chuyển lúa, gùi củi, và gùi trẻ em được đan bằng nhiều kỹ thuật khác nhau, từ nan hình lục giác đến dạng hình thang cân Đặc biệt, tà lét và gùi đựng đồ trang sức được chế tác tinh xảo từ dây mây, thể hiện sự sáng tạo của nghệ nhân Những sản phẩm này không chỉ có giá trị sử dụng cao mà còn được xem là quà biếu quý giá Ngoài ra, người Cơ Tu còn đan các dụng cụ như lờ để bắt cá và bẫy sò để săn bắt động vật nhỏ, phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

Kỹ thuật đan chiếu bằng lá Dứa (Alớ) rất đơn giản, phù hợp với mọi người Trong đời sống hàng ngày, chiếu trơn được sử dụng phổ biến, trong khi chiếu có hoa văn thường dành để tiếp khách quý.

Nghề dệt thổ cẩm của người Cơ tu không chỉ thể hiện sức sống mãnh liệt của nền văn hóa tộc người mà còn mang lại giá trị vật chất và tinh thần sâu sắc Mỗi sản phẩm dệt không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mà còn là biểu tượng của sự giàu có và ấm no, đồng thời được coi là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo Giá trị của sản phẩm dệt không chỉ đo lường sự giàu có của gia đình mà còn phản ánh đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng Nghề thủ công truyền thống này, với những giá trị đặc trưng, thể hiện nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của người Cơ tu Truyền thống dệt thổ cẩm được thực hiện qua các công đoạn như trồng bông, đánh sợi, dệt và nhuộm, trong đó dệt là khâu công phu nhất với nhiều kỹ thuật tinh xảo.

Vải trơn (knuốt) là loại vải được dệt từ sợi đơn sắc, thường có màu xanh, đen hoặc trắng chưa nhuộm Loại vải này thường được sử dụng để may trang phục như váy và áo cho nhu cầu hàng ngày và lao động sản xuất Đặc biệt, trong các trang phục này, nếu được chăm chút, chỉ có một vài đường nhấn đơn giản bằng màu đỏ hoặc trắng, mà người Cơ Tu gọi là bhơlút tuh.

Dệt hoa văn gợn sóng là một quy trình phức tạp, bắt đầu bằng việc ngâm sợi bông trắng vào nước cây ta râm để tạo màu xanh chàm, gọi là tơ viêng Sau khi sợi khô, chúng được treo phơi và chuẩn bị cho các bước tiếp theo Người thợ sử dụng lá a yâng, một loại lá dài và mỏng, buộc vào sợi vải xanh rồi nhúng vào thuốc nhuộm nhiều lần để tạo màu đen (tăm) Kỹ thuật này giúp giữ nguyên màu xanh ở những chỗ buộc lá a yâng, tạo ra sự pha trộn giữa hai màu xanh và đen trên sợi Khi dệt, những sợi xanh chàm được sắp xếp liền kề nhau, tạo nên hoa văn gợn sóng độc đáo và ấn tượng trên nền vải thổ cẩm đen.

Kỹ thuật dệt hoa văn hạt cườm là một trong những phương pháp dệt đặc sắc nhất, nhờ vào việc sắp xếp hạt cườm thành những biểu tượng độc đáo, tạo nên giá trị cho trang phục Arắc hay alùng là thuật ngữ chỉ các hạt cườm được phối trí trên tấm hhhhtút của đồng bào Quá trình chèn cườm đòi hỏi sự tỉ mỉ, với hạt cườm được xâu vào sợi màu đen trước khi chèn Người thợ dệt cần hình dung rõ ràng các họa tiết, bố cục và tính toán chính xác để phân bố cườm sao cho hợp lý Chỉ khi hoàn thành một đoạn dệt, hình trang trí mới hiện lên rõ nét, thể hiện sự khéo léo và tài năng của người thợ trong việc kết hợp giữa dệt và tạo hoa văn.

Người Cơ Tu truyền thống đã sử dụng cườm từ hạt cây arac bọc, a rac bhơi hay a rac apờ roong để dệt hoa văn Loại cây này thường mọc nhiều trong rừng, có chiều cao không quá đầu người, với lá dài và nhỏ như ngón tay, cho ra hạt cứng giống hạt tiêu Hạt này khi phơi khô có lỗ tròn ở tâm và thường được dùng để làm vòng đeo tay, cổ chân, hoặc trang trí trên tấm htút.

Dệt hoa văn cườm chì sử dụng hạt chì thay thế cho hạt cỏ không bền, mang lại độ bền và giá trị cao hơn Cườm chì, được chế biến khó khăn từ chì, trở nên quý hiếm, và chỉ những làng có người biết kỹ thuật mới có thể tiếp tục dệt hoa văn này Sản phẩm dệt hoa văn cườm chì thường chỉ được sở hữu bởi những gia đình giàu có.

Hiện nay, người Cơ Tu đã chuyển sang sử dụng hạt cườm nhựa tổng hợp nhập khẩu từ Trung Quốc thay vì hạt cườm bằng chì hay từ hạt cây Hạt cườm nhựa (ghul arăc) màu trắng trở thành nguyên liệu chính để dệt hoa văn trên trang phục, với ưu điểm là sản xuất hàng loạt, đa dạng màu sắc và dễ sử dụng Mặc dù cườm nhựa không quý giá như cườm chì, nhưng lại có sắc màu tươi sáng hơn, giúp người thợ dệt tiết kiệm thời gian trong việc tìm kiếm hạt cườm như trước đây.

Người Cơ Tu thực hiện buôn bán chủ yếu qua các hình thức trao đổi thương mại cá nhân nhỏ lẻ, mang tính tự cung tự cấp Họ trao đổi các sản phẩm như mật ong, mây, và chim để lấy muối, chiếu cói, vải trắng, chiêng, ché, cùng với công cụ sắt Hoạt động mua bán này chỉ có sự tham gia của một số ít người.

Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở huyện Đông Giang

2.2.1 Quản lý của Nhà nước, địa phương và cộng đồng

2.2.1.1 Chính sách, chủ trương của chính quyền trong quản lý Nhà nước Đông Giang là huyện miền núi nơi có đông dân tộc Cơ tu cư trú sinh sống, có truyền thống văn hóa lâu đời Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu, hội nhập hiện nay bản sắc văn hóa tộc người ít nhiều bị mai một Vì vậy, cần có sự chung tay gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc ấy từ chính đồng bào Cơ tu và cả các cấp chính quyền

Trong những năm qua, Nhà nước và chính quyền địa phương đã phối hợp với đồng bào Cơ tu huyện Đông Giang để xây dựng nhiều chính sách và tổ chức hoạt động nhằm khôi phục và bảo tồn văn hóa đặc sắc, đồng thời loại bỏ các hủ tục không phù hợp Cụ thể, Nghị quyết Trung ương V khóa VIII năm 1998 đã nhấn mạnh việc phát triển nền văn hóa Việt Nam với bản sắc dân tộc Ngoài ra, Quyết định số 1270/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2011 đã phê duyệt Đề án bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số đến năm 2020, tạo cơ sở cho các Bộ, Ban, Ngành và địa phương thực hiện kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc thiểu số, trong đó có tộc người Cơ tu.

Cơ tu huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

Huyện Đông Giang đã chủ động xây dựng và triển khai nhiều chính sách nhằm bảo tồn văn hóa Cơ tu, theo chủ trương của Đảng và Đề án của Chính phủ Năm 2008, HĐND huyện đã ban hành Nghị quyết số 77/2008/NQ-HĐND về việc khôi phục và phát huy bản sắc văn hóa Cơ tu trong giai đoạn 2009-2015 Tiếp theo, Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 27/12/2016 của Tỉnh uỷ Quảng Nam đã định hướng phát triển du lịch Quảng Nam đến năm 2020 và 2025 Dựa trên các văn bản này, UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 22/KH-UBND ngày 20/3/2012 để cụ thể hóa nội dung và lộ trình thực hiện khôi phục văn hóa Cơ tu giai đoạn 2012-2016, cùng với Quyết định số 1640/QĐ-UBND ngày 06/12/2012 về việc thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện.

Kế hoạch khôi phục, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Cơ Tu giai đoạn 2012-2016 đã được UBND huyện xây dựng, cùng với việc lập kế hoạch hàng năm để triển khai công tác bảo tồn theo lộ trình đã đề ra.

Chính quyền huyện Đông Giang và đồng bào dân tộc Cơ tu đã quyết tâm khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Nhiều hoạt động ý nghĩa đã được tổ chức, như Ngày hội văn hóa Cơ tu, hội thảo về cách viết tộc họ và lễ hội truyền thống, cùng với hội thi ảnh nghệ thuật về văn hóa Cơ tu vào năm 2015 Bên cạnh đó, các làng nghề truyền thống như đan lát và dệt thổ cẩm cũng được phục dựng, và hai làng du lịch Bhờhôồng và Đhrôồng đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao giá trị văn hóa địa phương.

2.2.1.2 Kết quả thực hiện công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa Cơ tu a) Kết quả thực hiện công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

Trong những năm qua, chính quyền huyện Đông Giang đã phối hợp với đồng bào thực hiện nhiều hoạt động ý nghĩa nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Cơ tu.

Văn hóa vật chất của đồng bào đã được khôi phục mạnh mẽ, thể hiện qua đời sống sinh hoạt và sản xuất hàng ngày Nhiều vật dụng truyền thống như gùi nữ, giỏ tuốt lúa, nia, vỏ bầu khô, gùi nam và các công cụ săn bắt đã được trưng bày tại Trung tâm VHTT-TT huyện và các hộ gia đình phục vụ du khách Nhà truyền thống của đồng bào cũng được phục dựng tại các thôn như Đhrôồng và Adinh, góp phần bảo tồn "linh hồn" văn hóa Cơ tu Huyện có 57 Gươl/78 thôn, trong đó có Gươl họ Bhnứơch tại thôn Azuông I Nghề chế biến rượu cần và các nghề thủ công mỹ nghệ như dệt thổ cẩm cũng được phát triển, tạo thành làng nghề truyền thống với sản phẩm được công nhận độc quyền Các loại trang phục và trang sức truyền thống như lắc tay, vòng tay, và trang phục nam nữ đã được phục hồi, từ đó phát triển thành sản phẩm lưu niệm du lịch độc đáo, mang đậm dấu ấn văn hóa của tộc người.

Người Cơ tu có đời sống tinh thần phong phú với nhiều lễ hội và nghệ thuật đặc sắc Huyện Đông Giang đã phục dựng thành công Lễ hội Mừng lúa mới, lễ hội cồng chiêng và lễ kết nghĩa nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa Ngoài ra, huyện còn tổ chức trình diễn trang phục truyền thống và trò chơi dân gian trong Ngày hội truyền thống văn hóa Cơ tu Đến nay, huyện đã sưu tầm một số bài tế và lễ vật cúng tế, đồng thời tiếp tục biên soạn thành sách để lưu giữ Huyện cũng tổ chức 02 lớp học tiếng Cơ tu để gìn giữ ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc.

Trong chương trình văn hóa, 113 học viên là cán bộ công chức, viên chức đã tham gia sưu tầm và biên soạn tập truyện cổ Cơ tu song ngữ (Cơ tu - Việt) Nghệ thuật nói lý và hát lý cũng được thu thập và phát hành thành các đĩa DVD Ngoài ra, các lễ hội và ngôn ngữ truyền thống, cùng với nhạc cụ như Abel, tâmbhreh, ânjưl, ahen, aluốt, và chargâr chiing, đã được khôi phục và tổ chức lớp hướng dẫn kỹ thuật Đặc biệt, các đội cồng chiêng và văn nghệ đã được thành lập tại tất cả 11 xã và 80/95 thôn trong huyện.

Văn hóa xã hội tại địa phương được duy trì và phát huy thông qua các luật tục trong hôn nhân, gia đình và ma chay, với sự đổi mới tích cực nhằm giảm thiểu lãng phí thời gian và tài chính Trong những năm qua, chính quyền đã tổ chức các buổi gặp gỡ với các già làng để trao đổi và củng cố phong tục, bản sắc văn hóa, đồng thời định hướng vai trò của họ và thanh niên trong việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống Ngoài ra, mô phỏng tượng nhà mồ với nghệ thuật trang trí và điêu khắc tinh xảo cũng đã được thực hiện và hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm VHTT-TT của Huyện.

Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số cần sự kiên trì và tâm huyết từ chính quyền, người dân, và đặc biệt là các cán bộ văn hóa Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã công nhận 03 giá trị văn hóa phi vật thể Quốc gia, bao gồm nghệ thuật nói lý, hát lý; điệu múa tân tung da dă; và dệt thổ cẩm của người Cơ tu Kết quả công tác đào tạo nghề cũng góp phần quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa này.

Nguồn nhân lực cho công tác bảo tồn và phát triển du lịch là ưu tiên hàng đầu của Huyện Đông Giang Trong những năm qua, huyện đã hợp tác với nhiều tổ chức và cá nhân để tổ chức các lớp đào tạo nghề truyền thống nhằm khôi phục và bảo tồn các làng nghề địa phương Huyện cũng đã làm việc với các tổ chức quốc tế để gìn giữ các giá trị văn hóa độc đáo, thu hút đầu tư cho công tác bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Đặc biệt, huyện đã đào tạo nghề đan lát cho 57 lao động tại thôn Bhơhôồng và nghề dệt cho 53 lao động ở thôn Đhrôồng Năm 2015, tổ chức ILO đã hỗ trợ đào tạo nghề du lịch cho 100 lao động tại xã Sông Kôn và xã Tà Lu, góp phần phát triển ngành du lịch địa phương.

Việt Nam đã tổ chức một khóa tập huấn kỹ năng lễ tân cho 30 học viên là đại diện các hộ gia đình ở xã Sông Kôn, nhằm nâng cao khả năng đón tiếp khách tham quan Khóa tập huấn cũng nhận được sự hỗ trợ từ các đơn vị lữ hành và tổ chức đoàn thể, giúp cộng đồng địa phương quảng bá các sản phẩm công mỹ nghệ như quà lưu niệm đặc trưng Hoạt động này không chỉ góp phần tăng thu nhập cho người dân mà còn bảo tồn các nghề truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm và chế biến đặc sản.

Huyện Đông Giang đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cường ngành du lịch và dịch vụ, với việc đẩy mạnh quảng bá và thu hút đầu tư dựa vào tài nguyên thiên nhiên và văn hóa Đến cuối năm 2019, tổng nguồn vốn cho khôi phục và bảo tồn giá trị văn hóa của người Cơ tu đạt 1.218.200.000 đồng Năm 2020, huyện đã trình đề án đầu tư 2,97 tỷ đồng để nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tại 2 xã Tà Lu và Sông Kôn Các tổ chức như Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng đang kêu gọi đầu tư để khôi phục nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch.

Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Cơ tu gắn với phát triển du lịch văn hóa tộc người trong bối cảnh hội nhập văn hóa hiện nay

Ngày đăng: 31/05/2022, 11:28

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

DANH MỤC BẢNG BIỂU - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU (Trang 11)
DANH MỤC HÌNH VẼ - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
DANH MỤC HÌNH VẼ (Trang 12)
Bảng 1.1: Diện tích đất tự nhiín theo đơn vị hănh chính cấp xê - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
Bảng 1.1 Diện tích đất tự nhiín theo đơn vị hănh chính cấp xê (Trang 26)
1.2.1.2. Địa hình, địa mạo - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
1.2.1.2. Địa hình, địa mạo (Trang 27)
Bảng 1.2: Tình hình dđn số phđn bố trín địa băn huyện Đông Giang - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
Bảng 1.2 Tình hình dđn số phđn bố trín địa băn huyện Đông Giang (Trang 31)
Trong nhiều năm trở lại đđy, loại hình du lịch dựa văo câc yếu tố văn hóa vă tự nhiín phât triển, thu hút một lượng lớn du khâch đến với Đông Giang - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
rong nhiều năm trở lại đđy, loại hình du lịch dựa văo câc yếu tố văn hóa vă tự nhiín phât triển, thu hút một lượng lớn du khâch đến với Đông Giang (Trang 64)
Bảng 3.3. Thu nhập bình quđn hộ gia đình tham gia Lăng du lịch cộng đồng Bhờhôồng năm 2018 - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
Bảng 3.3. Thu nhập bình quđn hộ gia đình tham gia Lăng du lịch cộng đồng Bhờhôồng năm 2018 (Trang 66)
Hình 8. Nhă Moong - Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cơ tu gắn với phát triển du lịch tộc người ở huyện đông giang, tỉnh quảng nam
Hình 8. Nhă Moong (Trang 99)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w