1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp hồ chí minh

128 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 128
Dung lượng 3,98 MB

Cấu trúc

  • Tên Đề Tài: Bảo Tồn, Phát Huy Nghệ Thuật Cải Lƣơng Tại Tp. Hồ Chí Minh

  • Lời Mở Đầu

  • Lời Cảm Ơn

  • Lời Cam Đoan

  • Mục Lục

  • Nội Dung

  • Chương 1: Khái Quát Về Không Gian Văn Hóa Cải Lương

  • Chương 2: Những Giai Đoạn Lịch Sử Phát Triển Của Nghệ Thuật Cải Lương

  • Chương 3: Giải Pháp Khai Thác, Phát Triển Các Giá Trị Của Nghệ Thuật Cải Lương Tại Tp. Hồ Chí Minh

  • Kết Luận

  • Tài Liệu Tham Khảo

Nội dung

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Lịch sử hình thành và phát triển của Cải lương, đặc biệt tại Sài Gòn, là đối tượng nghiên cứu đầu tiên Tiếp theo, các giai đoạn phát triển rực rỡ cho đến thoái trào của Cải lương sẽ được xem xét Cuối cùng, nghiên cứu sẽ tập trung vào nghệ sỹ, khán giả, đơn vị tổ chức biểu diễn và cơ quan quản lý trong lĩnh vực này.

Phạm vi thời gian: từ khi loại hình nghệ thuật Cải lương hình thành và phát triển đến nay

Phạm vi không gian: Giới hạn nghiên cứu một địa phương cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh

Nghiên cứu này tập trung vào sự hình thành và hoàn cảnh lịch sử của nghệ thuật Cải lương, cũng như quá trình ra đời và các thời kỳ phát triển của nó, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu

Người viết áp dụng phương pháp tham khảo từ sách, báo và văn bản để thu thập thông tin Sau khi thu thập tài liệu, họ tiến hành phân tích và tổng hợp để rút ra những kết luận cần thiết.

Người viết áp dụng phương pháp nghiên cứu thực tế bằng cách theo dõi các chương trình Cải lương như Chuông vàng vọng cổ và các vở Cải lương online, đồng thời khảo sát tình hình biểu diễn tại các sân khấu và mức độ quan tâm của công chúng tại Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh Phương pháp này giúp tác giả có cái nhìn chân thực hơn về đối tượng nghiên cứu, từ đó củng cố lý luận và tránh cái nhìn chủ quan.

Người viết đã áp dụng phương pháp điều tra để tăng tính chân thật của nghiên cứu, bao gồm việc sử dụng hệ thống câu hỏi miệng để thu thập thông tin về nhận thức và thái độ cá nhân từ người phỏng vấn Đồng thời, phiếu khảo sát cũng được sử dụng để tìm hiểu suy nghĩ của công chúng về Cải lương Trong đó, 50% số phiếu khảo sát được thu thập qua hệ thống Google Drive, trong khi 50% còn lại được thực hiện thông qua khảo sát trực tiếp.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu về Cải lương hiện nay đã có nhiều tác giả và nhóm nghiên cứu công bố nhưng vẫn còn rải rác và thiếu sự tập trung Mặc dù có nhiều công trình dưới dạng hồi ký, sưu tầm tư liệu và phỏng vấn nghệ sĩ, nhưng vẫn còn nhiều khoảng trống trong việc nghiên cứu sâu về lĩnh vực này Các công trình chủ yếu tập trung vào sự ra đời và phát triển của sân khấu Cải lương, cũng như chia sẻ kỷ niệm của những nghệ sĩ gạo cội, nhưng chưa khai thác đầy đủ các khía cạnh khác của Cải lương.

Cuốn hồi ký "50 năm mê hát – 50 năm Cải lương" của Vương Hồng Sển là một trong những công trình nghiên cứu quan trọng nhất, ghi lại những trải nghiệm và cảm xúc của tác giả trong suốt nửa thế kỷ gắn bó với nghệ thuật cải lương.

Từ năm 1916 đến 1966, tác giả đã ghi lại những cảm nhận chủ quan của mình về nghệ thuật cải lương, xuất bản lần đầu vào năm 1968 Mặc dù mang tính chủ quan, những ghi chép của ông lại phù hợp với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, nghệ sĩ và báo chí, cho thấy tính trung thực cao Cuốn sách không chỉ có giá trị lịch sử với nhiều tư liệu quý, mà còn thể hiện sự phát triển của cải lương từ những ngày đầu cho đến thời kỳ rực rỡ Dù chưa có tính hệ thống theo tiến trình và chủ yếu mang tính hồi ký, tác phẩm vẫn thu hút người đọc bởi sự tập trung vào lịch sử cải lương, thay vì đời tư của tác giả.

Từ năm 1997 đến 2009, nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về Cải lương đã được công bố, nổi bật là cuốn "Nghệ thuật Cải lương – những trang sử" của Trương Bính Tòng và "Nghệ thuật Cải lương Bắc" của Ngọc Văn, cả hai đều phát hành năm 1997 Cuốn "Nghệ thuật Cải lương Bắc" ghi chép lại những hoạt động Cải lương từ năm 1919, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của nghệ thuật này.

Năm 1954 đánh dấu sự ra đời của Cải lương Nam, có ảnh hưởng sâu rộng đến khu vực miền Bắc và dẫn đến sự phát triển của Cải lương Bắc Đặc biệt, vào năm 2003, tác phẩm "Sân khấu Cải lương Nam" đã thể hiện rõ nét sự phát triển và ảnh hưởng của thể loại này trong văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

Bộ sách của Đỗ Dũng trình bày những đặc điểm cơ bản của sân khấu Cải lương Nam Bộ từ năm 1918 đến 2000, được xây dựng từ các sự kiện, nhân chứng sống, hồi ký và tài liệu khác Nội dung nghiên cứu từ năm 2006 đến 2009 tập trung vào quá trình hình thành, phát triển của sân khấu cải lương, cùng với đặc trưng ngôn ngữ, thẩm mỹ nghệ thuật, nghệ thuật biên dịch và biên kịch, cũng như nghệ thuật biểu diễn cải lương.

Cải lương đã có sự phát triển đáng kể từ năm 2006 với các tác phẩm nổi bật như "Từ đờn ca tài tử đến hát Cải lương" của tác giả Tuấn Giang và "Kịch hát Việt Nam chọn lọc: Cải lương" do Hoài Linh và Trương Bỉnh Tòng biên soạn Năm 2008, Tuấn Giang tiếp tục cho ra mắt "Lịch sử Cải lương", trong khi Nguyễn Thị Thùy phát hành "Nghệ thuật biểu diễn Cải lương" vào năm 2009 Từ năm 2017, nhiều công trình nghiên cứu mới xuất hiện, trong đó có quyển "Nghệ Thuật Sân Khấu: Hát Bội, Đờn Ca Tài Tử Và Cải lương Ở Sài Gòn Và Nam Kỳ Cuối Thế Kỷ 19 Đến 1945" của Nguyễn Lê Tuyên và Nguyễn Đức Hiệp, cùng với "Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam" của Nguyễn Duy Năm 2018, "Bước đường Cải lương" của Nguyễn Tuấn Khanh và "Hóa trang Cải lương" của Đặng Minh Nguyệt cũng được phát hành, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Cải lương.

Nữ nghệ sĩ Tiền phong Năm Sa Đéc và Nghệ Thuật Sân Khấu Nam Bộ của Thiện Mộc Lan (2018), Câu chuyện cải lương: Thật và Đẹp của Hugo Frey và Suzanne Joinson (2019), cùng quyển Soạn giả Viễn Châu Tác giả và tác phẩm Vọng cổ của Huỳnh Công Tín (2020) đều tập trung khắc họa bối cảnh và sự phát triển phong phú của nghệ thuật Cải lương từ hát bội, nhạc tài tử, ca ra bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đến 1945 Các tác phẩm này cung cấp tư liệu quý giá và hình ảnh minh họa sinh động, giúp độc giả có cái nhìn rõ nét về toàn cảnh nghệ thuật Cải lương.

Nghiên cứu về nghệ thuật Cải lương đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả với nhiều quan điểm và khía cạnh khác nhau Tuy nhiên, phần lớn các bài viết chỉ đề cập đến tổng quan về nghệ thuật này, trong khi chỉ có một số ít nghiên cứu tập trung vào Cải lương tại Sài Gòn Đặc biệt, việc nghiên cứu về sự hình thành, phát triển và diễn biến hiện tại của Cải lương ở Sài Gòn còn rất hạn chế Do đó, đây là một vấn đề thực tiễn cần được khai thác sâu hơn trong các nghiên cứu tiếp theo.

Đóng góp của đề tài

Người viết hy vọng nghiên cứu của mình sẽ góp phần bảo tồn và phát triển văn hóa Cải lương độc đáo của dân tộc Đồng thời, tác giả mong muốn mang đến cái nhìn gần gũi hơn về Cải lương, đặc biệt là nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa này trước sự xâm nhập của nhiều loại hình văn hóa mới.

Bố cục khóa luận

Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung khóa luận chia làm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về không gian văn hóa Cải lương

Chương 2: Những giai đoạn thăng trầm của nghệ thuật Cải lương

Chương 3: Giải pháp khai thác phát triển các giá trị của nghệ thuật Cải lương tại TP Hồ Chí Minh.

KHÁI QUÁT VỀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA CẢI LƯƠNG

Giới thiệu chung

Khoảng 3 thế kỷ trước, Nam Bộ trở thành vùng đất mới của Tổ quốc, nơi các lưu dân Việt khai phá và định cư, mang theo truyền thống văn hóa đa dạng Sự hòa quyện văn hóa từ nhiều nơi đã tạo nên bức tranh phong phú cho vùng đất này Người Việt đã xây dựng hàng ngàn kênh mương, cải tạo đất đai, trong khi người Hoa khai thác các giồng cát ven biển để trồng cây ăn trái và phát triển thương mại Người Khmer đã áp dụng kinh nghiệm trồng lúa trên đất phèn, còn người Chăm nổi tiếng với nghề dệt lụa Sự giao thoa giữa các dân tộc đã tạo ra ảnh hưởng văn hóa sâu sắc, hình thành nên ba đặc tính nổi bật của vùng: tính cộng đồng, tính cởi mở và tính bộc trực Những yếu tố này góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của Nam Bộ, nơi mà vẻ đẹp hoang dã cũng khiến người ta cảm thấy sợ hãi.

“Tới đây xứ sở lạ lùng Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê”

“Chèo ghe sợ sấu chƣng Xuống bƣng sợ đĩa, lên rừng sợ ma”

Khi đến vùng đất mới, cư dân Nam Bộ, dù xuất phát từ nhiều nền văn hóa khác nhau, đều chung một khát vọng lập nghiệp và tìm kiếm cuộc sống ấm no, hạnh phúc Đối mặt với những khó khăn của thiên nhiên, họ cần hỗ trợ lẫn nhau để vượt qua thử thách Từ đó, tính hiếu khách trở thành một nhu cầu sinh tồn, thể hiện sự lo xa và mong muốn nhận lại sự giúp đỡ trong tương lai Chính vì vậy, người dân Nam Bộ thường tiếp đãi nồng hậu những người mới gặp, như thể là bà con ruột thịt.

“Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc leo gập ghình khó đi Khó đi mƣợn chén ăn cơm Mƣợn ly uống rƣợu, mƣợn đàn kéo chơi”

Người xa quê, sau những giờ lao động và hiểm nguy, thường cần những khoảnh khắc để chia sẻ kỷ niệm, giúp vơi đi nỗi nhớ quê hương Điều này tạo nên tính cách dễ cảm thông, sống nghĩa tình, thật thà và hiếu khách Theo Doãn Uẩn, đời sống cư dân Nam Bộ ban đầu rất vui vẻ, an nhàn, với ít trộm cắp và tình yêu ca múa Chính sự nghĩa tình, quảng giao và ưa ca hát đã góp phần hình thành các hoạt động văn nghệ dân gian, đặc biệt là đờn ca tài tử.

Trong bối cảnh lịch sử giao thoa giữa hai nền văn minh Âu và Á, nhu cầu của khán giả về một thể loại nhạc đờn ca tài tử mới mẻ và sáng tạo đã nảy sinh Người xem cảm thấy nhàm chán với lối hát bội dài dòng và khó hiểu, dẫn đến việc tìm kiếm một hình thức nghệ thuật gần gũi, chân thực hơn nhưng vẫn giữ được giá trị nghệ thuật Từ đó, cải lương ra đời, kết hợp hoàn hảo giữa đờn ca tài tử truyền thống, hát bội và ảnh hưởng từ kịch nói phương Tây, mang đến một làn gió mới cho nghệ thuật biểu diễn.

Người Việt ở Nam Bộ không chỉ là những người sáng tạo mà còn là những người tiếp nhận và thưởng thức nghệ thuật cải lương Đặc biệt, mặc dù không phải là nơi khởi nguồn, Sài Gòn lại là vùng đất chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của loại hình nghệ thuật này Sự năng động của người Nam Bộ đã tạo ra cải lương, trong khi tâm hồn phóng khoáng và cởi mở của người Sài Gòn đã góp phần thúc đẩy nghệ thuật này phát triển nhanh chóng.

Theo các chuyên gia, việc thờ tổ trong nghệ thuật bắt nguồn từ các đoàn hát bội và dần mở rộng sang cải lương, kịch nói Trong lịch sử hát Cải lương Nam Bộ, Tống Hữu Định được xem là ông tổ của bộ môn này Sinh năm 1896 và mất năm 1932, ông là một danh sĩ tài hoa, có nguồn gốc từ dòng dõi công thần nhà Nguyễn Ông nổi tiếng với niềm đam mê âm nhạc dân tộc và thường tổ chức các buổi đờn ca, đá gà, bài bạc Tống Hữu Định là người sáng lập ra điệu hát ca ra bộ, tiền thân của nghệ thuật cải lương, và đã vận động thành lập Hội Văn thánh tại Vĩnh Long vào năm 1900.

Vào năm 1903, một sự kiện quan trọng đã diễn ra khi buổi lễ khánh thành được tổ chức, trong đó ban tổ chức đã trình diễn một loạt bài ca theo điệu Tứ đại Vọng cổ Sự kiện này đã mở đầu cho sự phát triển của bộ môn ca kịch Cải lương từ những năm 1914 - 1915, đóng góp đáng kể vào sự phong phú của nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

Có nhiều giai thoại về ông tổ nghiệp, trong đó nổi bật là câu chuyện về hai vị hoàng tử Xưa kia, một nhà vua không có con đã thường xuyên cầu xin trời phật Trong các lễ cầu nguyện, có một người giả làm thần múa hát, bay lên trời dâng sớ Sau đó, hoàng hậu sinh được hai hoàng tử, cả hai đều mê ca hát Một hôm, họ lén cha đi xem hát, say mê đến mức quên ăn, quên ngủ và kiệt sức, cuối cùng ôm nhau qua đời Từ đó, nghệ sĩ thường thấy hai hoàng tử hiện về xem hát, và lập bàn thờ phụng gọi là tổ Ngày hai vị hoàng tử mất cũng trở thành ngày giỗ tổ hàng năm của ngành sân khấu Trong đoàn hát, có một bàn thờ bằng gỗ sơn đỏ với hai cốt gỗ nhỏ như búp bê tượng trưng cho hai hoàng tử Mỗi khi có lớp diễn sinh con, nghệ sĩ thường thỉnh một vị ra làm hài nhi, với hy vọng rằng hoàng tử trẻ tuổi sẽ thích diễn NSND Đinh Bằng Phi cũng nhấn mạnh rằng việc thờ cốt gỗ trẻ con còn mang ý nghĩa hướng về khán giả trẻ, những người sẽ nuôi dưỡng sân khấu trong tương lai.

Truyền thuyết cho rằng tổ sân khấu xuất phát từ nghề ăn mày, vì nghệ sĩ sống nhờ vào sự ủng hộ của khán giả, giống như những người ăn xin Tuy nhiên, nghệ sĩ dù trải qua khó khăn cũng không bị trách móc, vì tổ đã ban cho họ nghề nghiệp Hơn nữa, nghệ sĩ thường làm từ thiện nhưng không dám cho tiền người ăn xin, vì điều đó được coi là phạm thượng với tổ.

Ngoài việc thờ tổ nghiệp là hai vị hoàng tử, nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là nghệ sĩ Cải lương, còn tôn thờ những nghệ sĩ có công lao lớn với sân khấu, như ông Cao Văn Lầu, Trần Hữu Trang, NSND Năm Châu và Phùng.

Các khái niệm

Cải lương là một loại hình kịch hát được hình thành từ việc cải cách sân khấu hát bội truyền thống, kết hợp với dòng nhạc đờn ca tài tử và ảnh hưởng từ nghệ thuật diễn xuất phương Tây Nghệ thuật Cải lương lần đầu tiên xuất hiện tại Nam Bộ, đặc biệt là Sài Gòn, nơi đã trở thành cái nôi cho sự phát triển rực rỡ của loại hình nghệ thuật này Thuật ngữ "Cải lương" lần đầu được ghi nhận vào năm 1920 tại gánh hát Tân Thinh, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

“Cải cách hát ca theo tiến bộ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh”

Theo nghĩa thông thường, "cải" có nghĩa là "sửa đổi" và "lương" có nghĩa là "tốt lành", ghép lại thành "cải lương" mang ý nghĩa "sửa đổi để trở nên tốt hơn" Lương Khắc Ninh, vào những năm 1916 – 1917, nhận thấy nghệ thuật hát bội truyền thống đang suy yếu, với sự giảm sút trong diễn xuất và kỹ năng của các nghệ sĩ Ông đã kêu gọi chấn chỉnh nghệ thuật hát bội, và từ "cải lương" được sử dụng để chỉ sự phục hồi nghệ thuật này Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, "cải lương" còn được áp dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau tại Việt Nam.

Cải lương ở giai đoạn này được hiểu là việc "thay cái cũ đổi lấy cái mới", nhấn mạnh sự cần thiết của việc "duy tân" theo nền văn minh phương Tây, với nhiều ví dụ điển hình minh họa cho xu hướng này.

1 Cải lương hương chính Tổ chức hành chính làng xã theo lối mới và có hợp tác xã

Phương pháp viết sử sửa đổi theo lối phương Tây tập trung vào việc trình bày diễn biến sự việc, thay vì ghi chép theo ngày giờ như kiểu nhật ký của các quan xưa Điều này giúp tạo ra một cái nhìn tổng thể và liên kết các sự kiện lịch sử một cách mạch lạc và dễ hiểu hơn.

3 Thiên Chúa cải lương Chỉ đạo tin lành

4 Đám tang cải lương Thực hiện tang lễ như nghi thức phương Tây

5 Cúp tóc cải lương Kiểu tóc hớt ngắn thay vì để búi tóc

Thay đổi không gian và phục trang hát chèo,… hát chèo trên sân khấu, có phông màn nhƣ sân khấu kịch phương Tây thay vì hát ở sân đình

Một số ý kiến cho rằng, trong quá trình dịch thuật các sách báo thời đó, hai chữ “cải lương” đã được dịch sang tiếng Pháp là “Modernes”, mang ý nghĩa “hiện đại hóa”.

Bảo tồn là việc bảo vệ và duy trì sự tồn tại của các hiện tượng theo dạng thức vốn có, không để mất đi hay thay đổi Đối tượng bảo tồn, bao gồm các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, cần đáp ứng hai điều kiện: thứ nhất, phải được công nhận là tinh hoa, có giá trị đích thực rõ ràng; thứ hai, phải có khả năng tồn tại lâu dài trước những biến đổi của đời sống vật chất và tinh thần, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường và toàn cầu hóa Quan điểm về bảo tồn đã được các nhà khoa học nghiên cứu đa dạng, tuy nhiên, đều thống nhất rằng cần linh hoạt trong việc áp dụng các phương pháp bảo tồn để giữ nguyên giá trị gốc và phát huy giá trị đó trong xã hội hiện đại.

Quan điểm bảo tồn nguyên trạng tập trung vào việc bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh thông qua việc thu thập và lưu trữ các hình thức văn hóa hiện có bằng các phương tiện khoa học như sách vở, ghi âm, và hình ảnh, nhằm giữ gìn chúng trong các kho lưu trữ và viện bảo tàng Ngược lại, quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa đang trở nên phổ biến trong giới học thuật, nhấn mạnh rằng mỗi di sản chỉ có thể thực hiện vai trò lịch sử trong một thời gian và không gian nhất định Quan điểm này cho rằng cần phát huy giá trị di sản phù hợp với xã hội hiện tại, đồng thời loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp, từ đó bảo tồn kế thừa không chỉ là việc giữ nguyên bản gốc mà còn là sự kết hợp giữa bảo tồn và bổ sung những yếu tố mới, giúp di sản sống động hơn trong bối cảnh mới.

Nhà nghiên cứu văn hóa Ashworth đã chỉ ra rằng bảo tồn dựa trên kế thừa không chỉ áp dụng cho các đồ tạo tác và toà nhà, mà còn cho các bộ sưu tập và di sản khác Tiêu chí lựa chọn trong bảo tồn không chỉ dựa vào bản chất bên trong của di sản mà còn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài Hơn nữa, bảo tồn theo quan điểm kế thừa không chỉ chú trọng đến hình thức mà còn quan tâm đến các chức năng của di sản.

Văn hóa chỉ có thể tồn tại và phát triển khi chuyển hóa các giá trị văn hóa của quá khứ thành nền văn hóa mới, hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc Tuy nhiên, việc xác định yếu tố nào cần kế thừa và phát huy, hay yếu tố nào không còn phù hợp để loại bỏ, gặp nhiều khó khăn Việc đưa vào những yếu tố mới một cách thiếu cẩn trọng có thể dẫn đến biến dạng di sản văn hóa Ngoài ra, nguy cơ thế hệ sau có thể gạt bỏ những giá trị văn hóa đích thực mà họ chưa cảm nhận và thấu hiểu sâu sắc cũng cần được lưu ý.

Quan điểm bảo tồn phát triển tập trung vào việc làm cho di sản sống động và có tác dụng trong bối cảnh hiện đại, thay vì chỉ tranh cãi về cách bảo tồn nguyên vẹn hay kế thừa từ quá khứ Khác với quan điểm truyền thống, coi tính chân thực là cốt lõi của di sản, quan điểm này đánh giá thấp vai trò của tính chân thực, cho rằng giá trị của nó phụ thuộc vào trải nghiệm Theo đó, không có mục đích bảo tồn nào được xem là duy nhất hay hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp.

Phạm trù văn hóa và nghệ thuật luôn phong phú và biến đổi theo thời gian, với một số nhà hoạt động văn hóa thực hiện các phương pháp bảo tồn trong phát triển cho di sản phi vật thể như lễ hội và các Festival văn hóa Mô hình này thu hút công chúng hiện đại, làm nổi bật sự sinh động và độc đáo của di sản, đồng thời tiếp thêm sức sống cho nó Tuy nhiên, mặt trái của việc này là có nguy cơ dẫn đến tình trạng sân khấu hóa và thương mại hóa di sản, gây ra sự tầm thường hóa và giải thiêng hóa, như đã xảy ra với các trình diễn cồng chiêng Tây Nguyên, nhạc cung đình Huế và ca trù phục vụ khách du lịch.

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa là hai yếu tố không thể tách rời, trong đó phát huy là việc đưa các giá trị văn hóa vào thực tiễn, tạo ra ảnh hưởng tích cực trong xã hội Những hành động này không chỉ khai thác nguồn nội lực tiềm năng mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại lợi ích vật chất và tinh thần cho con người.

Khái niệm "phát huy" gắn liền với việc bảo tồn di sản văn hóa, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể Phát huy giá trị văn hóa và nghệ thuật truyền thống là cách để lan tỏa những giá trị này trong cộng đồng Điều này không chỉ giúp giữ gìn các giá trị lịch sử mà còn khuyến khích mọi người tìm hiểu và trân trọng chúng Nếu không phát huy nghệ thuật dân tộc thông qua bảo tồn và trưng bày, chúng ta sẽ không thể kế thừa và phát triển văn hóa dân tộc Nền nghệ thuật đương đại nào không kế thừa từ truyền thống sẽ dễ dàng đánh mất bản sắc văn hóa của chính mình.

Lịch sử Cải lương

1.3.1 Hát bội Để tìm hiểu về quá trình hình thành Cải lương, chúng ta cần tìm hiểu sơ lược về những bộ môn nghệ thuật sân khấu và âm nhạc của miền Nam từ thưở ban đầu bao gồm hát bội và nhạc đờn ca tài tử cho đến về sau này là chịu ảnh hưởng bởi nền kịch nghệ phương Tây Từ trước khi Cải lương hình thành, tại miền Nam đã có hát bội và đờn ca tài tử Nói về hát bội cái nôi của hát bội là từ sân khấu tuồng đã có cách đây 700 năm ở Việt Nam Tuồng phát triển mạnh nhất ở miền Trung dưới thời nhà Nguyễn Khi phát triển đến Nam Bộ, sân khấu tuồng đổi thành sân khấu hát bội Hát bội đã theo chân những người dân vùng Ngũ Quảng (gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức sau này là Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vào miền Nam trong thời khai hoang mở cõi nên lúc này hát bội được người dân miền Nam ưa chuộng Mỗi khi gặp dịp vui hoặc có những cuộc tế lễ, các gánh hát bội đƣợc mời về hát chầu cho dân chúng coi Ban đầu những cuộc hát chầu này rất tốn kém, phải cất rạp và mời cả gánh gồm dàn đờn và đào kép Về sau, sân khấu hát bội đƣợc đơn giản hơn, chủ nhà chỉ cần mời vài ba thầy đờn và đào kép, gọi là “hát chặp” Hát chặp đƣợc đơn giản hóa hơn mang tính chất gia đình, đào kép không cần vẽ mặt và trang phục nhƣ trên sân khấu Vì chủ đích là đờn ca cho vui nên tuồng tích không nhất thiết phải hát cả tuồng, thích đoạn nào hát đoạn đấy, không cần hát theo hồi, theo lớp Nếu nhƣ hát bội có đờn, trống, kèn, thanh la, não bạt, thì dàn đờn của hát chặp không có đầy đủ nhạc cụ mà chỉ có những loại đờn nhƣ kìm, cò, tranh, sáo nên đƣợc gọi là nhóm Đờn Cây để phân biệt với các ban hát bội chuyên nghiệp, mở đầu cho bộ môn tài tử sau này

Ca ngâm trong hát bội được thể hiện bằng giọng cao, hát to và rõ ràng từng chữ Các thể điệu chính bao gồm: nói lối, hát nam, hát khách, xướng, thán, bạch, oán, ngâm, cùng với các giọng phụ như điệu lý, bài đọc thần chú và hát dâng rượu.

Nói lối có hai giọng chính là xuân (vui tươi) và ai (bi thương) Văn nói lối là thể văn đối, mỗi câu từ ba chữ trở lên, thường dùng mở đầu cho các khúc hát Các thể điệu như xướng, thán, bạch, oán, ngâm có thể sử dụng hoàn toàn tiếng Hán hoặc tiếng Việt, đôi khi xen kẽ giữa hai ngôn ngữ Hát nam, hay còn gọi là hát “vãn”, thường được trình bày trong các hoàn cảnh như chia tay, đi thi hay ra trận, và được viết bằng thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát Điệu hát khách, hay “loạn”, có sự kết hợp với kèn, nhưng các câu hát chủ yếu viết bằng tiếng Hán, gây khó khăn cho những người không biết chữ Hán Sự xuất hiện của các bộ môn nghệ thuật sân khấu ca ngâm bằng tiếng Việt đã khiến hát bội mất dần sự ưa chuộng.

Sân khấu hát bội mang tính đơn giản và ước lệ, với vài chiếc ghế có thể tượng trưng cho cung điện hoặc núi non tùy theo cốt truyện Cử chỉ của nhân vật trên sân khấu được cách điệu, với cách trang điểm và trang phục mang ý nghĩa riêng cho từng tình huống Các biểu cảm như vuốt râu, trợn mắt hay các điệu bộ đều được quy định theo tính cách đặc trưng Mặt mũi được vẽ rằn ri và đánh phấn màu khác nhau cho từng vai diễn, như vai trung thần với màu đỏ, nhân vật đẹp với màu trắng, hay nhân vật mưu mô với màu xanh da trời Các yếu tố như xiêm giáp, mũ mão và binh khí cũng tuân theo quy ước chung, giúp khán giả dễ dàng nhận biết vai diễn của từng diễn viên.

Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nghệ thuật hát bội ở miền Nam bắt đầu suy giảm Trương Minh Ký, trong vai trò thông ngôn cho phái đoàn Việt Nam tại Hội chợ Triển lãm Quốc tế năm 1889 ở Paris, đã chỉ ra những khuyết điểm của hát bội, như cốt truyện dài dòng và âm thanh không dễ chịu Năm 1906, Diguet trong tác phẩm "Les Annamites: Société, Coutumes, Religions" cũng nhận xét rằng diễn viên hát không tự nhiên, với những biểu cảm thái quá và âm thanh ồn ào, cùng với lời ca khó hiểu Đến năm 1912, nhà báo Pháp P S Hervier đã có loạt bài viết về vấn đề này, tiếp tục phản ánh sự suy thoái của nghệ thuật hát bội.

Hát bội Annam đang đối mặt với sự suy giảm chất lượng, theo báo Lục tỉnh tân văn, do cách dọn lớp sơ sài, thiếu chương trình đào tạo ca sĩ và diễn xuất cứng nhắc Các nghệ sĩ không được chọn lọc kỹ lưỡng, dẫn đến việc khán giả chỉ biết đến gánh hát mà không rõ tên tuổi diễn viên hay tác phẩm Bài báo "Luận cách hát trong cả Nam Kỳ" chỉ trích sự cẩu thả trong diễn xuất và việc bầu gánh chỉ thuê nghệ sĩ giá rẻ, không có tay nghề Để khôi phục nghệ thuật hát bội, cần dạy hát bội cho trẻ em Năm 1916, Lương Khắc Ninh viết về "Hát bội Annam" và đề xuất cải cách, nhấn mạnh rằng nghệ thuật này mang lại niềm vui và truyền bá đạo lý Ông thành lập gánh hát để rèn luyện nghệ sĩ, học hỏi từ kịch nghệ phương Tây, và nhận thấy sự yêu mến của công chúng dành cho nhóm Hí kịch Cải lương Ông đề nghị cải cách trang phục và cách diễn, mời các trí thức tham gia vào việc tập hát Ý kiến này được áp dụng bởi Hội nhựt báo Nam Kỳ vào năm 1918, với mục đích chấn hưng lại nghệ thuật hát bội.

Khoảng 1910, ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều (tục gọi Tƣ

Nguyễn Tống Triều, hay còn gọi là Tư Triều, là một tài tử nổi tiếng với kỹ năng chơi đàn kìm điêu luyện Ông sinh ra tại Thuộc Nhiêu, xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, và sau đó chuyển đến sống tại quê vợ ở Cái Thia, Mỹ Tho Ban nhạc của Tư Triều bao gồm các nghệ sĩ như Tư Triều chơi đàn kìm, Chín Quán đờn độc huyền và Bảy.

Vô đờn cò, Mười Lý thổi tiêu, cô Hai Nhiễu đờn tranh và ca

Tại miền Nam, ông Trần Chánh Chiếu (1867 – 1919), còn gọi là Gilber Chiếu, là một nhân vật quan trọng trong phong trào Đông Du Xuất thân từ một gia đình khá giả ở Rạch Giá và có quốc tịch Pháp, ông đã thành lập Minh Tân Công Nghệ Xã để hỗ trợ tài chính cho phong trào Năm 1908, ông cho ra mắt Nam Trung khách sạn tại Sài Gòn và Minh Tân khách sạn tại Mỹ Tho, không chỉ phục vụ kinh doanh mà còn làm nơi liên lạc, hội họp cho các nhà cách mạng Nhờ đó, nhóm nhạc tài tử Tư Triều được mời biểu diễn tại hai khách sạn này, mang đến không khí vui tươi với các tiết mục ca hát và ảo thuật Tư Triều được xem là người tiên phong trong việc đưa nhạc tài tử lên sân khấu công cộng, nhưng thực tế, đây là một sáng kiến của các nhà cách mạng trong phong trào Đông Du.

Trong nhóm Minh Tân Công Nghệ Xã, hai doanh gia tiêu biểu là Trần Chánh Chiếu và Huỳnh Đình Điển, người đã mời ban nhạc tài tử Tư Triều đến trình diễn Năm 1908, Trần Chánh Chiếu thành lập Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn nhằm hỗ trợ kinh tế cho phong trào Đông Du, từ đó nhạc tài tử mới được phổ biến rộng rãi Sự kiện này đánh dấu sự chuyển mình của nhạc tài tử từ phong cách trình diễn thính phòng sang nghệ thuật sân khấu, tạo ra một thay đổi lớn trong cách thức sử dụng bộ môn này Trước đây, nhạc tài tử chỉ được biểu diễn trong không gian trang trọng, với các ca nhạc sĩ ăn mặc chỉnh tề và khán giả phải ngồi im lặng thưởng thức, khác hẳn với không khí sôi động của các quán đờn ca tài tử hiện nay.

Thầy Hộ, chủ rạp hát bóng Casino ở Mỹ Tho, đã mời ban nhạc tài tử trình diễn vào tối thứ ba và thứ bảy, thu hút sự yêu thích của khán giả Sân khấu đơn sơ với nhạc sĩ ngồi trên bộ ván và màn chiếu bóng tạo cảm giác thân thuộc như đang thưởng thức đờn ca tài tử tại nhà Lối trình diễn này nhanh chóng được công chúng đón nhận, trở nên phổ biến ở miền Nam, đặc biệt là Sài Gòn, nơi ban nhạc Tư Triều cũng biểu diễn vào cuối tuần.

Vào thời điểm đó, Sài Gòn chỉ có ba khách sạn do người Việt sở hữu, bao gồm Lục Tỉnh Khách Sạn, Lương Hữu Khách Sạn và đặc biệt là Khách Sạn Nam Hồng Phát, hiện tọa lạc trên đường Hồ Tùng Mậu – Lê Thị Hồng Gấm Ngày 6/3/1915, một tửu lầu khách sạn mới do người Việt làm chủ đã được khai trương, mang tên Café de l’Hôtel du.

Khách sạn Cửu Long Giang, hay còn gọi là Mékong, tọa lạc tại góc đường Espagnes Némésis (hiện nay là đường Lê Thánh Tôn – Thủ Khoa Huân, quận 1, Tp Hồ Chí Minh) Tửu lầu này mang hình thức tương tự như các phòng trà ca nhạc bán rượu Tây của người Pháp trong thời kỳ đó.

Ngày 6/3/1915, tại khách sạn Cửu Long Giang, âm nhạc Việt Nam chính thức hội nhập vào thế giới ca nhạc phòng trà và hộp đêm phục vụ bia rượu phương Tây Ban nhạc Tư Triều được mời biểu diễn vào các tối thứ tư, thứ năm, thứ bảy và chủ nhật, mang đến những bài nhạc đờn ca tài tử thuần Việt Đây trở thành điểm đến ưa thích của các đốc phủ, huyện lại, thương gia và chủ báo.

Khách sạn Cửu Long Giang thu hút đông đảo khách nhờ có ca nhạc, dẫn đến khách sạn Nam Hồng Phát cũng tổ chức mời nhóm nhạc tài tử, bao gồm các nghệ sĩ nổi tiếng như trưởng nhóm Cao Quỳnh Cư, cô Năm Cúc, và cô Ba Đắc, danh ca nổi tiếng từ những năm 1900 Ảnh hưởng của phương Tây được thể hiện qua cách trình diễn và bày trí quán rượu, nơi cung cấp bia, rượu và bộ bài Tây cho khách Phòng trà này thường chỉ phục vụ cho những người khá giả do giá cả không rẻ, nhưng vẫn thu hút hàng trăm khách mỗi đêm nhờ vào những buổi biểu diễn đờn ca tài tử, khiến nhà hàng không đủ nhân viên phục vụ.

Vào năm 1918, rạp hát bội nổi tiếng của cô Ba Ngoạn vẫn còn sử dụng đèn dầu, và một sự cố đã xảy ra khi nhân viên vô tình làm tràn dầu ra ngoài, gây ra cháy rạp Trong khi đó, khách sạn Cửu Long Giang đã trang bị đèn điện và quạt máy, thể hiện sự hiện đại và đầy đủ tiện nghi Điều này cho thấy nhạc tài tử thời bấy giờ chủ yếu phục vụ cho giới trẻ, trí thức, nhà báo và tầng lớp trung lưu, với hình thức sinh hoạt tương tự như các quán nhạc và hộp đêm sang trọng ở các thành phố lớn hiện nay.

Đặc trưng nổi bật của nghệ thuật Cải lương

Nghệ thuật Cải lương, xuất phát từ miền Nam Việt Nam, là nơi thể hiện tâm tư của những người khai hoang trong những ngày đầu gian khổ Các tác phẩm Cải lương thường mang âm hưởng buồn bã, với xúc cảm bi là chủ đạo, phản ánh những câu chuyện về nhân tình thế thái Tuy nhiên, nhân vật trên sân khấu lại thể hiện tính cách mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua khó khăn để tìm kiếm hạnh phúc Kịch bản Cải lương thường chứa đựng hai yếu tố bi và hài, trong đó bi không phải là bi kịch tuyệt vọng mà là sự vượt qua số phận để hướng tới hạnh phúc Kết thúc của hầu hết các vở diễn là niềm vui sum họp, phù hợp với văn hóa Việt Nam Tình tiết bi thường được khai thác qua lời ca, âm nhạc và diễn xuất nội tâm, trong khi tình tiết hài lại tập trung vào diễn xuất ngoại hình của diễn viên, mang lại sự nhẹ nhàng cho vở diễn Sự kết hợp hoàn hảo giữa bi và hài là yếu tố then chốt trong kịch bản Cải lương.

Sân khấu kịch phương Tây thường chia thành hai thể loại chính: bi kịch và hài kịch, với nghệ thuật cổ điển Pháp phân loại theo giá trị cao cấp và hạ đẳng Các tác phẩm cao cấp thường mô tả những biến cố lịch sử lớn, trong khi thể loại hạ đẳng tập trung vào hài kịch và cuộc sống thường nhật Bi hài kịch, mặc dù có sự kết hợp giữa nhân vật tốt và xấu, lại không được chấp nhận trong kịch phương Tây Ngược lại, nghệ thuật Cải lương không phân biệt bi kịch và hài kịch, mà luôn hướng tới kết thúc vui tươi và hạnh phúc, phản ánh bản sắc văn hóa vùng miền Người Nam Bộ, với tâm hồn hướng về niềm vui và hy vọng vào cuộc sống hạnh phúc, đồng thời cũng mang nặng âm điệu sầu tư, đặc biệt yêu thích các bài hát vọng cổ chất chứa nỗi buồn Sự kết hợp này thể hiện hai mặt tâm lý của con người Nam Bộ, ảnh hưởng sâu sắc đến bản chất nghệ thuật cải lương.

Nghệ thuật Cải lương và hát bội có nhiều điểm khác biệt rõ rệt Trong khi hát bội chủ yếu phục vụ cho một đối tượng khán giả biết thưởng thức, Cải lương lại hướng đến mọi thành phần khán giả Trang phục và trang điểm của hát bội rất cầu kỳ, với mặt được vẽ theo từng vai diễn, trong khi nghệ sĩ Cải lương chỉ hóa trang mà không vẽ mặt Hành động và lời ca trong hát bội mang tính bi hùng và ước lệ, còn Cải lương thể hiện diễn xuất thực tế và đa dạng hơn Ngôn ngữ trong Cải lương có nhiều từ Hán Việt, nhưng hát bội chủ yếu sử dụng thể phú và thơ Đường, với nhiều câu thoại mang đậm tinh thần Nho giáo Sân khấu hát bội mang nặng nội dung phong kiến và cổ xưa, trong khi Cải lương phong phú hơn với sự kết hợp giữa ca, vũ, nhạc và kịch, bao gồm cả các tuồng hiện đại và lấy cảm hứng từ nhiều nền văn hóa khác Hơn nữa, cách hát của diễn viên Cải lương linh hoạt hơn, phối hợp tốt với nhạc cụ, cho phép họ thể hiện giọng hát tự nhiên và khỏe khoắn hơn Khi một nhân vật xuất hiện lần đầu trong hát bội, sẽ có màn hát giáo đầu để giới thiệu vai diễn, nhưng chỉ những vai trung mới được xưng danh.

Tây Minh đời thạnh trị,

Hải yến hựu hà thanh

Giang san ngợi chữ thái bình,

Xã tác phong điều võ trụ

Quận Đông Thành quê ngụ,

Tôi tánh Lục Vân Tiên,

Dồi gan son giữ trọn ba giềng,

Trau dạ sắt vẹn gìn mười nghĩa

Khi kết thúc buổi diễn, hát bội sẽ chúc mừng vua quan và đất nước trong nghi thức gọi là Chúc Vãn Khác với hát bội, cải lương chỉ thực hiện màn chưng kép trước khi bắt đầu tuồng Màn chưng đào kép này được diễn ra với sự có mặt đầy đủ của toàn bộ diễn viên, họ sẽ ca một bài bản ngắn nhằm giới thiệu mục đích buổi diễn, tóm tắt cốt truyện và giới thiệu các vai diễn, đồng thời chúc phúc cho khán giả và đất nước.

Cải lương Nam bộ là sản phẩm phát triển từ đờn ca tài tử Nam bộ, trong đó đờn ca tài tử được xem là gốc rễ, còn Cải lương là ngọn cây Dù có sự tương đồng, hai loại hình này có những điểm khác biệt rõ rệt Đờn ca tài tử mang tính thính phòng, diễn ra trong không gian nhỏ, cho phép người chơi và người nghe thưởng thức âm nhạc mà không cần thiết bị khuếch đại, thường yêu cầu người nghe cảm nhận bằng trái tim Ngược lại, Cải lương Nam bộ có tính sân khấu, yêu cầu không gian trình diễn với phông màn, ánh sáng, và diễn viên trang phục đẹp mắt để thu hút khán giả, kết hợp giữa âm nhạc và diễn xuất.

Vai trò của Cải lương trong đời sống tinh thần, văn hóa

Cải lương, sau gần 100 năm hình thành và phát triển, đã có nhiều biến đổi để thu hút khán giả, từ nội dung, điệu ca, lời hát đến cách bày trí sân khấu Tuy nhiên, những giá trị cốt lõi như nét bi, sự khôi hài, tính trữ tình và chất anh hùng ca vẫn luôn hiện hữu trong từng vở diễn Cải lương không chỉ nâng cao đời sống tinh thần mà còn truyền tải những bài học đạo đức, giúp con người hướng thiện Ngoài ra, nhiều vở diễn còn phản ánh tiếng nói của lịch sử và chính trị thời kỳ đó.

Vào những năm đầu thế kỷ 20, sân khấu Cải lương đã trở thành lối thoát cho phụ nữ trong bối cảnh phong kiến thực dân, nơi họ phơi bày những phi lý trói buộc con người và kêu gọi cải cách xã hội, đặc biệt là cải cách đời sống phụ nữ Những tác phẩm như “Kim Vân Kiều”, “Cô ba lưu lạc”, “Đoá hoa rừng”, “Tô ánh Nguyệt” và “Chị chồng tôi” đã khẳng định quyền dân chủ và bình đẳng của phụ nữ, cho phép họ lựa chọn cuộc sống của mình và phá bỏ các hủ tục vô lý, từ đó tố cáo và hành động để tự giải thoát.

Sân khấu Cải lương, với các tác phẩm như “Đời cô Lựu” và “Ngọn cờ hiệp nữ”, đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ, phá vỡ rào cản phong kiến và thúc đẩy sự thay đổi trong quan hệ xã hội Là một diễn đàn văn hóa xã hội, Cải lương phản ánh thân phận người phụ nữ và số phận con người qua các chủ đề tình yêu, xung đột cảm xúc Nhiều vở diễn sử dụng cốt truyện tử biệt - sinh ly - chia lìa - gặp lại để làm nổi bật nỗi bi ai, như trong cảnh Thúy Kiều gặp Từ Hải, nơi tình yêu trở thành bi kịch Các tác phẩm kinh điển như “Tiếng trống Mê Linh” và “Người con gái đất đỏ” cũng khai thác sâu sắc chủ đề bi hùng, khắc họa sự đau khổ và khát vọng của con người trong bối cảnh lịch sử.

Cải lương, với các tác phẩm như “Tìm lại cuộc đời” và “Tình yêu và tội phạm”, thể hiện một nỗi buồn trong cuộc sống nhưng không rơi vào bi kịch tuyệt vọng Qua những mất mát và đau thương, con người tìm thấy sức mạnh để vươn lên và hướng về tương lai Tính bi nhưng vẫn trữ tình trong Cải lương giúp khán giả hiểu sâu sắc hơn về thế giới nội tâm của nhân vật, đồng thời nhận ra giá trị nhân bản trong mỗi con người Vai trò của Cải lương là khuyến khích con người vượt qua nghịch cảnh để tìm đến những điều tốt đẹp Mặc dù mỗi nhân vật có một số phận bi ai, nhưng mọi nỗi oan khiên đều được làm sáng tỏ ở kết cục Kết có hậu là đặc điểm nổi bật của sân khấu Cải lương và sân khấu phương Đông, thể hiện nét thẩm mỹ tích cực của sân khấu truyền thống Việt Nam.

Cải lương sử dụng yếu tố hài để làm giảm bớt nỗi buồn trong những chuỗi bi lụy kéo dài, giúp khán giả cân bằng cảm xúc Các nhân vật hài thường xuất hiện thoáng qua, châm biếm và phê phán, mang lại tiếng cười sảng khoái và vui vẻ Nếu thiếu đi yếu tố hài, Cải lương sẽ trở nên nặng nề và ảm đạm Tiếng cười trong Cải lương không chỉ là sự giải trí mà còn chứa đựng nội dung xã hội, phản ánh chân lý và cái đẹp thông qua nghệ thuật Vai trò của Cải lương là sử dụng tiếng cười để cảm hóa khán giả, khuyến khích nhận thức về cuộc sống và lòng hướng thiện.

Cải lương, từ khi ra đời, đã nhanh chóng chiếm lĩnh lòng yêu mến của công chúng và phát triển từ một ban hát thành hàng chục ban khắp các tỉnh Nam Bộ Sân khấu Cải lương không chỉ là nơi giải trí mà còn là không gian giao lưu, nơi thể hiện những tâm tư về đạo đức, lối sống, tình cảm con người, và đặc biệt là những lo lắng của lớp người cấp tiến về vận mệnh dân tộc.

Trần Chánh Chiếu (1868 - 1919) là một nhà văn, nhà báo và nhà cải cách nổi bật tại Việt Nam, có vai trò quan trọng trong phong trào Minh Tân Ông thành lập Nam Trung khách sạn tại Sài Gòn, không chỉ là nơi liên lạc và hội họp mà còn là điểm đến để phát tán tài liệu và tổ chức các buổi biểu diễn âm nhạc nhằm thu hút sự chú ý của công chúng Tại đây, các buổi diễn thuyết về phong trào Minh Tân được diễn ra, phong trào này kêu gọi phát triển công thương nghiệp, mở mang giáo dục và cải cách phong tục, với mục tiêu cuối cùng là lật đổ thực dân Pháp và thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, đưa Kỳ Ngoại hầu Cường đế lên làm vua.

Trong một tháng lưu diễn vở "Pháp Việt nhứt gia" tại Sài Gòn, Chợ Lớn và Nam Kỳ lục tỉnh, Hồ Biểu Chánh đã khéo léo lồng ghép lời kêu gọi dân chúng đóng góp lương thảo cho chúa Nguyễn vào vai diễn của mình Vai trò của Cải lương lúc này không chỉ là nghệ thuật mà còn là kêu gọi dân chúng mua quốc trái và quyên tiền giúp đỡ nước Pháp Nhìn chung, sân khấu Cải lương đã trở thành một sức mạnh quan trọng, góp phần tập hợp công chúng và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên khắp đất nước.

Cải lương, theo nhận định của học giả Vương Hồng Sển, là một nghệ thuật không có nguồn gốc rõ ràng, được hình thành từ việc cải tiến hát bội và phát triển từ ca ra bộ của đờn ca tài tử, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng từ kịch nghệ phương Tây Nghệ thuật này không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là tiếng nói phản ánh lịch sử Việt Nam, đặc biệt là Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh Tính lịch sử của Cải lương được thể hiện qua các giai đoạn phát triển của nó, như được trình bày trong chương 2 của tác phẩm.

CHƯƠNG 2: NHỮNG GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG

Đặc điểm của nghệ thuật Cải lương

2.1.1 Đề tài và cốt truyện

Lúc ban đầu, các vở Cải lương được sáng tác bởi các thầy tuồng hát bội, vì vậy hình thức và văn chương của chúng chịu ảnh hưởng từ hát bội Những tác phẩm đầu tiên thường xoay quanh các tích xưa như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, và Thoại Khanh – Châu Tuấn Tuy nhiên, sau này, các vở tuồng xã hội của các soạn giả kế tiếp đã chuyển hướng sang cấu trúc kịch nói, với việc phân chia thành hồi, màn, lớp, và có mở màn, hạ màn, phản ánh sự tiến triển của hành động kịch.

Cải lương là một loại hình nghệ thuật tình cảm nổi bật với kịch bản thường chứa đựng cốt truyện xúc động và giàu cảm xúc Các soạn giả khai thác triệt để những tình tiết bi thương trong các câu chuyện xã hội và tình cảm, thường lấy cảm hứng từ các tác phẩm Nôm như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, hoặc từ bối cảnh xã hội Việt Nam, các vở tuồng hát bội, và cả các kịch bản Pháp Các điệu hát có thể là ca khúc Pháp hoặc sáng tác mới nhưng được thể hiện trên âm điệu mới, gọi là điệu Tây Loại tuồng Tây ra đời nhờ công lao của hai nghệ sĩ Nguyễn Thành Châu và Huỳnh Thủ Trung, trong đó gánh hát Trần Đắc là đơn vị tiên phong với những vở diễn đặc sắc.

Trong giai đoạn 1928 – 1937, nhạc cải lương đã được làm phong phú nhờ sự ảnh hưởng của tuồng Tây với các tác phẩm nổi bật như “Ngọn cờ hiệp nữ”, “Lửa đỏ lòng son” và “Tay lỡ nhúng tràm” Nghệ sĩ Tư Chơi là người tiên phong trong việc đưa âm nhạc dân tộc từ cổ điển sang hiện đại, ban đầu ông sử dụng những điệu hát Pháp và viết lời Việt cho các vở tuồng Tây như “J’ai deux amours” và “Marinella” Sau đó, ông đã sáng tác nhiều bài hát có giá trị như “Tiếng nhạn trong sương”, “Hoài tình” và “Hòa duyên”, vẫn còn được yêu thích cho đến ngày nay.

Sự xuất hiện của tuồng Phật đã khởi đầu cho một trào lưu mới trong nghệ thuật cải lương, với những vở diễn tái hiện cuộc đời Thích Ca và Phật nhập niết bàn Khi nhận thấy sự phổ biến của tuồng Phật, các gánh hát đã phát triển thêm thể loại tuồng Tiên như Phong Thần và Du Ký, với những cảnh diễn nhanh chóng và các màn đấu phép hấp dẫn Ảnh hưởng từ truyện kiếm hiệp và điện ảnh phương Tây đã dẫn đến sự ra đời của tuồng kiếm hiệp La Mã vào năm 1937, với những nhân vật đeo mặt nạ, sử dụng dao găm, và trang phục giống như các anh hùng thời Trung cổ Để phù hợp với tính chất năng động của sân khấu, ông Mộng Vân cùng đồng nghiệp đã sáng tác những bài bản mới cho tuồng kiếm hiệp La Mã, như Giang Tô, Thủ Phong Nguyệt, và Tân xá phỉ, đánh dấu sự đổi mới trong âm nhạc cải lương.

Trong giai đoạn 1940 – 1945, khi kháng chiến diễn ra, một nhóm nghệ sĩ đã tìm cách đổi mới sân khấu Cải lương qua kịch nói và kịch tả thực xã hội với các tác phẩm như “Tìm hạnh phúc”, “Chị chồng tôi”, và “Khi người điên biết yêu” Khi chiến tranh bùng nổ, sân khấu Cải lương phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của tuồng chiến tranh Các nghệ sĩ Cải lương đã áp dụng kỹ thuật điện ảnh để thể hiện những vở tuồng chiến tranh, trong đó diễn viên mặc quân phục của hai bên đối đầu, như trong các tác phẩm “Đoàn chim sắt”, “Nhật chiến tranh”, và “Đêm lạnh trong tù” Nghệ sĩ Bẩy Cao được xem là một trong những người sáng lập loại hình tuồng này.

Từ năm 1954 đến 1961, sân khấu Cải lương đã chuyển mình sang một hình thức mới, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong trào điện ảnh quốc tế sau Thế chiến thứ Hai Sự tái lập thông thường sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đã đưa nhiều bộ phim ngoại quốc đến Việt Nam, mang lại cho khán giả những trải nghiệm mới mẻ Sân khấu Cải lương đã dễ dàng tiếp nhận các yếu tố văn hóa ngoại lai, với những tác phẩm như tuồng Samson và Dalila, Rashomon được Cải lương hóa Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời của phong trào tuồng lai, với các buổi diễn của sân khấu Thúy Nga và sự xuất hiện của các bộ phim Ấn Độ trong cải lương Ngoài ra, các tuồng Mông Cổ, Ai Cập và Sơn cước cũng liên tục xuất hiện, đánh dấu giai đoạn biến hóa và phát triển mạnh mẽ của sân khấu Cải lương.

Một số đoàn hát từ Bắc di cư vào Nam, như đoàn Kim Chung, đã phát triển từ các đoàn Tố Như (1940), Trần Phềnh và Nhật Tân Ban (1933), tạo ra loại tuồng mới mang tên thi ca vũ nhạc diễm huyền Loại hình này bao gồm nhiều thể loại tuồng khác nhau, trong đó âm nhạc được làm phong phú bằng những điệu ngâm thơ và hát tân nhạc Tuy nhiên, sân khấu Cải lương, dù có sự thay đổi về nội dung hay hình thức nghệ thuật, vẫn luôn giữ gìn và phát huy giá trị của vọng cổ.

Sự phát triển của âm nhạc trong Cải lương bắt nguồn từ nội dung kịch bản sân khấu, chịu ảnh hưởng từ các trào lưu tư tưởng và văn hóa xã hội Các phong trào đổi mới lối sống đã tác động mạnh mẽ đến sân khấu cải lương và sự phát triển âm nhạc Bản Vọng cổ là một minh chứng cho khuynh hướng cải cách ca nhạc, đi cùng với sự cải cách các nhạc khí Dàn nhạc Cải lương ban đầu là dàn nhạc tứ tài tử, nhưng dần được thay thế bằng các nhạc cụ mới, dẫn đến những thay đổi đáng kể Âm nhạc Cải lương thường nhẹ nhàng, sử dụng đờn dây tơ và dây kim, không có kèn trống như hát bội Nhiều nhạc sĩ đã có những nỗ lực tìm tòi trong việc sử dụng và cải cách nhạc cụ, góp phần làm phong phú thêm âm nhạc Cải lương.

1 Năm 1921 Cải lương tuồng Tầu, có dàn nhạc Quảng vào dàn nhạc

2 Năm 1926 Dàn nhạc phương Tây vào dàn nhạc Cải lương Các nhạc công cải tiến nhạc cụ phương Tây vào dàn nhạc Cải lương

3 Năm 1920 Trần Văn Hườn (Ký Hườn) ở Mỹ Tho đã thử cải cách đờn giáo thành hồ hai bầu

4 Cùng năm 1920 Giáo Tiên (Rạch Gía) dùng cây guitare va mandoline móc phím để đàn nhạc tài tử

5 Năm 1925 Tƣ Chơi cải tiến đàn ghi ta phím cao

6 Năm 1925 Sáu Tài chơi violon

7 Năm 1926 Thành đàn ghi ta phím lõm

8 Năm 1927 Bảy Thạch sử dụng cây guitare Hawaienne

9 Năm 1927 Tƣ Niệu sử dụng cây violoncelle

Nguồn: Huỳnh Ngọc Kim Cương

Có sáu thứ đờn thường dùng trong điệu Cải lương như sau:

STT LOẠI ĐỜN NỘI DUNG

1 Đờn kìm Đờn Kìm cũng gọi là “Nguyệt cầm” có hai dây tơ và tám phím

Đờn Tranh, hay còn gọi là đờn Thập Lục, là một loại nhạc cụ có 16 dây Âm thanh của đờn Tranh rất thanh tao nhờ vào việc sử dụng dây kim và kỹ thuật nhấn tiếng với độ ngân vang Giống như cây kìm, đờn Tranh cũng có khả năng thay đổi bực dây để tạo ra những giai điệu phong phú.

Hò tùy theo hơi cao thấp của người ca

Cây Cò, hay còn gọi là đờn Nhị, là một loại nhạc cụ truyền thống của Việt Nam, có hai dây tơ và không có phím Nhạc cụ này được chơi bằng cách sử dụng cây cung để tạo ra âm thanh Đờn Cò được coi là một trong những nhạc cụ quan trọng nhất trong âm nhạc Việt Nam.

Đờn Sến Cây Sến là một loại nhạc cụ có hai dây tơ, tương tự như cây Banjo, với âm thanh nhẹ nhàng và nhiều nốt lạ Đôi khi, đờn này cũng có phiên bản ba dây, mang âm hưởng giống như đờn Tỳ.

5 Guitare Cây Guitare cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm, có sáu dây kim, nhưng thường đờn có năm dây

Cây Violin, hay còn gọi là Vĩ Cầm, là một nhạc cụ có bốn dây tơ và được kéo bằng cung, tương tự như đờn Cò Thông thường, Violin được sử dụng để phụ họa cùng với cây Guitare hoặc cây Tranh trong các bản nhạc Vọng cổ, tạo nên âm thanh hài hòa Tuy nhiên, do âm thanh lớn của nó, Violin ít được sử dụng trong các bản nhạc khác để tránh lấn át các nhạc cụ khác.

7 Cây Sáo Cây hay ống Sáo, hoặc ống Tiêu, cũng có dùng trong điệu

Cải lương, nhưng nó có một bậc Hò, không thay đổi

8 Cây Cuỗn Cây Cuỗn giống nhƣ cây Kèn, nhƣng không có cái Loa

Nguồn: Huỳnh Ngọc Kim Cương

2.1.3 Trang phục và bối cảnh

Trong các vở diễn về đề tài xã hội, diễn viên thường mặc trang phục như trong đời thực, trong khi với các vở lịch sử hay phóng tác từ truyện cổ, y phục được chọn để gợi nhớ xuất xứ của cốt truyện và nhân vật, mặc dù vẫn chỉ mang tính ước lệ Bên cạnh trang phục, khả năng diễn xuất của diễn viên cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong cải lương, nơi diễn viên thể hiện cảm xúc tự nhiên và gần gũi như kịch nói, nhưng thay vì nói, họ ca Diễn viên phải có hồn và sự thuyết phục, cho dù đóng vai ngược giới tính Cách thức ca và diễn của cải lương vẫn gần gũi với thực tế, không cường điệu như hát bội, và mặc dù có múa và diễn võ, những động tác này chủ yếu nhằm hài hòa với lời ca chứ không phải là yêu cầu bắt buộc.

Thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật Cải lương

Trước năm 1910, đờn ca chưa xuất hiện trên sân khấu hay trước công chúng Đến năm 1919, sân khấu Cải lương bắt đầu hình thành từ gánh hát xiệc của ông André Thận, một gánh hát lưu động với rạp được che bằng vải bố Gánh hát này dựng rạp tại các địa điểm mà nó đến Năm 1918, ông Năm Tú đã mua lại toàn bộ ban hát của ông Thận và đổi tên thành Ban hát Cải lương thầy Năm Tú.

Mỹ Tho từng nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh với ban hát Năm Tú, đơn vị tiên phong trong việc phát triển sân khấu Cải lương Ban hát này không chỉ có kịch bản và phục trang độc đáo mà còn sử dụng trang trí mỹ thuật tả thực, bao gồm cả phông cảnh vẽ tay và cảnh thực Các đào kép của gánh thầy Năm Tú đã được hãng đĩa Pathé Phono mời thu âm, giúp Cải lương lan tỏa rộng rãi trên toàn quốc Ông Năm Tú còn thành lập rạp hát riêng để diễn Cải lương thường trực và mời soạn giả Trương Duy Toản viết tuồng Sự ra đời của sân khấu Cải lương thu hút đông đảo khán giả, mang lại doanh thu cao và tiếng tăm cho gánh hát Nhờ tài quảng cáo vượt trội, gánh hát của thầy Năm Tú trở nên nổi danh và mang lại nguồn thu khổng lồ, giúp ông sắm sửa nhiều thứ, trong đó có chiếc ô tô đầu tiên của người Việt ở Nam Kỳ vào năm 1907.

Giữa năm 1919, sau ban hát Năm Tú gánh hát kim thời Đồng bào Nam ở

Mỹ Tho ra đời với sân khấu trang trí đa dạng, từ việc kết hợp tranh vẽ với cây cảnh thật đến chỉ sử dụng phông cảnh Mỹ thuật phục trang của ban được thiết kế theo phong cách tả thực Ban hát Đồng bào Nam là đơn vị tiên phong trong việc diễn Cải lương với đề tài cuộc sống mới, mạnh mẽ bênh vực người phụ nữ và phê phán chế độ phong kiến thực dân, góp phần vào việc đổi mới tư tưởng xã hội.

Ban hát Cải lương ra đời vào năm 1919 với đội ngũ diễn viên nổi tiếng, mang đến nhiều kịch bản mới và các tác phẩm Cải lương cổ Thể loại này đã phát triển thành hai hình thức sân khấu độc đáo.

Cải lương, một hình thức sân khấu mới, đã khẳng định vị thế của mình từ năm 1919 với hai loại trình diễn chính: Cải lương tuồng cổ và Cải lương đương đại, thể hiện qua các ban hát Kim thời và Tân thời Sự khác biệt trong cách trưng bảng hiệu giữa ông Năm Tú và các ban hát này giúp họ khẳng định phong cách riêng mà không vi phạm bản quyền Sân khấu Cải lương đã ổn định với đội ngũ diễn viên mạnh mẽ và tác giả viết kịch bản vững chắc, mang đến nhiều vở diễn hấp dẫn như Kiều gặp Kim Trọng và Cô ba lưu lạc Từ cuối năm 1918 đến hết năm 1919, 12 ban Cải lương ra đời, nhưng chỉ còn lại bốn ban có thể ổn định và phát triển, đánh dấu sự hoàn chỉnh của nghệ thuật Cải lương với đội ngũ tác giả, diễn viên và công chúng yêu thích, tạo nên một đặc phẩm văn hóa của người dân Nam Bộ.

Từ năm 1920, sân khấu Cải lương đã phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều ban hát và diễn viên mới, kết hợp cùng các nghệ sĩ tên tuổi Nghệ thuật Cải lương lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là vào các đô thị lớn như Sài Gòn Sân khấu Cải lương đã chiếm lĩnh đông đảo khán giả miền Nam và dần lan tỏa ra Bắc Kỳ, Trung Kỳ, đánh dấu sự phát triển thực sự của nghệ thuật này.

Năm 1920, Trương Văn Thông thành lập gánh hát Tân Thinh tại Sài Gòn, nổi bật với phong cách cải lương độc đáo và lối ca Tứ đại xuân của Hai Nhiêu, cùng với hề Chín Phót mang lại tiếng cười cho khán giả Đoàn Tân Thinh là gánh hát đầu tiên trang trí sân khấu một cách tả thực và mỹ lệ, với nhiều cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, thu hút đông đảo công chúng tại Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng Nam Bộ.

Sau gánh Tân Thinh, Văn Hí Ban – Võ Hí Ban được thành lập và nhanh chóng trở thành ban hát lớn nhất tại Sài Gòn - Chợ Lớn Sự nổi bật của ban hát này khiến nhiều đoàn Cải lương khác e ngại khi biểu diễn, vì họ lo ngại không thể cạnh tranh về quy mô và sự lộng lẫy.

Năm 1922, Tân Ích Ban khai trương tại Sài Gòn và Chợ Lớn, đánh dấu sự khởi đầu của nhiều gánh hát mới như Kỳ Lân Ban, Tập Ích Ban, và Tái Đồng Ban Gánh Kỳ Lân Ban bắt đầu biểu diễn tại rạp Modern trên đường d’Espagne, nay là đường Lê Thánh Tôn Đến thập niên 1930, Sài Gòn chứng kiến sự xuất hiện của hai gánh cải lương nổi tiếng là Phước Cương và Trần Đắt, trong đó gánh Trần Đắt được thành lập bởi doanh nhân Trần Đắt Nghĩa vào năm 1926.

Vào năm 1930, ban Cải lương Trần Đắt do ông Trần Đắt Nghĩa lãnh đạo từ Cần Thơ đã có buổi diễn "Tấm lòng quê" tại Nhà hát lớn Sài Gòn, nhằm gây quỹ cho các tay quần vợt nổi tiếng tham dự giải vô địch Malaya Ban hát Phước Cương nổi bật với quy chế sinh hoạt nghiêm ngặt, yêu cầu diễn viên ăn mặc lịch sự và cấm các tệ nạn xã hội như rượu, cờ bạc Sân khấu Cải lương từ năm 1927 đã thu hút đông đảo công chúng Nam Bộ, từ nông thôn đến thành phố, bao gồm các tầng lớp lao động, sinh viên và trí thức Giới báo chí Sài Gòn, với nhiều ký giả nổi tiếng, đã tích cực viết bài tuyên truyền và cổ động cho sân khấu Cải lương, giúp nó trở thành một diễn đàn văn nghệ phổ biến và là hình thức giải trí mới được công chúng yêu thích, dẫn đến sự gia tăng số lượng ban hát và sự phong phú trong các hướng diễn Cải lương.

Ban Trần Đắc được thành lập vào năm 1927, chuyên diễn Cải lương tâm lý xã hội Đến đầu năm 1930, ban đổi tên thành Ban Huỳnh Kỳ và bổ sung thêm nhiều diễn viên nổi bật như Hai Nữ, Năm Long, Ba Giỏi, Phùng Há, Tư Bé, Ba Châu, Năm Kiệt Ban Huỳnh Kỳ đã chuyển hướng sang diễn Cải lương dã sử dân gian Việt Nam, tạo ra một phát hiện mới trong thể loại này Tuy nhiên, ban đã tan rã tại Hà Nội sau năm 1930 do giai đoạn thoái trào của sân khấu cải lương, bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế và chính trị xã hội, dẫn đến nhiều ban hát khác cũng gặp khó khăn.

Sang thập niên 1930 - 1940, nhiều gánh mới tiếp tục đƣợc thành lập, tạo nên bức tranh sống động, đa diện của Cải lương đương thời, với các gánh hát Phi

Trong thời kỳ rực rỡ của cải lương, nhiều nghệ sĩ xuất sắc như Phụng, Phụng Hảo, Thái Bình, Hữu Thành, và Hề Lập đã để lại dấu ấn sâu sắc Những gương mặt nổi bật như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, và Út Trà Ôn đã góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật này Thưởng thức nghệ thuật vào thời điểm đó không chỉ là thú vui của người giàu có mà còn trở thành nhu cầu chung của mọi tầng lớp xã hội.

Sài Gòn là nơi khởi nguồn cho nhiều gánh hát, đồng thời cũng là điểm đến giúp các vở tuồng phát triển mạnh mẽ và gắn kết hơn với khán giả.

2.2.3 Giai đoạn 1955 – 1960 Đây là thời kỳ hưng thịnh của Cải lương Sài Gòn Phải kể đến cuộc chiến tranh Việt Pháp chấm dứt bằng hiệp định Giơ – ne – vơ Hòa bình lập lại với niềm hy vọng lớn của toàn dân Rất đông đảo những soạn giả tử chiến khu trở về hiệp lực với những soạn giả tiến bộ làm nên khuôn mặt mới của Cải lương miền Nam

Từ những năm 1950, Sài Gòn đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều soạn giả nổi bật như Năm Châu, Tư Chơi, và Trần Hữu Trang, cùng với những người mới như Điêu Huyền và Lê Khanh Theo nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan, giai đoạn từ 1955 đến đầu thập niên 1960 đánh dấu thời kỳ thịnh vượng nhất của Cải lương tại miền Nam, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều đoàn hát như Kim Thanh, Kim Chung, và Thanh Minh Mỗi đoàn hát nổi bật với thể loại riêng, chẳng hạn như Dạ Lý Hương chuyên về tuồng đời sống hiện đại, Kim Chung với tuồng kiếm hiệp, và Thanh Minh khai thác tâm lý xã hội.

Thời kỳ xuống dốc của nghệ thuật Cải lương

Năm 1940, Nhật Bản tiến công Đông Dương, ném bom vào các thành phố lớn mà họ chiếm đóng Trong bối cảnh này, sân khấu Cải lương rơi vào tình trạng khó khăn, nhiều đoàn phải tìm cách xuất ngoại sang Campuchia để biểu diễn ở Biển Hồ, thậm chí có lúc họ phải sống bằng nghề đánh cá thay vì ca hát.

Trong giai đoạn từ năm 1942, bốn đoàn hát Cải lương được thành lập, bao gồm Quốc Gia kịch đoàn, đoàn Hậu Tấn, đoàn Nghề Mới Của Ngày Mai và đoàn Nghề Chung Tuy nhiên, hai đoàn Nghề Mới Của Ngày Mai và Nghề Chung đã tan rã chỉ sau vài tháng hoạt động Năm 1943, miền Bắc đối mặt với nạn đói, dẫn đến sự suy tàn của Cải lương Đến năm 1945, nhiều đoàn Cải lương tiếp tục tan rã do ảnh hưởng của thời cuộc Từ năm 1945 đến 1954, trong bối cảnh toàn dân kháng chiến chống Pháp, xã hội bất ổn khiến các gánh hát Cải lương liên tục hợp rồi lại tan.

Cải lương đã trải qua giai đoạn phát triển rực rỡ từ năm 1954 đến 1968 Tuy nhiên, sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đã diễn ra, đánh dấu cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy nhằm chiếm chính quyền của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên hầu hết lãnh thổ Đây là một trong những chiến dịch quân sự quan trọng nhất và có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính bước ngoặt trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam.

Sân khấu Cải lương tại Sài Gòn đã hoàn toàn tê liệt sau biến cố Tết Mậu Thân (1968), khi xã hội miền Nam bị cuốn vào nhịp sống thời chiến Các hoạt động Cải lương tạm dừng, Giải Thanh Tâm cũng khép lại Dù Cải lương cố gắng gượng dậy, nhưng vào năm 1972, chiến dịch Xuân – Hè khiến sự quan tâm của người dân chuyển sang thời cuộc Đoàn Bạch Tuyết – Hùng Cường ra đời vào cuối năm 1972 nhưng chỉ hoạt động trong chưa đầy một năm trước khi giải tán Tiếp theo là đoàn Tiếng Hát Dân Tộc, nhưng cũng không đạt được thành tích nào trong thời gian ngắn ngủi xuất hiện.

Trong giai đoạn từ 1971 đến tháng 4/1975, cải lương gặp khó khăn và đình trệ do sự cạnh tranh mạnh mẽ từ điện ảnh, khiến khán giả ưu tiên đến rạp chiếu phim hơn là rạp hát cải lương Mặc dù lý do này có phần hợp lý, nhưng không thể hoàn toàn đổ lỗi cho sự cạnh tranh Thời kỳ này cũng chứng kiến nhiều bất ổn xã hội, gây khó khăn trong việc đầu tư và thu hồi vốn cho các vở diễn cải lương Trong khi đó, các chủ rạp phim dễ dàng thu hồi vốn và sinh lời từ việc nhập khẩu phim, đặc biệt trong bối cảnh xã hội ổn định từ thập niên 50 đến gần cuối thập niên 60 trước năm Mậu Thân.

1968), việc thu hồi vốn và sinh lời từ Cải lương là điều có thể tính toán được, an tâm hơn

Nhìn chung, giai đoạn 1971 – 1975 là một nốt trầm buồn cho Cải lương nói chung và sự phát triển, hoạt động của Cải lương tại Sài Gòn nói riêng

Trước đây, nghệ thuật Cải lương đã được hình thành từ sự du nhập của nền kịch nghệ phương Tây và các thể loại như hát bội, ca ra bộ Hiện nay, âm nhạc và xu hướng từ các quốc gia như Hàn Quốc và Mỹ đang tiếp tục ảnh hưởng đến sự phát triển của Cải lương Nhìn lại thập niên 2000, sự giao thoa văn hóa này đã mang đến những thay đổi đáng kể cho nghệ thuật truyền thống này.

Năm 2010 đánh dấu thời kỳ thăng hoa của nhiều dòng nhạc như R&B, Ballad, Hip Hop và đặc biệt là sự thống trị của các nghệ sĩ Teen-Pop Thị trường âm nhạc xuất hiện nhiều nhóm nhạc nam/nữ với phong cách đa dạng, làm cho dòng nhạc Pop trở nên sôi động hơn Các ca sĩ với ngoại hình thu hút và những bước nhảy bắt mắt đã thu hút sự yêu thích của khán giả trẻ Xu hướng này không chỉ phát triển mạnh mẽ ở Mỹ mà còn lan rộng sang Anh và các quốc gia Châu Á, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh, nơi con người cởi mở và năng động với văn hóa mới.

Những cái tên như Spice Girls, Backstreet Boys, Britney Spears và Justin Timberlake đã định hình dòng nhạc Teen-Pop, tiếp tục phát triển vào cuối những năm 2000 với sự xuất hiện của Katy Perry, Lady Gaga, và Rihanna Giai đoạn 2010-2015 chứng kiến sự bùng nổ của EDM, nhạc điện tử phát triển mạnh mẽ nhờ vào Internet và công nghệ 4.0, kế thừa từ disco những năm 1970 với tiết tấu mạnh mẽ Sự phát triển của EDM đã ảnh hưởng đến tất cả các thể loại nhạc chính thống, khiến các nghệ sĩ ngày nay tích hợp các yếu tố EDM vào âm nhạc của họ, đặc biệt tác động mạnh mẽ tới thị trường âm nhạc tại TP Hồ Chí Minh.

Từ năm 2009, TP Hồ Chí Minh chứng kiến sự bùng nổ của nhiều ca sĩ trẻ thể hiện các dòng nhạc như Ballad, nhạc sôi động, Hip Hop, và nhạc Hàn lời Việt từ các bộ phim nổi tiếng Những nghệ sĩ như Noo Phước Thịnh, Đông Nhi, và Bảo Thy đã thu hút sự chú ý của khán giả Sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ các bộ phim và chương trình truyền hình Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ cùng với các nhóm nhạc như Big Bang, SNSD, T-ara, và Super Junior đã làm thay đổi phong cách ăn mặc, thị hiếu âm nhạc và quan điểm nghệ thuật giải trí tại Việt Nam, đặc biệt là ở TP Hồ Chí Minh.

Trong thời gian gần đây, thị trường phim ảnh trở nên phong phú với nhiều thể loại nổi bật như phim tình cảm Hàn Quốc, phim gia đình Đài Loan, phim kiếm hiệp Trung Quốc và phim hành động Mỹ Khán giả có thể dễ dàng thưởng thức những bộ phim này qua truyền hình nhờ sự phát triển của dịch vụ cáp viễn thông như vtvcab và htvcab, cho phép xem các kênh nước ngoài như HBO, Cartoon Network, AXN với nội dung được lồng ghép tiếng Việt và đa dạng chủ đề.

Trong khoảng thời gian đó, Cải lương gần như bị lãng quên giữa nhiều lựa chọn giải trí khác Người dân TP Hồ Chí Minh không còn ngâm nga hay xem Cải lương, mà thay vào đó, họ nghe nhạc Hàn Quốc, xem phim Mỹ và thưởng thức các bộ phim truyền hình dài tập từ Đài Loan.

Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh không chỉ là nơi phát triển nghệ thuật Cải lương mà còn là cầu nối đưa Cải lương đến gần hơn với công chúng Thành phố này đã chứng kiến nhiều thăng trầm của Cải lương và tiếp tục gắn bó chặt chẽ với lịch sử của nó Để củng cố mối liên hệ này, Cải lương cần những giải pháp khai thác hiệu quả nhằm phát triển bản sắc văn hóa và giá trị vốn có của nghệ thuật này.

GIẢI PHÁP KHAI THÁC, PHÁT TRIỂN CÁC GIÁ TRỊ CỦA NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG TẠI TP HỒ CHÍ MINH

Ngày đăng: 16/09/2021, 11:03

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Hai nghiên cứu viên lịch sử truyền khẩu từ Hội đồng Anh là Hugo Frey và Suzanne Joinson (2019), Câu chuyện cải lương Thật và đẹp, Nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Câu chuyện cải lương Thật và đẹp
Tác giả: Hai nghiên cứu viên lịch sử truyền khẩu từ Hội đồng Anh là Hugo Frey và Suzanne Joinson
Nhà XB: Nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2019
3. Nguyễn Tuấn Khanh (2018), Bước đường của Cải Lương, Nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước đường của Cải Lương
Tác giả: Nguyễn Tuấn Khanh
Nhà XB: Nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2018
4. Thiện Mộc Lan (2018), Nữ nghệ sĩ Tiền phong Năm Sa Đéc và Nghệ Thuật Sân Khấu Nam Bộ, Nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nữ nghệ sĩ Tiền phong Năm Sa Đéc và Nghệ Thuật Sân Khấu Nam Bộ
Tác giả: Thiện Mộc Lan
Nhà XB: Nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2018
6. Huỳnh Công Tín (2020), Soạn giả Viễn Châu Tác giả và tác phẩm Vọng cổ, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Soạn giả Viễn Châu Tác giả và tác phẩm Vọng cổ
Tác giả: Huỳnh Công Tín
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ
Năm: 2020
7. Tập thể lớp TOA301.1_LT (2014), Nghiên cứu thị hiếu âm nhạc hiện nay, Bài báo cáo môn Nguyên Lý Thống Kê, Trường Đại học Ngoại Thương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thị hiếu âm nhạc hiện nay
Tác giả: Tập thể lớp TOA301.1_LT
Năm: 2014
11. Hòa Bình (2015). “Thánh địa” cuối cùng của cải lương Sài Gòn, https://plo.vn/van-hoa/thanh-dia-cuoi-cung-cua-cai-luong-sai-gon- Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thánh địa
Tác giả: Hòa Bình
Năm: 2015
30. Trần Phước Thuận (2012). Tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của từ “Cải lương”,http://www.baclieu.gov.vn/vanngheBL/Lists/Posts/Post.aspx?List=0b89385d%2D6949%2D49bf%2Da346%2D97fdc0741fea&ID=15, truy cập ngày 25/08/2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cải lương
Tác giả: Trần Phước Thuận
Năm: 2012
8. Hải Anh (2020). Nghệ thuật sân khấu Cải lương: Một số vấn đề nổi bật trong công tác Thƣ viện Việt Nam, https://idtvietnam.vn/vi/nghe-thuat-san-khau-cai-luong-mot-so-van-de-noi-bat-trong-cong-tac-thu-vien-viet-nam-987, truy cập ngày 05/08/2020 Link
9. Phạm An (2015). Những rạp hát, rạp chiếu phim từng gắn bó với người Sài Gòn xưa giờ ra sao?, https://kenh14.vn/xa-hoi/nhung-rap-hat-rap-chieu-phim-tung-gan-bo-voi-nguoi-sai-gon-xua-gio-ra-sao- Link
10. Nguyễn Thị Trúc Bạch (2015). Cải lương Nam Bộ: thư viện thành phố Cần Thơ,http://cantholib.org.vn:2014/Bai_bao_tap_chi/BTC.132900.PDF, truy cập ngày 05/08/2020 Link
12.Tuấn Giang (2011). Lịch sử cải lương 2, https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16412, truy cập ngày 05/09/2020 Link
13. Đặng Thanh Huyền (2018). Yêu cải lương từ thưở lọt lòng, https://vongco.vn/Vong-co/Yeu-cai-luong-tu-thuo-lot-long-1076.html , truy cập ngày 06/08/2020 Link
14. Thiên Hương (2016). Những giai thoại về Ông Tổ, https://cailuongvietnam.com/newclvn/vi/news/Tim-Hieu-Nghe-Thuat/NHUNG-GIAI-THOAI-VE-ONG-TO-CAI-LUONG-3018/, truy cập ngày 25/08/2020 Link
15. GS – TS Trần Văn Khê (2011). Câu chuyện về lòng yêu nước của cải lương Nam bộ xưa, https://doanhnhansaigon.vn/doi-song-van-hoa/cau-chuyen-ve-long-yeu-nuoc-cua-cai-luong-nam-bo-xua-1020211.html, truy cập ngày 01/09/2020 Link
16. Hoàng Kim. Huyền thoại ông tổ và Ngày sân khấu, https://thanhnien.vn/van-hoa/huyen-thoai-ong-to-va-ngay-san-khau-166170.html, truy cập ngày 25/08/2020 Link
17. Bảo Linh (2019). Giữ sức cuốn hút cho cải lương, https://nhandan.com.vn/tin-chung1/giu-suc-cuon-hut-cho-cai-luong-378382/, truy cập ngày 06/08/2020 Link
18. Nguyễn Ngọc Minh. Nơi ra đời nghệ thuật Cải lương, http://thegioidisan.vn/vi/noi-ra-doi-nghe-thuat-cai-luong.html, truy cập ngày 12/08/2020 Link
19. NVT (2012). Vài cảm nhận về nghệ thuật cải lương, https://cailuongvietnam.com/newclvn/vi/news/Tam-Tinh-Khan-Gia/Vai-cam-nhan-ve-nghe-thuat-cai-luong-340/, truy cập ngày 07/09/2020 Link
20. Quỳnh Nga (2020). Bảo tồn cải lương phải bắt nguồn từ con người, http://cand.com.vn/Chuyen-dong-van-hoa/Bao-ton-cai-luong-phai-bat-nguon-tu-con-nguoi-598159/, truy cập ngày 06/09/2020 Link
21. Hoàng Oanh (2015). Nhà hát Trần Hữu Trang thánh đường mới cho Cải lương, https://tuoitre.vn/nha-hat-tran-huu-trang-thanh-duong-moi-cho-cai-luong-731480.htm, truy cập ngày 16/09/2020 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

DANH MỤC BẢNG - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
DANH MỤC BẢNG (Trang 11)
STT Tên bảng Nội dung bảng Trang Nguồn - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
n bảng Nội dung bảng Trang Nguồn (Trang 11)
Bảng 1. Thống kê tỷ lệ ngƣời thích hoặc không thích Cải lƣơng - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Bảng 1. Thống kê tỷ lệ ngƣời thích hoặc không thích Cải lƣơng (Trang 91)
Dựa vào bảng thống kê về nhu cầu của công chúng đối với một vở Cải lƣơng, ngƣời viết nhận thấy chiếm số tỷ lệ nhiều nhất là khán giả mong muốn  phục dựng các tuồng kinh điển với tỷ lệ 37% - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
a vào bảng thống kê về nhu cầu của công chúng đối với một vở Cải lƣơng, ngƣời viết nhận thấy chiếm số tỷ lệ nhiều nhất là khán giả mong muốn phục dựng các tuồng kinh điển với tỷ lệ 37% (Trang 92)
Bảng 2. Thống kê về nhu cầu của công chúng đối với một vở Cải lƣơng - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Bảng 2. Thống kê về nhu cầu của công chúng đối với một vở Cải lƣơng (Trang 92)
Bảng 4. Thống kê thói quen xem Cải lƣơng của công chúng - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Bảng 4. Thống kê thói quen xem Cải lƣơng của công chúng (Trang 94)
Hình 1. Bàn thờ Tổ Nghề - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 1. Bàn thờ Tổ Nghề (Trang 113)
Hình 5. Ảnh chụp - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 5. Ảnh chụp (Trang 114)
Hình 10. Hình một gánh hát bội ở xứ Đông Dƣơng   - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 10. Hình một gánh hát bội ở xứ Đông Dƣơng (Trang 115)
Hình 12. Chân dung Trần Chánh Chiếu - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 12. Chân dung Trần Chánh Chiếu (Trang 116)
Hình 13. Quảng cáo của khách sạn Nam Hồng Phát năm 1916  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 13. Quảng cáo của khách sạn Nam Hồng Phát năm 1916 (Trang 116)
Hình 17. Chân dung Hồ Biểu Chánh - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 17. Chân dung Hồ Biểu Chánh (Trang 117)
Hình 16. Vở kịch “Vì nghĩa quên nhà” năm 1917  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 16. Vở kịch “Vì nghĩa quên nhà” năm 1917 (Trang 117)
Hình 21. Chân dung Thầy André Thận - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 21. Chân dung Thầy André Thận (Trang 118)
Hình 20. Tuồng “Pháp Việt nhứt gia” - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 20. Tuồng “Pháp Việt nhứt gia” (Trang 118)
Hình 22. Nhà hát Tp. Hồ Chí Minh xƣa.  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 22. Nhà hát Tp. Hồ Chí Minh xƣa. (Trang 118)
Hình 23. Chân dung Trƣơng Duy Toản  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 23. Chân dung Trƣơng Duy Toản (Trang 119)
Hình 26. Rạp hát thầy  Năm Tú năm 2017  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 26. Rạp hát thầy Năm Tú năm 2017 (Trang 120)
Hình 29. Kim – Vân – Kiều truyện bằng chữ quốc ngữ do  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 29. Kim – Vân – Kiều truyện bằng chữ quốc ngữ do (Trang 121)
Hình 30. Tuồng Cải lƣơng Kim Vân Kiều đƣợc Trƣơng Quang  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 30. Tuồng Cải lƣơng Kim Vân Kiều đƣợc Trƣơng Quang (Trang 121)
Hình 33. Hình ảnh cây sáo - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 33. Hình ảnh cây sáo (Trang 122)
Hình 35. Hình ảnh đàn tam -  đàn cò - đàn gáo   - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 35. Hình ảnh đàn tam - đàn cò - đàn gáo (Trang 122)
Hình 39. Hình ảnh Gánh hát Đồng Nữ Ban – gánh hát toàn  nghệ sĩ nữ do cô Ba Viện (hoặc  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 39. Hình ảnh Gánh hát Đồng Nữ Ban – gánh hát toàn nghệ sĩ nữ do cô Ba Viện (hoặc (Trang 123)
Hình 37. Hình ảnh - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 37. Hình ảnh (Trang 123)
Hình 42. Kịch bản các vở Cải lƣơng nổi tiếng - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 42. Kịch bản các vở Cải lƣơng nổi tiếng (Trang 124)
Hình 41. Sơ đồ sự hình thành các gánh hát Cải lƣơng - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 41. Sơ đồ sự hình thành các gánh hát Cải lƣơng (Trang 124)
Hình 44. Nghệ sĩ Thanh Nga nhận giải Thanh Tâm triển vọng vào năm 1958.   Chính giải này trở thành bệ phóng để  Thanh Nga trở thành “nữ hoàng sân khấu”   - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 44. Nghệ sĩ Thanh Nga nhận giải Thanh Tâm triển vọng vào năm 1958. Chính giải này trở thành bệ phóng để Thanh Nga trở thành “nữ hoàng sân khấu” (Trang 125)
Hình 47. Hình ảnh - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 47. Hình ảnh (Trang 126)
Hình 52. Hình ảnh các suất diễn miễn phí cho thiếu nhi  tại Nhà hát Trần Hữu Trang  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 52. Hình ảnh các suất diễn miễn phí cho thiếu nhi tại Nhà hát Trần Hữu Trang (Trang 127)
Hình 54. Hình ảnh rạp Norodom nay trở thành Công ty Xổ số kiến  thiết thành phố ( tại 23, Lê Duẩn,  - Bảo tồn, phát huy nghệ thuật cải lương tại tp  hồ chí minh
Hình 54. Hình ảnh rạp Norodom nay trở thành Công ty Xổ số kiến thiết thành phố ( tại 23, Lê Duẩn, (Trang 128)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w