1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghiên cứu tác động của nợ công, tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia trên thế giới

259 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Công, Tham Nhũng Đến Tăng Trưởng Kinh Tế Tại Các Quốc Gia Trên Thế Giới
Tác giả Hoàng Thị Hạnh
Người hướng dẫn TS. Đặng Thị Ngọc Lan, PGS. TS. Diệp Gia Luật
Trường học Trường Đại Học Tài Chính - Marketing
Chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 259
Dung lượng 2,93 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (17)
    • 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (17)
    • 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU (23)
    • 1.3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU (24)
      • 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu của luận án (24)
      • 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu của luận án (24)
    • 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (25)
    • 1.5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN (26)
    • 1.6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN (28)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN KHUNG LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG, THAM NHŨNG, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (30)
    • 2.1 LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (30)
      • 2.1.1 Khái niệm và phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế (30)
        • 2.1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế (30)
        • 2.1.1.2 Phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế (30)
      • 2.1.2 Lý thuyết và mô hình về các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế (33)
        • 2.1.2.2 Lý thuyết tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế và một số mô hình tiêu biểu (34)
        • 2.1.2.3 Lý thuyết và mô hình tăng trưởng hiện đại (36)
    • 2.2 LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG (38)
      • 2.2.1 Khái niệm và phương pháp đo lường nợ công (38)
        • 2.2.1.1 Khái niệm nợ công (38)
        • 2.2.1.2 Phương pháp đo lường nợ công (39)
      • 2.2.2 Lý thuyết về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế (40)
        • 2.2.2.1 Lý thuyết nợ công tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế (41)
        • 2.2.2.2 Lý thuyết nợ công tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế (42)
        • 2.2.2.3 Lý thuyết cân bằng Ricardo (42)
        • 2.2.2.4 Nợ công có quan hệ phi tuy ến với tăng trưởng kinh tế (43)
    • 2.3 LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (45)
      • 2.3.1 Khái niệm và phương pháp đo lường (45)
        • 2.3.1.1 Khái niệm tham nhũng (45)
        • 2.3.1.2 Các phương pháp đo lường tham nhũng (47)
      • 2.3.2 Lý thuyết về tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế (51)
    • 2.4 LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG, THAM NHŨNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ (57)
    • 2.5 CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI (64)
      • 2.5.1 Các nghiên cứu về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế (64)
        • 2.5.1.1 Các nghiên cứu ở n ước ngoài (64)
        • 2.5.1.2 Các nghiên cứu trong nước (73)
      • 2.5.2 Các nghiên cứu về tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế (74)
        • 2.5.2.1 Các nghiên cứu ở n ước ngoài (74)
        • 2.5.2.2 Các nghiên cứu trong nước (77)
      • 2.5.3 Các nghiên cứu về tác động của nợ công, tham nhũng đến tăng trưởng (78)
        • 2.5.3.1 Các nghiên cứu ở n ước ngoài (78)
        • 2.5.3.2 Các nghiên cứu trong nước (80)
    • 2.6 KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU (81)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (85)
    • 3.1 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU (85)
    • 3.2 PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT VÀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (85)
      • 3.2.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu (85)
      • 3.2.2 Phát triển giả thuyết nghiên cứu và mô tả biến (89)
        • 3.2.2.1 Biến phụ thuộc – Tăng trưởng kinh tế (89)
        • 3.2.2.2 Biến độc lập và biến kiểm soát (90)
      • 3.2.3 Đo lường biến nghiên cứu (98)
    • 3.3 PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG (103)
      • 3.3.1. Các phương pháp ước lượng dữ liệu bảng (103)
        • 3.3.1.1. Phương pháp ước lượng Pooled – OLS (103)
        • 3.3.1.2. Mô hình tác động cố định (FEM) (103)
      • 3.3.2 Kiểm định lựa chọn phương pháp ước lượng (104)
        • 3.3.2.1 Kiểm định Hausman (104)
        • 3.3.2.2 Kiểm định F (105)
      • 3.3.3 Kiểm định sự phù hợp của mô hình (105)
        • 3.3.3.1 Kiểm định đa cộng tuyến (105)
        • 3.3.3.2 Kiểm định phương sai sai số thay đổi (105)
        • 3.3.3.3 Kiểm định tự tương quan (105)
        • 3.3.3.4 Kiểm tra hiện tượng nội sinh bằng phương pháp Durbin-Wu-Hausman 90 (106)
      • 3.3.4 Phương pháp ước lượng theo moment tổng quát (GMM) (106)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (110)
    • 4.1 PHÂN TÍCH THỐNG KÊ MÔ TẢ (110)
      • 4.1.1 Phân tích thống kê mô tả chung (110)
      • 4.1.2 Đặc điểm chung của các nhóm nước nghiên cứu (114)
      • 4.1.3 Thống kê mô tả các biến nghiên cứu (122)
    • 4.2 PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN (127)
    • 4.3 PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (130)
      • 4.3.1 Kết quả kiểm tra tác động phi tuyến của nợ công đến tăng trưởng kinh tế (130)
      • 4.3.2 Kết quả nghiên cứu tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế . 120 (136)
      • 4.3.3 Kết quả nghiên cứu tác động của nợ công, tham nhũng đến tăng trưởng (140)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (146)
    • 5.1 KẾT LUẬN (146)
    • 5.2 HÀM Ý CHÍNH SÁCH (148)
      • 5.2.1 Đối với các nước thuộc nhóm thu nhập cao (148)
      • 5.2.2 Đối với các nước thuộc nhóm thu nhập trung bình cao (149)
      • 5.2.3 Đối với các nước thu nhập trung bình thấp (151)
    • 5.3 HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN (157)
    • 5.4 HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO (158)

Nội dung

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Bảng 1.1 cho thấy GDP thực bình quân đầu người của ba nhóm nước thu nhập cao, thu nhập trung bình cao và thu nhập trung bình thấp, trong đó nhóm nước thu nhập cao có GDP cao hơn gấp 2,8 lần so với nhóm thu nhập trung bình và hơn 6,6 lần so với nhóm thu nhập thấp Sự khác biệt này đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, bắt đầu từ quan điểm của Adam Smith về vai trò của vốn và lao động trong tăng trưởng kinh tế Đến giữa thế kỷ 20, lý thuyết tân cổ điển của Solow và Swan đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ bên cạnh vốn và lao động Tuy nhiên, mô hình này gặp hạn chế trong việc giải thích sự hội tụ thu nhập giữa các quốc gia, dẫn đến sự phát triển của mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro vào năm 1990, trong đó nhấn mạnh vai trò của chi tiêu chính phủ Theo lý thuyết Keynes, chính phủ cần gia tăng chi tiêu để kích thích tổng cầu và duy trì tăng trưởng kinh tế, nhưng việc tăng thuế có thể phản tác dụng Các nền kinh tế còn phải đối mặt với những biến động lớn như thiên tai, dịch bệnh và khủng hoảng kinh tế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế từ năm 2008 đã bước vào giai đoạn suy giảm, buộc Chính phủ phải đối mặt với việc giảm nguồn thu từ thuế và thực hiện các gói cứu trợ cùng chính sách nới lỏng tiền tệ Điều này dẫn đến việc Chính phủ phải vay nợ, làm gia tăng nợ công Mặc dù vay nợ có thể cung cấp nguồn lực cho các dự án đầu tư công chiến lược như cơ sở hạ tầng và giáo dục, nhưng việc gia tăng nợ một cách nhanh chóng và thiếu kiểm soát có thể dẫn đến tình trạng đầu tư công không hiệu quả Hơn nữa, nợ công cao cũng làm tăng lãi suất, ảnh hưởng đến đầu tư khu vực tư nhân, giảm thu nhập và tiết kiệm, từ đó làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Bảng 1.1: D ữ li ệ u GDP BQ Đ N, N ợ công, Tham nh ũ ng trung bình

Nhóm nước GDP BQĐN (USD) Nợ công/GDP Tham nhũng

Nguồn: Tác giả tổng hợp & tính toán từ dữ liệu của IMF, WB

Tham nhũng là một hiện tượng cản trở sự phát triển của nhân loại, xuất hiện từ khi tổ chức Chính phủ được thành lập và không có vùng miền nào miễn nhiễm với nó Nó giống như một căn bệnh ung thư, tấn công vào các bộ phận của xã hội và làm suy yếu các cơ quan quan trọng như văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị Theo Ngân hàng Thế giới, tham nhũng làm sai lệch vai trò của pháp luật và nền tảng thể chế cần thiết cho tăng trưởng kinh tế Tổ chức Minh bạch Quốc tế coi tham nhũng là một trong những thách thức lớn nhất hiện nay, ảnh hưởng đến chính sách công và phân bổ nguồn lực, đặc biệt gây hại cho người nghèo Mặc dù nhiều nước đã thực hiện các biện pháp phòng chống tham nhũng trong suốt 20 năm qua, nhưng hiệu quả vẫn hạn chế, thể hiện qua chỉ số tham nhũng giảm không đáng kể.

Theo Elmendorf và Mankiw (1999), nợ công ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế không chỉ qua việc gia tăng tổng cầu ngắn hạn và giảm dự trữ vốn dài hạn, mà còn tác động đến chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, khả năng chống đỡ cú sốc của hệ thống tài chính và sự độc lập chính trị, uy tín quốc gia Những tác động tiêu cực này đã thể hiện rõ trong các cuộc khủng hoảng nợ công từ những năm 1980, như khủng hoảng tại Mỹ Latinh, khủng hoảng tài chính Đông Á và Đông Nam Á năm 1997, và khủng hoảng nợ công khu vực đồng Euro từ Hy Lạp năm 2009 Mặc dù nguy cơ khủng hoảng nợ công có thể phát sinh ở bất kỳ quốc gia nào, nhưng việc vay nợ vẫn là cần thiết để tận dụng nguồn lực nhàn rỗi, nhận sự hỗ trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế và nâng cao quan hệ quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Theo Reinhart và Rogoff (2009), sau các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn, tỷ lệ thất nghiệp trung bình tăng 7 điểm phần trăm và kéo dài khoảng 4 năm, trong khi sản lượng giảm 9% và kéo dài 2 năm Nợ công gia tăng do Chính phủ giảm thu từ thuế trong bối cảnh suy thoái kinh tế Dữ liệu cho thấy tỷ lệ nợ công toàn cầu gia tăng đáng kể, đặc biệt sau các khủng hoảng tài chính Trong 20 năm qua, nhóm nước thu nhập trung bình kiểm soát nợ công tốt hơn, trong khi nhóm nước thu nhập cao chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ Đến năm 2019, khoảng 50% quốc gia có nợ công chiếm 50% GDP, với nhiều nước như Mỹ, Singapore, và Hy Lạp vượt ngưỡng 100% GDP, trong đó Hy Lạp gần 200% và Nhật Bản trên 200% GDP (theo IMF) Sự gia tăng nợ công có thể gây lo ngại về tính bền vững tài khóa và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, bất chấp các cảnh báo về rủi ro vỡ nợ từ các ngưỡng nợ công tối ưu.

Trong những thập niên qua, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế Các nghiên cứu này thường chia thành hai hướng: một là nợ công có thể thúc đẩy tăng trưởng, và hai là nợ công có thể cản trở tăng trưởng Tuy nhiên, theo các tác giả như Abbas và cộng sự, tác động tích cực của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế là khá hạn chế.

Nghiên cứu của Dreger (2013) cho thấy mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế (TTKT) là phi tuyến, với nợ công ban đầu thúc đẩy TTKT nhưng khi vượt qua ngưỡng nhất định, lại gây gánh nặng cho nền kinh tế Ngưỡng nợ công khác nhau giữa các quốc gia và giai đoạn nghiên cứu, ví dụ, ở một số nước Châu Âu, ngưỡng nợ công là 90-100%/GDP trong giai đoạn 1970-2001 (Checherita và cộng sự 2010) và giảm xuống 67%/GDP trong giai đoạn 1990-2010 (Baum và cộng sự 2013) Đối với các nước OECD, ngưỡng nợ công dao động từ 40% đến 90%/GDP (Padoan và cộng sự 2012) Các nghiên cứu cho thấy ngưỡng nợ công toàn cầu cho cả nước phát triển và đang phát triển rơi vào khoảng 90%/GDP (Presbitero, 2012) đến 115% (Minea và Parent, 2012) Một số nghiên cứu khác chỉ ra ngưỡng nợ công thấp hơn khoảng 64%/GDP cho các nước đang phát triển (Caner và cộng sự 2010) Tikiri N Herath (2016) cho rằng mức nợ tối ưu phụ thuộc vào quy mô Chính phủ và thuế suất, đồng thời nhấn mạnh rằng vay nợ mang lại nhiều lợi ích hơn cho các quốc gia đang phát triển.

Nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy tham nhũng gia tăng nợ công qua nhiều cách, không chỉ làm tăng quy mô chi tiêu công mà còn thay đổi tỷ trọng chi tiêu vào các lĩnh vực như y tế, giáo dục và an ninh quốc phòng (Mauro 1998, Tanzi và Davoodi 2000) Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã xác nhận tác động này, bao gồm nghiên cứu của Grechyna, D (2012) về các nước OECD; González-Fernández và González-Velasco (2014) với dữ liệu từ Tây Ban Nha; và Cooray cùng các cộng sự (2017) nghiên cứu 126 quốc gia từ năm 1996.

2012 và nghiên cứu của Benfratello và cộng sự (2017) và Njangang Ndieupa Henri

(2018) nghiên cứu về 29 nước Châu phi cận Sahara trong giai đoạn từ 2000-2015.

Nợ công được Chính phủ các nước sử dụng như công cụ vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng nó có tính hai mặt Khi nợ công gia tăng vượt ngưỡng nhất định, nó có thể gây áp lực lên chính sách tiền tệ, tài khóa và xếp hạng tín dụng quốc tế Nghiên cứu cho thấy ngưỡng nợ công không cố định và cần được xác định hợp lý theo từng thời kỳ và nhóm nước Việc xây dựng chỉ số cảnh báo giúp các quốc gia quản lý nợ công hiệu quả, tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro Đặc biệt, tác động của nợ công trong bối cảnh tham nhũng cần được xem xét kỹ lưỡng, vì nợ công có thể không nghiêm trọng nếu được sử dụng hiệu quả, nhưng trở nên quan trọng khi bị ảnh hưởng bởi tham nhũng Khủng hoảng nợ công châu Âu từ năm 2009 cho thấy rằng tỷ lệ nợ công cao, như ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp vào năm 2019, làm cho việc cắt giảm nợ trở nên khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh cú sốc lớn như đại dịch Covid-19.

Việc xác định ngưỡng nợ công hợp lý là rất quan trọng để thực hiện hiệu quả chính sách liên quan đến nợ công và chống tham nhũng.

Chủ đề nợ công và tham nhũng luôn mang tính thời sự và cần được nghiên cứu kết hợp, do đó, đây là khoảng trống trong nghiên cứu cần được khai thác sâu hơn Luận án này nhằm làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hai chủ đề quan trọng này.

“Nghiên c ứ u tác độ ng c ủ a n ợ công, tham nh ũ ng đế n t ă ng tr ưở ng kinh t ế t ạ i các qu ố c gia trên th ế gi ớ i”.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu của luận án là phân tích tác động riêng biệt của nợ công và tham nhũng, cũng như tác động đồng thời của cả hai yếu tố này đến tăng trưởng kinh tế (TTKT) của ba nhóm nước: thu nhập cao, thu nhập trung bình cao và thu nhập trung bình thấp Luận án cũng kiểm tra mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và TTKT nhằm xác định ngưỡng nợ công hợp lý cho từng nhóm nước Bên cạnh đó, nghiên cứu còn xem xét ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công đối với tác động của nợ công và tham nhũng lên TTKT Cuối cùng, từ các kết quả nghiên cứu, tác giả sẽ đề xuất các hàm ý chính sách phù hợp cho các quốc gia trong từng nhóm nghiên cứu.

Bài viết này tập trung vào việc kiểm tra mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế (TTKT) nhằm xác định ngưỡng nợ công hợp lý cho các nhóm quốc gia, bao gồm các nước có thu nhập cao, thu nhập trung bình cao và thu nhập trung bình thấp.

Th ứ hai là phân tích tác động của tham nhũng đến TTKT của các nhóm quốc gia:

Thu nhập thấp, thu nhập trung bình cao và thu nhập trung bình thấp.

Phân tích tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế (TTKT) là rất quan trọng, đặc biệt khi xem xét mối quan hệ với tham nhũng ở các nhóm quốc gia khác nhau: thu nhập cao, thu nhập trung bình cao và thu nhập trung bình thấp Việc hiểu rõ ảnh hưởng của nợ công trong bối cảnh tham nhũng sẽ giúp xác định các chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.

Thứ Tư: Đề xuất chính sách dựa trên kết quả nghiên cứu cho các nhóm quốc gia Luận án này nhằm mục tiêu trả lời các câu hỏi nghiên cứu để đạt được những mục tiêu đã đề ra.

1 Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế của ba nhóm quốc gia: thu nhập cao, thu nhập TBC và thu nhập TBT có phải là quan hệ phi tuyến hay không? Nếu có thì ngưỡng nợ công hợp lý cho mỗi nhóm quốc gia có sự khác biệt hay không?

2 Chiều hướng tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế của ba nhóm quốc gia: thu nhập cao, thu nhập TBC và thu nhập TBT có như thế nào và có sự khác biệt giữa các nhóm nước nghiên cứu hay không?

3 Chiều hướng tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế có phải là một hàm số theo tham nhũng hay không trong giai đoạn nghiên cứu đối với ba nhóm quốc gia: thu nhập cao, thu nhập TBC và thu nhập TBT? Nếu có thì tham nhũng có ảnh hưởng như thế nào?

4 Từ các kết quả nghiên cứu nhận được thì hàm ý chính sách nào cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng cho các nhóm nước?

ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là nợ công, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu của luận án còn bao gồm mối quan hệ giữa nợ công và TTKT, giữa tham nhũng và TTKT, giữa nợ công, tham nhũng và TTKT.

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu của luận án

Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào mối quan hệ giữa nợ công, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại 86 quốc gia, được chia thành ba nhóm: quốc gia có thu nhập cao (36 nước), quốc gia có thu nhập trung bình cao (29 nước) và quốc gia có thu nhập trung bình thấp (21 nước) theo phân loại của Ngân hàng Thế giới Nghiên cứu không bao gồm nhóm quốc gia có thu nhập thấp do thiếu hụt dữ liệu, đặc biệt là thông tin về tham nhũng.

Theo phân loại thu nhập quốc dân năm 2018, các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người dưới 1,025 USD được xếp vào nhóm thu nhập thấp, trong khi những quốc gia có thu nhập từ 1,026 USD đến 3,995 USD thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp Các quốc gia có thu nhập bình quân từ 3,996 USD đến 12,375 USD được phân loại vào nhóm thu nhập trung bình cao, và những quốc gia có thu nhập trên 12,376 USD nằm trong nhóm thu nhập cao Tác giả cho rằng việc phân chia theo thu nhập sẽ giúp phản ánh đúng bản chất và đặc điểm của từng nhóm, thay vì chỉ chia thành hai nhóm nước phát triển và đang phát triển Danh sách chi tiết các quốc gia trong mỗi nhóm được trình bày trong phụ lục đính kèm.

Phạm vi thời gian nghiên cứu của bài viết kéo dài từ năm 2000 đến 2019, nhằm phân tích tác động của nợ công và tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn Lý do chọn khoảng thời gian này là do dữ liệu về tham nhũng chỉ được thu thập đầy đủ từ năm 2000, cùng với việc số liệu từ Ngân Hàng Thế Giới chỉ công bố đến năm 2019 Ngoài ra, đại dịch Covid-19 từ năm 2020 đã gây ra những biến động trong dữ liệu, và đến cuối năm 2021, dịch bệnh vẫn chưa được kiểm soát hoàn toàn, do đó nghiên cứu không xem xét ảnh hưởng của đại dịch đến mối quan hệ giữa các biến trong giai đoạn này.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp phân tích định lượng để đánh giá tác động của nợ công và tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời xem xét sự tương tác giữa hai yếu tố này cùng với các biến kiểm soát khác Tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính với dữ liệu bảng động không cân bằng, ước lượng các hệ số hồi quy thông qua các phương pháp như POLS, REM, FEM và DGMM.

Tác giả sẽ áp dụng các phương pháp ước lượng thông thường như POLS, FEM, REM cho dữ liệu bảng và thực hiện các kiểm định F, Hausman, kiểm định phương sai sai số thay đổi, đa cộng tuyến, tự tương quan và hiện tượng nội sinh để xác định tính phù hợp của các mô hình với phương pháp ước lượng DGMM Theo Arellano và Bon (1991), DGMM chỉ thích hợp khi các phương pháp ước lượng thông thường gặp phải hiện tượng nội sinh, tự tương quan và phương sai sai số thay đổi.

Sau khi xác định rằng các phương pháp ước lượng không phù hợp, nếu mô hình chỉ gặp hiện tượng nội sinh khiến ước lượng mất tính vững, tác giả sẽ áp dụng phương pháp 2SLS để xử lý Ngược lại, nếu mô hình bị cả hiện tượng nội sinh và các vấn đề khác như tự tương quan hay phương sai sai số thay đổi, tác giả sẽ sử dụng phương pháp GMM để đảm bảo ước lượng đáng tin cậy Kết quả thực nghiệm từ mô hình sẽ là căn cứ để chấp nhận hoặc bác bỏ các giả thuyết nghiên cứu, đồng thời làm rõ các mục tiêu mà luận án đề ra.

ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Ý nghĩa về mặt khoa học của luận án

Nghiên cứu của tác giả chỉ ra rằng hầu hết các nghiên cứu hiện nay, cả trên thế giới và tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào tác động riêng lẻ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế hoặc giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu đánh giá tác động đồng thời của các yếu tố như nợ công, tham nhũng và lạm phát đến tăng trưởng kinh tế Do đó, việc nghiên cứu tác động đồng thời của nợ công và tham nhũng, cũng như tác động của nợ công trong các điều kiện tham nhũng khác nhau đến tăng trưởng kinh tế, sẽ cung cấp một góc nhìn bổ sung cho các nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở các nhóm nước và từng quốc gia cụ thể Luận án này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc hiểu rõ hơn về mối quan hệ phức tạp giữa các yếu tố kinh tế này.

Bài viết trình bày những đóng góp quan trọng về mặt thực tiễn từ việc phân tích tác động của nợ công và tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế (TTKT) Qua việc sử dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả và ước lượng DGMM cho dữ liệu bảng, nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa nợ công và tham nhũng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về ảnh hưởng của chúng đến phát triển kinh tế.

Nghiên cứu trong luận án cho thấy mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế (TTKT) là phi tuyến tính, và điều này được xác định rõ ràng qua ba nhóm nước nghiên cứu.

Nợ công ban đầu có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng khi vượt qua ngưỡng nhất định, tác động này sẽ chuyển hướng Các nhóm quốc gia khác nhau có ngưỡng nợ công khác nhau; các nước có thu nhập cao thường có ngưỡng nợ công cao hơn, trong khi các nước có thu nhập thấp lại có ngưỡng nợ công thấp hơn.

Luận án này cung cấp những kết quả thực nghiệm mới về tác động đồng thời của nợ công và tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, một khía cạnh ít được nghiên cứu trước đây Kết quả cho thấy tác động của nợ công phụ thuộc vào mức độ tham nhũng ở các nhóm nước; cụ thể, nợ công không chỉ phụ thuộc vào quy mô khoản nợ mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm nhận về tham nhũng Khi mức độ cảm nhận tham nhũng tăng cao, tác động tích cực của nợ công đến tăng trưởng kinh tế sẽ giảm đi.

Luận án này nghiên cứu việc phân loại các nhóm nước dựa trên tiêu chí thu nhập, nhằm làm nổi bật sự khác biệt trong các kết quả nghiên cứu liên quan đến nợ công, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế.

Luận án khẳng định rằng chính sách nợ công của Việt Nam hiện nay phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng tương thích với các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.

Kết quả nghiên cứu cung cấp tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách, giúp họ điều chỉnh hiệu quả quản trị nợ công và quản trị tham nhũng Mục tiêu là khai thác tối đa lợi ích từ nợ công và giảm thiểu các tác động tiêu cực, đặc biệt là đối với Việt Nam và các quốc gia khác.

CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN

Luận án này bao gồm 5 chương, không tính phần mở đầu, tài liệu tham khảo và phụ lục Bố cục của luận án được trình bày rõ ràng và cụ thể như sau:

Chương 1 của luận án sẽ giới thiệu đề tài nghiên cứu, bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, cũng như phương pháp nghiên cứu được áp dụng Ngoài ra, tác giả cũng sẽ nêu bật một số đóng góp mới của luận án và trình bày cấu trúc tổng thể của tài liệu.

Chương 2 cung cấp cái nhìn tổng quan về khung lý thuyết liên quan đến nợ công, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, đồng thời phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố này Chương sẽ trình bày các khái niệm cơ bản, phương pháp đo lường nợ công, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, cùng với các lý thuyết có liên quan Ngoài ra, tác giả cũng sẽ tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm làm rõ mối liên hệ giữa nợ công, tham nhũng và tăng trưởng kinh tế.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu trình bày việc xây dựng các giả thuyết nghiên cứu dựa trên lý thuyết kinh tế và kết quả từ các nghiên cứu trước Tác giả phát triển các mô hình để phân tích tác động của nợ công và tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời xem xét mối quan hệ giữa nợ công, tham nhũng và tăng trưởng Cuối cùng, chương này cung cấp thông tin chi tiết về các biến trong mô hình, nguồn dữ liệu và phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận án.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận trình bày các kết quả thống kê mô tả cho các biến trong mô hình Tác giả áp dụng các phương pháp và mô hình hồi quy để phân tích tác động của nợ công và tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, cũng như mối quan hệ tương tác giữa chúng Ngoài ra, chương này còn thực hiện các kiểm định cần thiết, bao gồm kiểm định về khuyết tật của mô hình và kiểm định về sự phù hợp của mô hình, nhằm đảm bảo tính đáng tin cậy của các kết quả hồi quy cho luận án.

Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách Dựa trên các kết quả nghiên cứu đã được thảo luận trong Chương 4, tác giả tổng kết những thành tựu đạt được trong luận án Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất các giải pháp liên quan đến quản trị nợ công, quản trị công và các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia trong mẫu nghiên cứu, đặc biệt là cho trường hợp Việt Nam.

TỔNG QUAN KHUNG LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG, THAM NHŨNG, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

2.1.1 Khái niệm và phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế

2.1.1.1 Khái ni ệ m t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Economic growth refers to the increase in a country's or region's economy, particularly in terms of the value of goods and services produced This concept highlights the importance of economic expansion in enhancing overall productivity and wealth within a specific area.

Một định nghĩa về tăng trưởng kinh tế được biết đến theo Paul A Sumuelson

Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự mở rộng GDP hoặc sản lượng tiềm năng của một quốc gia, thể hiện qua sự dịch chuyển của đường giới hạn khả năng sản xuất ra ngoài Khái niệm này liên quan chặt chẽ đến mức tăng sản lượng tính trên đầu người, quyết định tốc độ nâng cao mức sống của người dân trong nước.

Theo David Begg và các cộng sự, tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là tỷ lệ thay đổi của thu nhập thực tế hoặc sản lượng thực tế, trong khi GDP và GNP đo lường tổng sản lượng hoặc tổng thu nhập của một nền kinh tế (Begg et al., 2008).

2.1.1.2 Ph ươ ng pháp đ o l ườ ng t ă ng tr ưở ng kinh t ế Để kết quả đo lường TTKT phản ánh chính xác với những yếu tố được mô tả trong khái niệm về TTKT thì phương pháp lựa chọn không phải là dễ dàng Chính vì vậy, việc lựa chọn đo lường TTKT theo một cách nào đó luôn gặp phải những hạn chế nhất định Tuy nhiên, một số phương pháp đo lường TTKT thường được sử dụng bao gồm: tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm

1 quốc nội bình quân đầu người, còn gọi là thu nhập bình quân đầu người (Nguyễn Thái Thảo Vy, 2008).

Đo lường TTKT thông qua Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là phương pháp phản ánh giá trị tiền tệ của tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm, bằng các yếu tố sản xuất nội địa Công thức tính GNP cụ thể bao gồm tổng giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước.

GNP được tính bằng công thức GNP = GDP + IFFI – OFFI, trong đó GDP đại diện cho tổng sản phẩm quốc nội, IFFI là thu nhập từ nước ngoài chuyển vào trong nước, và OFFI là thu nhập từ trong nước chuyển ra nước ngoài.

Đo lường tăng trưởng kinh tế bằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một chỉ tiêu quan trọng, phản ánh giá trị tiền tệ của tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong lãnh thổ quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm GDP được tính toán thông qua nhiều phương pháp khác nhau.

Phương pháp theo chi tiêu để tính GDP bao gồm tổng hợp tất cả giá trị tiêu dùng từ các thành phần kinh tế, cụ thể là khu vực Chính phủ (G), khu vực hộ gia đình (C), đầu tư của các doanh nghiệp (I) và xuất khẩu ròng (NX) Công thức tính GDP theo phương pháp này được thể hiện như sau: GDP = C + I + G + NX.

Phương pháp trực tiếp để tính GDP khác với phương pháp theo chi tiêu, vì nó dựa vào chi phí các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp phải thanh toán Các yếu tố này bao gồm tiền công (W), tiền lãi vay (i), tiền thuê (R), thuế gián thu (Ti), khấu hao tài sản cố định (De) và lợi nhuận của doanh nghiệp (п) Mặc dù đây là chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng là thu nhập cho các nhà cung cấp, do đó phương pháp này còn được gọi là phương pháp tính theo thu nhập hay chi phí.

Phương pháp gián tiếp được đề xuất để kiểm tra hai phương pháp tính GDP trước đó, nhằm tránh việc hàng hóa bị tính trùng nhiều lần khi đến tay người tiêu dùng Phương pháp này tính tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất và dịch vụ trong một năm Công thức cụ thể cho phương pháp này được ghi nhận rõ ràng.

GDP = ƩVA, với VA = Giá trị sản lượng – Giá trị sản phẩm trung gian

Cuối cùng là đo lường TTKT bằng Tổng sản phẩm bình quân đầu người, còn gọi là mức thu nhập bình quân đầu người (Per Capital Income – PCI).

Chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP) chia cho tổng dân số của một quốc gia được sử dụng để đo lường tình hình kinh tế Phương pháp này thường được áp dụng trong các nghiên cứu về tình hình kinh tế vì khả năng so sánh giữa các quốc gia rất cao.

Các nhà kinh tế học cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ hội tụ về một trạng thái cân bằng động duy nhất, bất kể mức tư bản trên đầu người ban đầu Các nước nghèo với mức tư bản thấp sẽ tăng trưởng nhanh hơn cho đến khi đạt được tỷ lệ tăng sản lượng và tư bản ở trạng thái cân bằng, trong khi các nước giàu sẽ tăng trưởng chậm hơn cho đến khi mức tư bản giảm xuống điểm cân bằng Giả thuyết hội tụ cho rằng các nước nghèo có thể hưởng lợi từ tiến bộ công nghệ của các nước giàu, giúp họ phát triển nhanh chóng và thu hẹp khoảng cách Nghiên cứu của Barro và cộng sự cho thấy có sự hội tụ về thu nhập giữa các tiểu bang của Mỹ và các nước Châu Âu, mặc dù tốc độ hội tụ chỉ khoảng 2%/năm Hơn nữa, sự hội tụ được giải thích bởi quy luật lợi tức giảm dần của vốn và lao động trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển Tuy nhiên, Romer lại cho rằng để các nước nghèo bắt kịp, họ cần có cơ hội tiếp cận công nghệ tương tự như các nước giàu Phân tích dữ liệu cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhóm nước có thu nhập trung bình cao hơn nhóm nước thu nhập thấp, và khoảng cách về thu nhập đã được rút ngắn sau 20 năm.

2.1.2 Lý thuyết và mô hình về các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế

2.1.2.1 Lý thuy ế t t ă ng tr ưở ng theo tr ườ ng phái Keynes Mô hình Harrod-Domar

Khác với lý thuyết Bàn tay vô hình của Adam Smith, học thuyết Keynes nhấn mạnh vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc duy trì sự ổn định kinh tế Sau Thế chiến thứ hai, các quốc gia công nghiệp đối mặt với một cuộc đại suy thoái nghiêm trọng, buộc họ phải tìm kiếm giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trong bối cảnh này, hai nhà kinh tế học Roy Harrod và Evsay Domar đã độc lập nghiên cứu và phát triển mô hình Harrod-Domar, giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp ở các quốc gia phát triển.

Mô hình Harrod-Domar cho thấy rằng đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, từ công ty đến nền kinh tế, phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư Sự tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ nghịch với tỷ lệ vốn trên đơn vị đầu ra Điều này có nghĩa là tỷ lệ tiết kiệm cao hơn sẽ cho phép đầu tư nhiều hơn vào vốn vật chất, từ đó tăng sản xuất hàng hóa và dịch vụ, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế Tỷ lệ vốn trên đơn vị đầu ra, thường đo bằng sản lượng hoặc thu nhập, cho biết lượng vốn cần thiết để tạo ra một đơn vị đầu ra, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn; tỷ lệ này càng thấp, chứng tỏ vốn được sử dụng càng hiệu quả.

Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện tại gặp hạn chế khi sự phát triển không chỉ phụ thuộc vào đầu tư mà còn vào nhiều yếu tố khác như tiến bộ công nghệ và khấu hao Tăng trưởng kinh tế chỉ gia tăng khi đầu tư hiệu quả, trong khi đầu tư không hiệu quả có thể gây tác động ngược Đặc biệt, các quốc gia đang phát triển thường không có khả năng tích lũy vốn cao, dẫn đến nguồn thu không đủ bù đắp cho chi tiêu, buộc Chính phủ phải vay nợ để tài trợ cho đầu tư.

2.1.2.2 Lý thuy ế t tân c ổ điể n v ề t ă ng tr ưở ng kinh t ế và m ộ t s ố mô hình tiêu bi ể u

LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG

2.2.1 Khái niệm và phương pháp đo lường nợ công

Nguyên tắc ngân sách cân bằng là một yếu tố then chốt trong tài chính công, yêu cầu rằng các khoản chi ngân sách phải tương đương với các khoản thu ngân sách Nguyên tắc này giúp Chính phủ quản lý chi tiêu hợp lý, tránh lạm chi và giảm thiểu nhu cầu tăng thuế hoặc vay nợ Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các khoản thu ngân sách thường không đủ bù đắp cho chi tiêu, dẫn đến việc Chính phủ phải vay nợ, được gọi là nợ công Để đánh giá gánh nặng nợ công đối với nền kinh tế, người ta sử dụng các chỉ tiêu tài chính như tỷ lệ nợ công trên GDP, nợ công so với tổng kim ngạch xuất khẩu, và chi phí lãi vay so với tổng chi tiêu công Ngoài ra, các chỉ tiêu phi tài chính như lãng phí do quản lý kém và tham nhũng cũng được xem xét.

Khi đề cập đến nợ công, mỗi quốc gia có thể áp dụng những tiêu chí đo lường khác nhau Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất với định nghĩa từ các tổ chức tài chính lớn như Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công của một quốc gia được định nghĩa là nghĩa vụ nợ trực tiếp hoặc được thừa nhận của Chính phủ đối với phần còn lại của nền kinh tế và nước ngoài Nợ công thể hiện trách nhiệm trả nợ của khu vực công, bao gồm Chính phủ và các tổ chức công Khu vực Chính phủ được chia thành ba cấp: Trung ương, liên bang và địa phương, trong khi khu vực các tổ chức công bao gồm cả tổ chức phi tài chính và tổ chức tài chính như Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tài chính công khác.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nợ công (nợ của chính phủ trung ương, tổng (% GDP)) bao gồm tất cả các khoản nợ trong và ngoài nước, như tiền tệ, tiền gửi, chứng khoán không phải cổ phiếu và các khoản vay mà Chính phủ phải thanh toán vào một thời điểm nhất định, thường là vào ngày cuối cùng của năm tài chính.

Theo Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14, nợ công tại Việt Nam bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương Nợ Chính phủ là các khoản vay trong và ngoài nước được ký kết nhân danh Nhà nước Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản vay của doanh nghiệp và ngân hàng chính sách được Chính phủ bảo đảm Nợ chính quyền địa phương phát sinh từ việc vay của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Khái niệm nợ công ở Việt Nam hẹp hơn so với định nghĩa của IMF, vì không bao gồm nợ của Ngân hàng Nhà nước và nợ của doanh nghiệp Nhà nước.

Nợ công là hệ quả của bội chi ngân sách hiện tại mà mỗi quốc gia phải đối mặt, buộc Chính phủ có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong tương lai Nghiên cứu này áp dụng khái niệm Nợ công theo định nghĩa của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, phản ánh đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của Chính phủ đối với bên cho vay Khái niệm này không chỉ cho phép tiếp cận các khoản vay mới mà còn tạo điều kiện so sánh giữa các quốc gia, đồng thời là cơ sở để các tổ chức tài chính quốc tế đánh giá và xếp hạng tín dụng trên thị trường tài chính toàn cầu.

2.2.1.2 Ph ươ ng pháp đ o l ườ ng n ợ công

Kết quả ước lượng phụ thuộc vào mô hình, phương pháp lựa chọn và cách đo lường biến Do đó, tính toán giá trị nợ công là kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu Theo lý thuyết, có hai phương pháp xác định giá trị nợ công.

Phương pháp đầu tiên để tính tỷ lệ nợ công là sử dụng giá trị nợ công vào cuối kỳ, thường là vào cuối năm tài chính Cụ thể, tỷ lệ nợ công năm t được xác định bằng cách chia giá trị nợ công vào cuối năm t cho GDP vào cuối năm t Ưu điểm của phương pháp này là dữ liệu thường có sẵn, do đó được nhiều nhà nghiên cứu ưa chuộng Tuy nhiên, nhược điểm là nếu các quốc gia có tỷ lệ lạm phát khác biệt lớn, việc so sánh sẽ không chính xác Hơn nữa, chỉ lấy giá trị nợ công tại một thời điểm không thể phản ánh đầy đủ quá trình hình thành nợ công trong suốt kỳ tính toán, thường là một năm.

Phương pháp thứ hai để tính tỷ lệ nợ công trên GDP là sử dụng giá trị nợ công trung bình, được xác định bằng cách lấy giá trị nợ công vào cuối năm t và năm t-1 chia cho GDP thực tế năm t Các giá trị này đều được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát của từng quốc gia Mặc dù phương pháp này khắc phục được nhược điểm của phương pháp đầu tiên, nhưng dữ liệu thường không sẵn có, khiến nó ít được các nhà nghiên cứu áp dụng.

2.2.2 Lý thuyết về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế

Nghiên cứu về tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế cho thấy có nhiều lý thuyết khác nhau về mối quan hệ này, có thể chia thành ba nhóm chính Thứ nhất, các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng nợ công có thể làm tăng thuế ngắn hạn và dẫn đến vỡ nợ dài hạn, chỉ nên sử dụng trong trường hợp đặc biệt như chiến tranh hay dịch bệnh Quan điểm này được ủng hộ bởi các nhà kinh tế như Adam Smith, Shaviro, Elmendorf và Mankiw Ngược lại, quan điểm thứ hai, theo nhà kinh tế học Keynes, cho rằng nợ công thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng chi tiêu của Chính phủ Cuối cùng, quan điểm của Ricardo cho rằng việc vay nợ hay tăng thuế không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động đa dạng của nợ công đến tăng trưởng, phù hợp với cả ba quan điểm, cho thấy không có lý thuyết nào vượt trội hơn mà việc áp dụng phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.

2.2.2.1 Lý thuy ế t n ợ công tác độ ng tích c ự c đế n t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Quan điểm nợ công tích cực đến tăng trưởng kinh tế cho rằng Chính phủ có thể tác động vào tổng cầu thông qua chi tiêu, theo lý thuyết của John Maynard Keynes Lý thuyết này, ra đời sau cuộc đại suy thoái 1929-1933, nhấn mạnh vai trò của chi tiêu Chính phủ trong việc quyết định tổng cầu Chính phủ có thể sử dụng công cụ vay nợ để kích thích sản xuất khu vực tư nhân và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Mặc dù lý thuyết Keynes đã được áp dụng rộng rãi từ những năm 1970-1980 và giúp nhiều quốc gia vượt qua khủng hoảng, nhưng nó cũng dẫn đến tình trạng lãng phí đầu tư vào các dự án không cần thiết và gây ra sự phát triển quá nóng, dẫn đến lạm phát cao, lãi suất tăng và giảm đầu tư vào khu vực tư nhân.

2.2.2.2 Lý thuy ế t n ợ công tác độ ng tiêu c ự c đế n t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Nợ công có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn bằng cách gia tăng tổng cầu, nhưng trong dài hạn, nó lại làm suy giảm tiết kiệm và tích lũy vốn do lãi suất tăng, dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng (Elmendorf và Mankiw, 1999) Diamond (1965) đã phát triển mô hình tăng trưởng thế hệ chồng chéo để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng Trong khi đó, Barro (1990) chỉ ra rằng nợ công thường có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, vì nghĩa vụ thanh toán nợ trong tương lai buộc chính phủ phải cắt giảm chi tiêu công hoặc tăng thuế, điều này gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng.

Nợ công cao vào năm 2014 đã làm giảm hiệu quả của chi tiêu công đối với tăng trưởng kinh tế dài hạn, đồng thời gây áp lực lên khả năng huy động vốn của khu vực công so với khu vực tư Điều này dẫn đến lãi suất thực tế tăng cao, từ đó làm giảm đầu tư từ khu vực tư nhân (Laubach, 2009).

2.2.2.3 Lý thuy ế t cân b ằ ng Ricardo

Cân bằng Ricardo là một lý thuyết trung lập nghiên cứu tác động của nợ công đến nền kinh tế Theo lý thuyết này, việc Chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách thông qua vay nợ hay cắt giảm thuế không ảnh hưởng đến nền kinh tế nếu không có sự thay đổi trong chi tiêu của Chính phủ Ricardo cho rằng việc vay nợ không làm giảm gánh nặng thuế mà chỉ hoãn nghĩa vụ thuế hiện tại và tăng nghĩa vụ trong tương lai Người tiêu dùng nhận thức rằng gánh nặng thuế của họ không thay đổi, do đó họ không tăng tiêu dùng khi có cắt giảm thuế, mà có xu hướng tiết kiệm để chuẩn bị cho nghĩa vụ thuế tương lai Tổng tiết kiệm quốc gia sẽ không thay đổi vì tiết kiệm tư nhân tăng tương ứng với sự giảm tiết kiệm của khu vực công Năm 1974, Barro đã phát triển lý thuyết này, nhấn mạnh rằng các thế hệ hiện tại và tương lai không thể coi là các chủ thể kinh tế độc lập, và các quyết định tiêu dùng của họ được ảnh hưởng bởi trách nhiệm đối với thế hệ tương lai Thay vì tiêu dùng thêm từ cắt giảm thuế, họ có xu hướng để lại tài sản cho thế hệ sau nhằm bù đắp nghĩa vụ thuế trong tương lai.

2.2.2.4 N ợ công có quan h ệ phi tuy ế n v ớ i t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Khi phân tích tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế, cần nhận thức rằng mối quan hệ này khác nhau giữa các quốc gia Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi trình độ phát triển công nghệ, khả năng chịu đựng nợ và mức độ dễ bị tổn thương của thị trường tài chính trước cấu trúc nợ công Điều này cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, lý thuyết về mối quan hệ phi tuyến này vẫn chưa được làm rõ, mà chỉ được chứng minh qua các nghiên cứu thực nghiệm đã được công bố.

LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

2.3.1 Khái niệm và phương pháp đo lường

2.3.1.1 Khái ni ệ m tham nh ũ ng

Khái niệm tham nhũng có thể khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu, nhưng nhìn chung vẫn có những điểm chung nhất định Dưới đây là một số định nghĩa về tham nhũng được công nhận rộng rãi hiện nay.

The Cambridge International Dictionary defines corruption as illegal, bad, or dishonest behavior, particularly by individuals in positions of power This definition closely aligns with that of the Oxford International Dictionary, which also highlights dishonest or illegal actions associated with those in authority.

Tổ chức Minh bạch Quốc tế nhằm ngăn chặn tham nhũng và thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm và tính toàn vẹn trong xã hội Theo định nghĩa của tổ chức, tham nhũng được hiểu là lạm dụng quyền lực được ủy thác vì lợi ích cá nhân.

The Control of Corruption index is one of six components of the Worldwide Governance Indicators developed by the World Bank It is defined as the perception of the extent to which public power is exercised for private gain, encompassing both petty and grand corruption, as well as the "capture" of the state by elites and private interests.

Đa số khái niệm về tham nhũng đều liên quan đến khu vực công, được chia thành hai dạng chính: tham nhũng nhỏ (tham nhũng vặt) và tham nhũng lớn Tham nhũng vặt xảy ra giữa công dân và những người có chức vụ, quyền hạn trung bình hoặc thấp, thường thấy tại các đơn vị cung cấp dịch vụ công như cơ quan hành chính, trường học và bệnh viện Ngược lại, tham nhũng lớn diễn ra giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước với quan chức từ cấp trung đến cấp cao, thuộc các cấp chính quyền như huyện, tỉnh, hoặc trung ương Tham nhũng vặt thường liên quan đến số tiền nhỏ và chỉ nhằm giải quyết các vấn đề tức thời.

2 https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/english/corruption

3 https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/corruption?q=corruption

4 https://www.transparency.org/en/what-is-corruption

Tham nhũng lớn liên quan đến số tiền lớn và có khả năng tác động đến các chính sách kinh tế, gây cản trở phát triển và làm suy yếu lòng tin của nhân dân Nó dẫn đến gia tăng bất bình đẳng, nghèo đói và chia rẽ xã hội Một loại tham nhũng đặc biệt được nhận diện gần đây là tham nhũng chính sách, diễn ra qua các văn bản và quyết định của những người có quyền lực nhằm điều chỉnh chính sách theo lợi ích cá nhân Khác với các loại tham nhũng khác thường diễn ra bí mật, tham nhũng chính sách thường công khai và nếu không được phát hiện, sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội.

Trong nghiên cứu này, khái niệm tham nhũng được định nghĩa là hành vi của cá nhân hoặc nhóm người có chức vụ và quyền hạn trong khu vực công, khi họ lợi dụng vị trí của mình để thu lợi cá nhân hoặc phục vụ lợi ích nhóm.

2.3.1.2 Các ph ươ ng pháp đ o l ườ ng tham nh ũ ng

Tham nhũng là một vấn đề toàn cầu gây thiệt hại không chỉ về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến văn hóa, xã hội và chính trị của các quốc gia Việc đo lường tham nhũng chính xác là thách thức lớn để đề ra giải pháp phòng chống hiệu quả Hiện nay, một số phương pháp phổ biến để đo lường tham nhũng bao gồm Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, chỉ số Kiểm soát tham nhũng do Ngân hàng Thế giới xây dựng, chỉ số đánh giá rủi ro quốc gia (ICRG) của PRS, cùng với các chỉ số khảo sát môi trường kinh doanh và theo dõi mức chi tiêu công.

Trong nghiên cứu này, tác giả giới thiệu một số thước đo tham nhũng phổ biến, trong đó có Chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perception Index - CPI), được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệm hiện nay.

Chỉ số CPI, được nghiên cứu và phát triển bởi giáo sư Johann Graf Lambsdorff tại Đai học Passau (Đức) theo yêu cầu của tổ chức Minh Bạch Quốc Tế, lần đầu tiên được công bố vào năm 1995 với dữ liệu từ 41 quốc gia Đến năm 2018, chỉ số này đã mở rộng ra 180 quốc gia Quan trọng cần lưu ý, chỉ số CPI không đánh giá mức độ tham nhũng tổng thể ở các quốc gia, mà chỉ phản ánh cảm nhận về mức độ tham nhũng trong khu vực công từ góc nhìn của doanh nhân và chuyên gia quốc tế trong các bối cảnh khác nhau liên quan đến tác động của tham nhũng đến kinh tế thương mại.

Chỉ số CPI ban đầu được tính toán dựa trên bảy cuộc khảo sát từ các nguồn khác nhau, bao gồm Báo cáo cạnh tranh toàn cầu và Công ty tư vấn rủi ro chính trị & kinh tế Để một quốc gia có chỉ số CPI, cần ít nhất hai nguồn dữ liệu Hiện tại, chỉ số CPI được tính toán từ mười ba cuộc khảo sát và đánh giá tham nhũng từ các tổ chức uy tín Mặc dù không phản ánh đầy đủ thực trạng tham nhũng ở mỗi quốc gia, chỉ số này cung cấp cái nhìn từ các nhà phân tích, doanh nhân và chuyên gia toàn cầu Phương pháp tính toán cụ thể chỉ số CPI được thực hiện dựa trên các dữ liệu thu thập được.

Bước 1: Thu thập dữ liệu từ 13 nguồn dữ liệu khác nhau (chi tiết xem Phụ lục 2).

Mỗi nguồn dữ liệu được thu thập phải đảm bảo các tiêu chí nhất định sau để trở thành nguồn dữ liệu hợp lệ.

- Định lượng nhận thức về tham nhũng trong khu vực công;

- Dựa trên một phương pháp đáng tin cậy và hợp lệ, thang điểm áp dụng cho tất cả các quốc gia;

- Được thực hiện bởi một tổ chức đáng tin cậy;

- Cung cấp xếp hạng cho một số lượng lớn các quốc gia;

- Xếp hạng được đưa ra bởi chuyên gia hoặc doanh nhân;

- Tổ chức lặp lại đánh giá của họ ít nhất hai năm một lần.

Bước 2: Chuẩn hóa các nguồn dữ liệu bằng cách chuyển đổi chúng theo thang điểm từ 0 đến 100 Trong thang điểm này, 0 điểm biểu thị mức độ nhận thức tham nhũng cao nhất, trong khi 100 điểm chỉ ra mức độ nhận thức tham nhũng thấp nhất.

Để tính toán chỉ số CPI của một quốc gia, cần lấy mức trung bình của tất cả các điểm số được tiêu chuẩn hóa và làm tròn thành số nguyên Quan trọng là CPI phải được tính từ ít nhất ba nguồn dữ liệu trong tổng số 13 nguồn đã được xác định, nhằm đảm bảo tính khách quan và chính xác.

Bước 4: Báo cáo sai số của thang đo là rất quan trọng Chỉ số CPI đi kèm với sai số chuẩn và khoảng tin cậy, phản ánh sự biến động của điểm số từ các nguồn dữ liệu hiện có cho quốc gia đó.

Chỉ số CPI là một công cụ quan trọng trong việc đo lường tham nhũng, được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu bởi các nhà phân tích nhờ vào tính tiện lợi và độ tin cậy Được phát triển bởi một tổ chức quốc tế uy tín trong suốt 25 năm, chỉ số này được công bố toàn cầu và đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp phòng, chống tham nhũng CPI được đánh giá dựa trên cảm nhận của doanh nhân và chuyên gia tại quốc gia đó, do đó, nó phản ánh trung thực hiệu quả của các chương trình và kế hoạch hành động chống tham nhũng.

LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG, THAM NHŨNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Dựa vào mô hình tăng trưởng chồng chéo của Diamond và Samuelson, cùng với mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) và Ivanyna (2015a, 2015b), bài viết xây dựng các phương trình tối đa hóa hữu dụng cho hộ gia đình và chính phủ Đối với hộ gia đình, giả định có N hộ gia đình trẻ, trong đó cuộc sống được chia thành hai giai đoạn: làm việc (giai đoạn trẻ, t) và nghỉ hưu (giai đoạn t+1) Họ kiếm thu nhập w_t, tiêu dùng c1,t và tiết kiệm s_t để tiêu dùng c2,t+1 ở giai đoạn sau Hộ gia đình cũng quan tâm đến năng suất trung bình lao động y_t và y_t+1 trong cả hai giai đoạn Việc tiêu dùng có thể bị hoãn lại do kỳ vọng trở thành công chức hoặc cơ hội cho thế hệ tương lai Phương trình hàm hữu dụng của hộ gia đình được thể hiện như sau: lnc1,t + βlnc2,t+1 + γ (lnyt + βlnyt+1), trong đó β và γ là tham số trọng số cho tiêu dùng tương lai và tình trạng kinh tế Ngân sách tiêu dùng của hộ gia đình bị giới hạn bởi thu nhập mà họ kiếm được.

Lãi suất tiết kiệm của hộ gia đình được ký hiệu là r, trong khi thuế suất đối với thu nhập từ tiền lương được ký hiệu là t Giả định rằng thu nhập từ tiền lãi tiết kiệm không bị đánh thuế, chúng ta có thể diễn đạt lại các hàm chi tiêu và tiết kiệm ở hai giai đoạn một cách hữu ích.

Trong mô hình kinh tế, giả định rằng số lượng quan chức Chính phủ làm việc trong khu vực công, ký hiệu là εN, được chọn ngẫu nhiên từ N hộ gia đình trẻ Những quan chức này nhận lương tương tự như khu vực tư nhân, ký hiệu là ηw t, trong đó η là tham số phản ánh mức lương tương đối của khu vực công Giống như các hộ gia đình, các quan chức cũng phải chịu thuế thu nhập từ tiền lương với thuế suất tương tự và chỉ làm việc trong giai đoạn trẻ.

Các lựa chọn tiêu dùng và tiết kiệm của nhóm này tương tự như của hộ gia đình, và có thể được diễn đạt qua phương trình sau:

Giả định rằng nguồn vốn công sẽ được sử dụng hoàn toàn trong một kỳ, các quan chức Chính phủ phải tuân thủ ngân sách công và quyết định mức thuế hiện tại, mức vay nợ mới (B t+1) và vốn ngân sách đầu tư công (G t+1) ở giai đoạn tiếp theo để tối đa hóa các mục tiêu chung Sự cân bằng này được thể hiện qua một phương trình cụ thể.

Các doanh nghiệp sản xuất dựa vào hai yếu tố chính là vốn vật chất và vốn con người, được mô tả qua hàm sản xuất Cobb-Douglas Công thức sản xuất có thể được biểu diễn như sau: (1 + η)N + = η + + (1 + ).

Trong đó, chỉ số năng suất D là một hàm số theo công nghệ (A) và vốn đầu tư công trên mỗi lao động (G/(1+ε)N), biểu thị qua phương trình sau:

Với μ là tham số trong khoảng (0 < μ < 1), chúng ta giả định A là yếu tố ngoại sinh Ý tưởng của phương trình (2.36) cho thấy rằng hạ tầng công cộng có tác động tích cực đến năng suất khu vực tư nhân Do đó, để nâng cao năng suất khu vực tư nhân, cần thiết phải tăng cường đầu tư công.

Các hộ gia đình có thể tham gia vào hoạt động bất hợp pháp qua hai hình thức: Thứ nhất, các hộ gia đình làm việc trong khu vực tư cố gắng che giấu thu nhập để tránh thuế từ Chính phủ Thứ hai, các hộ gia đình trong khu vực công có thể chuyển hướng nguồn tài trợ công cho các dự án nhằm phục vụ lợi ích cá nhân Theo Slemrod (2003), tất cả các hộ gia đình đều có xu hướng ác cảm với hành vi bất hợp pháp, điều này dẫn đến sự thay đổi trong mức độ tham nhũng của các quan chức Chính phủ.

Do đó, sở thích tiêu dùng của các hộ tư nhân và các quan chức Chính phủ được viết lại như sau:

Các hoạt động bất hợp pháp của hộ gia đình tư nhân được đo lường bằng v, thể hiện thu nhập không báo cáo cho mục đích thuế, trong khi hoạt động bất hợp pháp của quan chức Chính phủ được đo bằng u, phản ánh tỷ lệ ngân sách công bị sử dụng cho lợi ích cá nhân Giá trị ∅ càng cao cho thấy sự chán ghét đối với các hành vi bất hợp pháp, và sự bất đồng này có liên quan nghịch đảo đến mức độ tham nhũng trung bình trong nền kinh tế Theo Slemrod (2003), nguyên nhân của sự bất đồng này là do trốn thuế yêu cầu các hộ gia đình có ác cảm với hành vi bất hợp pháp dù xác suất bị phạt thấp, và sự sẵn sàng trốn thuế của hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi nhận thức về hiệu quả của Chính phủ Do đó, hộ tư nhân tối đa hóa hữu dụng trong bối cảnh ngân sách bị ràng buộc.

Phần thu nhập không được báo cáo cho mục đích thuế của hộ gia đình có thể được thu hồi để sử dụng riêng Khi thu nhập càng khó che giấu, cơ hội thu hồi lại càng giảm và lợi ích từ việc trốn thuế cũng thấp hơn Do đó, việc tối đa hóa thu nhập trốn thuế và tiết kiệm của hộ gia đình tư nhân được thể hiện qua một phương trình cụ thể.

Phương trình (2.40) chỉ ra rằng trốn thuế làm tăng thuế suất và thu nhập không được báo cáo (∅), đồng thời gia tăng mức độ tham nhũng trung bình trong nền kinh tế Khi mức độ tham nhũng giảm về 0, thu nhập trốn thuế cũng sẽ giảm xuống 0 Nếu các quan chức Chính phủ không tham nhũng, họ sẽ hành động vì lợi ích tốt nhất của hộ tư nhân, từ đó giảm khuyến khích trốn thuế Tỷ lệ (1 + β)/ϕ phản ánh mức độ tham lam; do đó, khi các yếu tố khác không đổi, trốn thuế sẽ làm gia tăng lòng tham trong xã hội.

Cũng như hộ tư nhân, hành vi của các quan chức Chính phủ cần được xem xét Giả định rằng tham nhũng không có sự liên kết hoặc phi tập trung, mỗi quan chức sẽ nhận mức tham nhũng trung bình Các quan chức Chính phủ tối đa hóa lợi ích từ ngân sách công trong khi hạn chế ngân sách tư theo một phương trình nhất định.

- là ngân sách được phân bổ cho mỗi quan chức Chính phủ;

Giá trị đầu tư công trong ngân sách chính thức không phản ánh chính xác giá trị đầu tư công thực tế Chỉ có giá trị đầu tư công thực tế mới có khả năng nâng cao năng suất khu vực tư nhân bằng cách tăng cường lượng vốn bình quân cho mỗi lao động.

Các nguồn tài trợ công có thể bị chuyển hướng bởi quan chức Chính phủ cho mục đích cá nhân, làm giảm hiệu quả của các biện pháp bảo vệ thể chế Điều này tương tự như việc trốn thuế, khi cơ hội che giấu thu nhập càng ít thì khả năng thu hồi nguồn tài trợ càng thấp, dẫn đến lợi ích từ tham nhũng cũng giảm Hơn nữa, các quan chức không phải chịu thuế đối với thu nhập từ việc chuyển hướng các dự án đầu tư công, trong khi họ vẫn phải nộp thuế cho thu nhập từ lương chính thức.

Phương trình phản ánh việc tối đa hóa giá trị thu nhập từ tham nhũng và tiết kiệm của quan chức Chính phủ được thể hiện như sau:

Tham nhũng, giống như trốn thuế, làm tăng thuế suất và chuyển hướng đầu tư công của quan chức để phục vụ lợi ích cá nhân Khi giá trị ngân sách đầu tư công cao hơn so với tiền lương chính thức sau thuế, tham nhũng trở nên hấp dẫn hơn Tuy nhiên, khi tiền lương chính thức tăng, tham nhũng có xu hướng giảm do giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng lên, làm giảm giá trị của hàng hóa từ nguồn đầu tư công bị chuyển hướng Mặc dù vậy, nếu ngân sách công lớn, lợi ích từ việc chuyển hướng ngân sách cho mục đích riêng càng cao Do đó, trốn thuế có thể giảm quy mô ngân sách và tham nhũng, đóng vai trò như một biện pháp kiểm soát tham nhũng Trong dài hạn, nếu mối liên hệ giữa tiền lương và ngân sách cho mỗi quan chức không được cải thiện, tham nhũng vẫn có thể tồn tại, trừ khi có các giải pháp nâng cao chất lượng thể chế Điều này giải thích tại sao tham nhũng vẫn hiện hữu và thay đổi mức độ ở mọi quốc gia hiện nay.

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

2.5.1 Các nghiên cứu về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế

Các nghiên cứu về tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế đã được thực hiện trên nhiều mẫu nước, bao gồm cả quốc gia đang phát triển và phát triển, cũng như các quốc gia thuộc OECD và Châu Âu Đáng chú ý, số lượng nghiên cứu tập trung vào nhóm nước phát triển và đang phát triển chiếm phần lớn trong tổng số nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu cũng rất đa dạng, từ các phương pháp thống kê mô tả cho đến các phân tích phức tạp hơn (Reinhart, C M., & Rogoff, K S., 2010; Abbas, S M., Belhocine, N., ElGanainy).

A A., & Horton, M., 2010) đến phương pháp ước lượng đơn giản như OLS, FE,

Research on dynamic panel data estimation methods, particularly the Generalized Method of Moments (GMM), has been extensively documented by scholars such as Chalk and Tanzi (2002), Elmeskov and Sutherland (2012), Minea and Parent (2012), and Dreger and Reimers (2013) Significant findings have also emerged from studies conducted by researchers including Presbitero (2005), Checherita-Westphal and Rother (2010), Afonso and Jalles (2013), and Woo and Kumar (2015).

Nợ công tác độ ng tích c ự c đế n t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế (TTKT) là hạn chế và phụ thuộc vào một ngưỡng nợ công nhất định Ở phần này, tác giả sẽ trình bày các kết quả nghiên cứu về tác động tích cực của nợ công đơn thuần Cụ thể, những kết quả này chỉ ra rằng nợ công có thể thúc đẩy TTKT khi nằm dưới ngưỡng nợ nhất định, và các thông tin chi tiết sẽ được đề cập ở phần sau của bài viết.

Nghiên cứu của Abbas và Christensen (2010) phân tích tác động của nợ công trong nước đối với tăng trưởng kinh tế ở 93 quốc gia thu nhập thấp và chuyển đổi từ 1975 đến 2004, sử dụng mức tăng GDP BQĐN thực đại diện cho tăng trưởng kinh tế với các phương pháp POLS, SGMM và mô hình FE Kết quả cho thấy nợ công vừa phải trên GDP, không tính đến lạm phát, có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua cải thiện chính sách tiền tệ, phát triển thị trường tài chính, cải thiện thể chế và trách nhiệm giải trình, cũng như tăng cường tiết kiệm và phát triển trung gian tài chính Tuy nhiên, khi tỷ lệ tiền gửi ngân hàng vượt 35%, nợ công trong nước có thể làm suy yếu tăng trưởng kinh tế Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Presbitero (2005), cho thấy nợ công cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển và có mức nợ thấp.

Nghiên cứu của Dreger và Reimers (2013) đã phân tích 12 nước thuộc khối Euro và 18 nước công nghiệp trong giai đoạn 1991-2011, cho thấy mức nợ công bền vững có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Kết quả tương tự cũng được xác nhận trong nghiên cứu của Fincke và Greiner (2015b) với 8 quốc gia mới nổi, bao gồm Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Mexico, Nam Phi, Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ, trong giai đoạn sau khủng hoảng nợ công từ 1980 đến 2012.

Nợ công tác độ ng tiêu c ự c đế n t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Nhiều nghiên cứu cho thấy nợ công có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế (TTKT), đặc biệt tại các quốc gia thu nhập thấp, nơi khả năng quản lý nợ kém Theo Presbitero (2005), nợ công chủ yếu cản trở TTKT ở những quốc gia này Nghiên cứu của Calderón và Fuentes (2013) cũng xác nhận tác động tiêu cực của nợ công đối với TTKT trong 136 quốc gia từ 1970 đến 2010, nhưng nhấn mạnh rằng chất lượng thể chế mạnh và cải thiện môi trường chính sách có thể giảm thiểu tác động tiêu cực này Thêm vào đó, một nghiên cứu dài hạn từ 1961 đến 2012 trên 118 quốc gia cũng chỉ ra rằng nợ công ảnh hưởng xấu đến TTKT, nhưng các yếu tố cải cách chính sách có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng này.

Nghiên cứu cho thấy mối tương quan ngược giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế (TTKT) ở 22 nước thu nhập thấp, 27 nước có thu nhập trung bình thấp (TBT), 33 nước có thu nhập trung bình cao (TBC) và 36 nước có thu nhập cao (TNC) Tuy nhiên, không tồn tại ngưỡng nợ chung cho tất cả các quốc gia, điều này cho thấy chính sách nợ công có thể hiệu quả ở một quốc gia nhưng không phù hợp ở quốc gia khác (Eberhardt và Presbitero, 2015).

Từ năm 1980 đến 2012, nghiên cứu của Fincke và Greiner (2015a) cho thấy 7 quốc gia phát triển, bao gồm 6 nước châu Âu và Mỹ, đều gặp phải tác động tiêu cực của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế Một phương pháp tiếp cận khác được đề xuất bởi Kumar và Woo cũng đã chỉ ra những vấn đề tương tự.

Nghiên cứu của năm 2010 đối với 38 nước phát triển và kinh tế mới nổi từ 1970 đến 2007 cho thấy nợ công ban đầu có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Cụ thể, khi tỷ lệ nợ công tăng thêm 10 điểm phần trăm, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giảm 0,2 điểm phần trăm ở các nước mới nổi.

Một nghiên cứu năm 2015 của cùng nhóm tác giả đã chỉ ra rằng có 0,15 điểm phần trăm đối với các nước phát triển Nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu từ 46 nước phát triển và các nền kinh tế mới nổi, cùng với 33 nước đang phát triển từ năm 1970.

Nghiên cứu của Abbas và các cộng sự (2010) sử dụng phương pháp thống kê mô tả trên dữ liệu của 174 quốc gia trong khoảng thời gian 219 năm (1791-2009) cho thấy rằng tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục thường đi kèm với mức nợ thấp, trong khi nợ cao lại liên quan đến tăng trưởng chậm.

Nợ công có quan h ệ phi tuy ế n đố i v ớ i t ă ng tr ưở ng kinh t ế

Nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế (TTKT) là phi tuyến tính, với sự tồn tại của một ngưỡng nợ công Khi nợ công vượt qua ngưỡng này, tác động của nó đối với TTKT sẽ chuyển từ tích cực sang tiêu cực Tuy nhiên, ngưỡng nợ công này có thể khác nhau tùy theo từng nghiên cứu.

Một trong những nghiên cứu về ngưỡng nợ công tiêu biểu và mang lại cảm hứng cho xu hướng này là nghiên cứu của nhóm tác giả Reinhart, C M., & Rogoff,

K S (2010) Nghiên cứu nghiên cứu mẫu gồm 20 quốc gia phát triển (thu nhập cao) trong giai đoạn từ 1946 đến 2009 và 24 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn từ 1790 đến 2009 chỉ bằng phương pháp phân tích thống kê mô tả, trung bình và trung vị. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với các quốc gia phát triển, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế là thấp khi tỷ lệ nợ công dưới mức 90%/GDP Tuy nhiên khi tỷ lệ nợ công đạt trên 90%/GDP thì tăng trưởng kinh tế sẽ giảm 1% Đối với các nền kinh tế mới nổi thì tăng trưởng kinh tế sẽ giảm 2% khi ngưỡng nợ nước ngoài đạt 60%/GDP và giảm một nữa nếu nợ nước ngoài vượt quá ngưỡng 90%/GDP Sau đó, một số các nhà nghiên cứu khác đã thực hiện kiểm chứng lại ngưỡng nợ công của Reinhart, C M., & Rogoff, K S (2010) bằng cách sử dụng các phương pháp POLS, FE, RE và GMM cũng phát hiện thấy một kết quả tương tự như nghiên cứu của Checherita-Westphal, C., & Rother, P (2010) cho mẫu gồm

Nghiên cứu về 12 nước Châu Âu từ 1970 đến 2001 cho thấy nợ công bắt đầu ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi đạt mức khoảng 70-80% GDP, với ngưỡng phi tuyến khoảng 90-100% GDP, vượt qua ngưỡng này sẽ làm giảm tăng trưởng dài hạn Mối quan hệ tiêu cực giữa thay đổi tỷ lệ nợ công hàng năm và thâm hụt ngân sách cũng được xác định Các yếu tố như tiết kiệm tư nhân, đầu tư công và tổng các yếu tố sản xuất có quan hệ phi tuyến với tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu của Kumar và Woo (2010, 2015) cũng khẳng định ngưỡng nợ công 90% GDP cho các nước phát triển và các nền kinh tế mới nổi, tuy nhiên nghiên cứu năm 2015 chỉ ra rằng có thể tồn tại nhiều ngưỡng nợ công khác nhau Canner và cộng sự (2010) phát hiện ngưỡng nợ công 77% GDP cho các nước phát triển giai đoạn 1980-2008, trong khi Baum và cộng sự (2013) tìm thấy ngưỡng 67% GDP cho 12 nước Euro từ 1990 đến 2010 Ngược lại, Minea và Parent (2012) xác định ngưỡng nợ công cao hơn là 115% GDP cho 20 nước phát triển và 24 nền kinh tế mới nổi từ 1945 đến 2009 Các tác giả nhấn mạnh cần có thêm bằng chứng trước khi đưa ra khuyến nghị chính sách liên quan đến tình hình kinh tế.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về mối quan hệ phi tuyến và ngưỡng nợ công tại các nước đang phát triển, bao gồm cả những quốc gia có thu nhập trung bình và thu nhập thấp Một trong những nghiên cứu đáng chú ý nhất là của Pattillo, C., Poirson, H., và Ricci, L A., được thực hiện trong một khoảng thời gian dài.

KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU

Ngày nay, vay nợ trở thành một phần thiết yếu trong nền kinh tế, từ cá nhân đến quốc gia Cá nhân và tổ chức vay nợ để tối ưu hóa dòng tiền và kiểm soát tài chính, trong khi quốc gia huy động nguồn lực để gia tăng vốn vật chất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đầu tư vào tri thức Tuy nhiên, việc vay nợ cũng tiềm ẩn rủi ro, như đã thấy trong các cuộc khủng hoảng nợ ở Mỹ Latin thập niên 1980, khủng hoảng tài chính Thái Lan 1997-1998 và khủng hoảng nợ khu vực Euro sau khủng hoảng tài chính 2007 tại Mỹ Những sự kiện này đã dẫn đến việc nhiều tổ chức tài chính lớn phải sát nhập để tồn tại.

Khủng hoảng nợ công đã xảy ra ở nhiều quốc gia như Mỹ với các vụ phá sản của Countrywide Financial, Bear Stearns, Lehman Brothers và Washington Mutual, cũng như ở Anh với Northern Rock và tại châu Âu với Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha Một số nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng này là do việc tiếp cận khoản vay dễ dàng, lãi suất thấp và chi tiêu vượt mức so với tốc độ tăng trưởng kinh tế Theo Tanzi và Davoodi (2002), sự gia tăng chi tiêu công thường xuất phát từ tham nhũng Mauro (1998) cũng nhấn mạnh rằng tham nhũng không chỉ làm tăng quy mô chi tiêu công mà còn làm thay đổi cấu trúc chi tiêu, chuyển hướng từ các lĩnh vực quan trọng như giáo dục và y tế sang các khoản chi tiêu ít minh bạch hơn như quốc phòng Những tác động này cho thấy tham nhũng là một kênh quan trọng ảnh hưởng đến nợ công.

Các nghiên cứu về lý thuyết tăng trưởng nội sinh cho thấy rằng sự can thiệp của Chính phủ thông qua chi tiêu là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, nhưng quan điểm về ảnh hưởng của nợ công đến tăng trưởng lại đa dạng, bao gồm quan hệ tích cực, tiêu cực và trung tính Các nghiên cứu từ năm 2010 cho thấy tồn tại một mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, với một ngưỡng nợ công nhất định Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu trước đây tập trung vào các nước Euro và OECD, thiếu sự phân tách theo nhóm thu nhập, dẫn đến các đề xuất chính sách không phù hợp với các nước đang phát triển Do đó, luận án này đề xuất việc phân chia các đối tượng nghiên cứu thành các nhóm nhỏ hơn theo thu nhập để phân tích tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế, từ đó xác định ngưỡng nợ công hợp lý và đưa ra các hàm ý chính sách thiết thực hơn, đặc biệt trong bối cảnh nợ công toàn cầu đang gia tăng và quản trị nợ công trở nên căng thẳng sau đại dịch Covid-19.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế (TTKT) ở các quốc gia chuyển đổi và đang phát triển, với kết quả trái chiều: có nghiên cứu cho rằng tham nhũng là yếu tố tích cực, trong khi một số khác lại khẳng định tác động tiêu cực của nó Đặc điểm chung của các nghiên cứu này là thường chỉ xem xét các mẫu nước đồng nhất hoặc quy mô lớn mà không phân loại theo thu nhập Hơn nữa, nợ công và tham nhũng có mối quan hệ tương tác phức tạp, ảnh hưởng lẫn nhau và đến TTKT Do đó, việc nghiên cứu tác động của tham nhũng và nợ công trong bối cảnh cụ thể của từng nhóm nước là cần thiết, nhằm hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa hai yếu tố này và đưa ra những gợi ý chính sách hợp lý cho quản trị nợ công và phòng chống tham nhũng.

Theo dữ liệu nợ công trung bình của các nhóm nước được nghiên cứu, sau khủng hoảng nợ công Châu Âu bắt đầu từ năm 2011, tỷ lệ nợ công trung bình của các nhóm nước đều gia tăng Luận án này nhằm khám phá ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công Châu Âu đến tình hình kinh tế của các nhóm nước.

Chương này tổng hợp khung lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm về tác động của nợ công và tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế (TTKT) Nội dung bao gồm các khái niệm, phương pháp đo lường, lý thuyết và mô hình liên quan đến nợ công và tham nhũng Đồng thời, chương cũng trình bày mối quan hệ giữa nợ công, tham nhũng và TTKT, cùng với các kết quả nghiên cứu từ các quốc gia trên thế giới và Việt Nam, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về vấn đề này Cuối cùng, tác giả thảo luận về khoảng trống nghiên cứu để làm cơ sở cho luận án.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Ngày đăng: 17/05/2022, 05:19

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w