BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG THỪA CÂN, BÉO PHÌ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GEN, THÓI QUEN DINH DƯỠNG, HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC Ở TRẺ MẦM NON LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI – 2020 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG THỪA CÂN, BÉO PHÌ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GEN, THÓI QUEN DINH DƯỠNG VÀ HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC Ở TRẺ MẦM NON Chuyên ngành Dinh dưỡng Mã số 9720401 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Người hướng dẫn khoa học HÀ NỘI – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2 1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại 36 trường mầm non công lập đại diện cho 3 vùng đặc trưng của Hà Nội gồm:
+ Vùng trung tâm nội đô: quận Hoàn Kiếm (18 trường)
+ Vùng ven nội đô: quận Hoàng Mai (9 trường)
+ Vùng nông thôn: huyện Đông Anh (9 trường)
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 6 năm 2020
Nghiên cứu này tập trung vào trẻ mầm non tại quận Hoàn Kiếm, quận Hoàng Mai và huyện Đông Anh, Hà Nội Đối tượng thu thập thông tin bao gồm những người chăm sóc trẻ tại nhà và giáo viên trực tiếp giảng dạy tại trường.
Trong nghiên cứu này, đối tượng là trẻ mầm non đang theo học tại các trường mầm non, được sự đồng ý của gia đình Tất cả trẻ đều không có bất thường hay bệnh lý liên quan đến cột sống.
+ Trẻ từ 24 đến 72 tháng tuổi
+ Người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở nhà: có khả năng và điều kiện trả lời vào bộ câu hỏi tự điền;
+ Cô giáo trực tiếp nuôi dạy trẻ hàng ngày
+ Những trẻ đang mắc bệnh cấp tính hoặc bệnh mạn tính như lao, nhiễm HIV/AIDS hoặc các bệnh mà béo phì là một triệu chứng của bệnh
+ Người chăm sóc trẻ hoặc cô giáo không hợp tác nghiên cứu hoặc những cô giáo không trực tiếp nuôi dạy trẻ ở lớp
2 3 1 Thiết kế nghiên cứu: Chia làm 2 giai đoạn
- Giai đoạn 1: Mô tả cắt ngang
- Giai đoạn 2: Nghiên cứu bệnh-chứng
- Giai đoạn 1: Áp dụng công thức tính ước lượng một tỷ lệ cho một quần thể: Áp dụng công thức: n Z 12 /2 p (1 p )
Tỷ lệ trẻ mắc bệnh tay chân miệng (TC, BP) được xác định là 0,13, dựa trên nghiên cứu thử nghiệm trên 300 trẻ mầm non tại các khu vực Hoàn Kiếm, Hoàng Mai và huyện Đông Anh.
: Sai số tương đối, là tỷ lệ sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và quần thể:=0,042;
Z 2(1-α/2) : hệ số tin cậy, với mức ý nghĩa thống kê = 0,05, tương ứng với độ tin cậy là 95% thì Z (1-α/2) = 1,96 ;
Thay các giá trị vào tính được cỡ mẫu tối thiểu là n 574, thêm 5% không đáp ứng được 15 300 trẻ tiểu học
Sau khi tiến hành điều tra 16.550 trẻ, loại trừ những trường hợp vắng mặt trong quá trình cân đo và lấy mẫu tế bào niêm mạc má, cùng với việc không nhận được phản hồi từ phụ huynh và giáo viên mầm non, nghiên cứu đã thu thập được 14.720 mẫu đủ điều kiện để phân tích Trong số đó, có 14.720 trẻ mầm non, trong đó 4.615 trẻ đến từ quận Hoàn Kiếm.
4871 trẻ ở Hoàng Mai và 5234 trẻ ở Đông Anh), 14 720 người chăm sóc trẻ và
930 cô giáo nuôi dạy trẻ ở 465 lớp (mỗi lớp 2 cô giáo)
Cỡ mẫu trong mô hình tương tác giữa gen và môi trường được xác định thông qua phần mềm Quanto, phục vụ cho nghiên cứu bệnh chứng Các thông số được sử dụng được ước tính từ những nghiên cứu trước đây tại Việt Nam cũng như trong các dân tộc Châu Á.
Tỷ lệ mắc béo phì ở trẻ 1-5 tuổi: 4,5 %7
Số SNP đưa vào khảo sát: 3
- Sai số loại I (α): 0,01 với giả thuyết kiểm định 2 phía đã điều chỉnh; lực mẫu là 0,85
Tỷ lệ alen quan tâm (minor alen) là 0,15-0,3 với mô hình di truyền
Tỷ lệ tương tác giữa các yếu tố môi trường và di truyền có thể được xác định với tỷ lệ đối tượng từ 0,2 đến 0,3 Ảnh hưởng chính của di truyền và môi trường đều có giá trị là 1,25, trong khi ảnh hưởng tương tác giữa gen và môi trường dao động từ 3,0 đến 6,0.
Tỷ lệ mắc bệnh trong nghiên cứu là 1:2, với cỡ mẫu dự kiến là 320 trẻ béo phì và 640 trẻ bình thường Cuối cùng, kết quả thu thập thực tế cho thấy có 354 trẻ bị béo phì và 708 trẻ bình thường.
2 3 3 Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu nhiều giai đoạn
* Giai đoạn 1: Chọn mẫu cho nghiên cứu cắt ngang
Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Phòng giáo dục của ba quận/huyện, nghiên cứu đã chọn lọc 36 trường mầm non công lập tại Hà Nội nhằm đảm bảo cỡ mẫu tối thiểu theo tính toán và phù hợp với điều kiện thực tế.
(18 trường thuộc Hoàn Kiếm, 9 trường thuộc Hoàng Mai và 9 trường thuộc Đông Anh) Từ các trường được chọn lấy toàn bộ số trẻ mầm non của mỗi trường
Nhóm nghiên cứu đã gửi thư chấp thuận tham gia nghiên cứu đến các phụ huynh và giáo viên mầm non, đồng thời tiến hành đo lường nhân trắc cho từng trẻ mầm non.
36 trường Sau đó gửi phiếu tự điền đến các cô giáo mầm non và phụ huynh trẻ mầm non
Sau ba tuần gửi phiếu khảo sát đến 36 trường mầm non, nhóm nghiên cứu đã thu thập phiếu tự điền từ phụ huynh và giáo viên mầm non Quá trình này bao gồm kiểm tra, làm sạch và nhập liệu dữ liệu thu được.
Giai đoạn 2: Chọn mẫu cho nghiên cứu bệnh-chứng
* Sau giai đoạn 1 nghiên cứu phân loại được tình trạng dinh dưỡng theo tiêu chuẩn WHO 2006 và 2007, cụ thể như sau:
- Trẻ béo phì: lựa chọn trẻ béo phì theo tiêu chuẩn WHO 2006 cho trẻ dưới 5 tuổi44 và WHO 2007 cho trẻ ≥ 5 tuổi45:
+ Với trẻ dưới 5 tuổi ( +3SD
+ Với trẻ ≥ 5 tuổi (≥60 tháng tuổi) được lựa chọn là béo phì khi có
Z-score BMI/tuổi lớn > +2SD
+ Với trẻ dưới 5 tuổi: Theo WHO 200644, trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường khi Z-score cân nặng/chiều cao nằm trong khoảng -2SD đến
Nghiên cứu này chỉ chọn trẻ em có chỉ số Z-score cân nặng/chiều cao trong khoảng -1SD đến +1SD, nhằm loại trừ những trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng hoặc thừa cân.
+ Với trẻ trên 5 tuổi: Theo WHO 2007 4
Trẻ em có tình trạng dinh dưỡng bình thường khi chỉ số Z-score BMI nằm trong khoảng -2SD đến +1SD Tuy nhiên, để đảm bảo loại trừ những trẻ gần suy dinh dưỡng hoặc thừa cân, nghiên cứu này chỉ chọn những trẻ có Z-score BMI nằm trong khoảng từ -1SD đến trung bình.
Nghiên cứu đã xác định 12.454 trẻ em có tình trạng dinh dưỡng bình thường và 679 trẻ em béo phì Nhóm nghiên cứu đã chọn mẫu bệnh và chứng theo tỷ lệ 1 béo phì : 2 bình thường, đảm bảo các yếu tố như độ tuổi, giới tính và lớp học Trong quá trình thu thập mẫu tế bào niêm mạc má, nhóm nghiên cứu đã lập danh sách bệnh chứng với tỷ lệ 1 béo phì : 3 bình thường, nhằm đảm bảo có đủ mẫu thay thế khi trẻ trong nhóm chứng nghỉ học, từ đó duy trì tỷ lệ 1 béo phì : 2 bình thường.
Nghiên cứu đã chọn ra 354 trẻ béo phì và 708 trẻ bình thường để phân tích, sau khi loại trừ những trẻ béo phì nghỉ học hoặc không cung cấp mẫu tế bào niêm mạc má, dựa trên các điều kiện thực tế.
Sơ đồ 2 1 Sơ đồ các bước nghiên cứu
2 3 4 Biến số và chỉ số:
* Mục tiêu 1: Tình trạng thừa cân, béo phì và các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
- Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu bao gồm tuổi, giới, lớp, cân nặng, chiều cao
- Thông tin từ mẹ (hoặc người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở nhà) liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ:
Bố mẹ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ, với các thông tin như tuổi tác, nghề nghiệp, chiều cao và cân nặng Trong quá trình mang thai, các yếu tố như tăng cân thai kỳ, cân nặng lúc sinh, việc bú sữa mẹ sau sinh và mức độ stress khi mang thai đều đóng vai trò quan trọng trong sức khỏe và sự phát triển của trẻ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 54
3 1 Thực trạng thừa cân, béo phì và một số yếu tố liên quan ở trẻ mầm non Hà Nội
3 1 1 Thực trạng thừa cân, béo phì của trẻ mầm non Hà Nội
3 1 1 1 Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu Bảng 3 1 Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu (n= 14 720)
Bảng 3.1 trình bày các đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu tại ba quận huyện của Hà Nội Nhóm tuổi từ 48 đến 59,9 tháng chiếm gần 42%, trong khi đó, trẻ trên 60 tháng tuổi cũng chiếm khoảng 20% Đáng chú ý, tổng số trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ với tỷ lệ 52,76% so với 47,24%.
Sự phân bố nghề nghiệp của mẹ những trẻ mầm non tại các quận Hoàn Kiếm, Hoàng Mai và Đống Anh khá đồng đều, với khoảng 25% mẹ làm cán bộ viên chức, 25% trong lĩnh vực kinh doanh, và 25% là lao động tự do nông nghiệp Các nhóm ngành nghề còn lại chỉ chiếm tổng cộng khoảng 25%.
3 1 1 2 Tình trạng dinh dưỡng của trẻ mầm non Hà Nội
Bảng 3 2 Phân bố tình trạng dinh dưỡng theo tháng tuổi của đối tượng nghiên cứu (n= 14 720)
* Những trẻ dưới 5 tuổi (n 855); ** tất cả trẻ em mầm non (n 720)
Trẻ em ở huyện Đông Anh có giá trị trung bình về cân nặng và chiều cao thấp hơn so với quận Hoàng Mai và quận Hoàn Kiếm (p