Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu tác động của gia đình đến lao động trẻ em độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi.
Câu hỏi nghiên cứu
Liệu rằng có ít nhất một yếu tố từ gia đình tác động đến việc trở thành lao động của trẻ?
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2016, tập trung vào trẻ em từ 6 đến 15 tuổi Dữ liệu được thu thập từ khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, bao gồm các thông tin liên quan đến trẻ em trong độ tuổi này.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logit để tìm ra mối tương quan giữa các yếu tố gia đình đến xác suất đi làm của trẻ.
Bài nghiên cứu này được chia thành 5 chương, bắt đầu với phần I giới thiệu về đề tài và lý do lựa chọn Phần II cung cấp tổng quan lý thuyết liên quan Tiếp theo, phần III và IV lần lượt trình bày phương pháp nghiên cứu và kết quả đạt được Cuối cùng, phần V sẽ tóm tắt kết luận và nêu ra những hạn chế của đề tài.
II/ TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Phần II của bài viết sẽ được chia thành ba đề mục nhỏ Đề mục đầu tiên sẽ khám phá khái niệm lao động trẻ em, tiếp theo là tổng quan các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này Cuối cùng, đề mục thứ ba sẽ tóm tắt các yếu tố tác động thông qua khung lý thuyết, được minh họa bằng sơ đồ.
2.1 Khái ni ệ m v ề lao độ ng tr ẻ em
Lao động trẻ em, theo quy định của luật pháp quốc tế, chỉ tình trạng trẻ em dưới 18 tuổi làm việc ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần, thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách, đồng thời làm mất cơ hội học tập và phát triển Các định nghĩa về lao động trẻ em có thể khác nhau tùy theo từng quốc gia; tại Việt Nam, thuật ngữ này có thể hiểu là người lao động dưới 16 tuổi thực hiện các công việc vi phạm quy định lao động Theo Công ước 138 của ILO (1973), có những tiêu chí cụ thể để xác định lao động trẻ em.
- Loại công việc và nơi làm việc
- Công việc nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm
- Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ khác (nô lệ, mại dâm, sản xuất – mua bán – tàn trữ ma túy, )
- Thời gian làm việc (không quá 4 giờ/ngày và 20 giờ/tuần đối với người dưới 15 tuổi)
Nghiên cứu về định nghĩa lao động trẻ em vẫn đang tiếp diễn với nhiều tranh cãi Câu hỏi đặt ra là liệu lao động trẻ em chỉ bao gồm lao động có lương hay còn bao gồm cả lao động không lương Thêm vào đó, vấn đề tham gia của trẻ em vào các hoạt động kinh tế của gia đình, như làm việc trên các trang trại hay trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của gia đình, cũng là một điểm đáng lưu ý (Guarcello và cộng sự, 2005).
2.2 T ổ ng quan các nghiên c ứ u liên quan
Schultz (1997) đã phát triển một mô hình về quyết định của hộ gia đình liên quan đến trẻ em, với giả định rằng hộ gia đình nhằm tối đa hóa lợi ích chung Các quyết định này bao gồm số lượng trẻ em, việc học hành hay làm việc của từng đứa trẻ, thời gian giải trí và nhàn rỗi của các thành viên, cùng với tiêu dùng chung trong gia đình Thu nhập của hộ gia đình đến từ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc lương của các thành viên Đối với những hộ gia đình có sản xuất, đầu vào bao gồm tài sản vật chất và sức lao động của các thành viên, đôi khi cũng có sự tham gia của trẻ em Cha mẹ phải cân nhắc giữa thời gian làm việc, giải trí và việc nuôi dạy trẻ, trong khi trẻ cũng phải phân bổ thời gian giữa học tập, vui chơi và làm việc để hỗ trợ gia đình.
Khác với quan điểm của Schultz (1997), Basu và Van (1998) đã chỉ ra rằng nghèo đói là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc cha mẹ buộc phải cho con cái tham gia lao động trẻ em Trong nhiều trường hợp, cha mẹ, đặc biệt là những người có trình độ học vấn cao, không mong muốn con cái họ phải làm việc để hỗ trợ gia đình quá sớm.
Theo nghiên cứu của Edmonds và Pavcnik (2005), trong bối cảnh áp lực tài chính, các gia đình có xu hướng sử dụng lao động trẻ em thay vì lao động trưởng thành Lao động trẻ em không chỉ thay thế mà còn có thể đóng góp vào thu nhập, giúp duy trì sự sống còn của hộ gia đình.
Nghiên cứu của Rosati và Tzannatos (2000), dựa trên mô hình phân tích của Basu và Van (1998), đã chỉ ra rằng thu nhập gia đình ảnh hưởng lớn đến quyết định của trẻ em giữa việc đi làm và đi học Sử dụng phương pháp hồi quy logit thứ bậc với dữ liệu LSMS của Ngân hàng Thế giới năm 1993 và 1998, nghiên cứu cho thấy giáo dục của cha mẹ, đặc biệt là của mẹ, làm giảm khả năng trẻ chỉ đi làm Ngoài ra, chi phí học tập tăng cao dẫn đến khả năng trẻ chỉ đi học cao hơn, giảm số lượng trẻ vừa học vừa làm Mối quan hệ tích cực giữa miễn/giảm học phí và việc đi học cho thấy rằng giảm học phí có thể làm giảm đáng kể lao động trẻ em Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra một số hạn chế, như việc mô hình không giải thích hết biến động lao động trẻ em chỉ dựa vào biến ngoại sinh, vấn đề nội sinh giữa quy mô hộ gia đình và khả năng sinh sản, cũng như tác động của chi phí học tập đến tỷ lệ trẻ bỏ học và lao động trẻ em.
Levison (1991) lập luận rằng cha mẹ đa dạng hóa đầu tư vào con cái để giảm thiểu rủi ro, trong đó một số trẻ được đào tạo sớm để tái tạo nguồn vốn nhân lực Việc cho trẻ đi làm thay vì chỉ học tập có thể liên quan đến những cơ hội mà cha mẹ muốn cung cấp, và Parikh cùng Sadoulet (2005) cho rằng lao động trẻ em đôi khi không ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi của trẻ Cha mẹ có quyền quyết định cho trẻ đi học hay tham gia lao động sản xuất tại nhà, giúp trẻ hiểu biết hơn về công việc và nâng cao năng suất lao động Tuy nhiên, nghiên cứu từ bộ dữ liệu PNAD ở Brazil cho thấy rằng các khuyến nghị về cung cấp tín dụng và xây dựng tài sản trong bối cảnh nghèo đói có thể dẫn đến gia tăng lao động trẻ em.
Nghiên cứu của Emerson và Souza (2002) dựa trên dữ liệu PNAD cho thấy rằng trẻ em là con đầu lòng có khả năng đến trường thấp hơn, trong khi trẻ em sinh ra cuối cùng có ít khả năng làm việc Mối quan hệ nghịch giữa tuổi mẹ và xác suất làm việc của trẻ em nam cùng với việc gia đình lớn hơn thường dẫn đến xác suất làm việc cao hơn cho cả hai giới Ejrnổ và Pửrtner (2002) giải thích rằng cha mẹ thường ra quyết định sinh con một cách tuần tự, dựa vào nguồn lực di truyền và tiềm năng thu nhập của đứa con đầu tiên Khi gia đình có một đứa trẻ với khả năng di truyền cao, họ sẽ ngừng sinh thêm con và tập trung tài nguyên vào đứa con cuối cùng, dẫn đến việc trẻ này nhận được nhiều vốn nhân lực hơn Giới tính cũng ảnh hưởng đến cách đánh giá của phụ huynh về tiềm năng của trẻ, từ đó tác động đến đầu tư vào giáo dục cho trẻ.
Theo Ahmed (1999), lao động trẻ em ở nông thôn thường phổ biến hơn so với thành thị do ngành nông nghiệp có nhu cầu lao động lớn nhưng không yêu cầu tay nghề cao Hơn nữa, quy mô hộ gia đình cũng có thể ảnh hưởng đến công việc của trẻ em (Edmonds, 2007) Đặc biệt, trong những gia đình có nhiều thành viên phụ thuộc, nhu cầu chăm sóc và chi tiêu sẽ tăng lên, từ đó tạo ra áp lực lao động cho trẻ em.
Khung lý thuyết được hình thành từ việc tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến lao động trẻ em, cho thấy rằng vấn đề này chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như hoàn cảnh gia đình, đặc điểm cá nhân, yếu tố giáo dục và các đặc điểm khác.
Hình 1: Khung lý thuyết download by : skknchat@gmail.com
III/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phần III của bài viết tập trung vào phân tích phương pháp nghiên cứu, bao gồm mô hình kinh tế lượng và bộ dữ liệu được áp dụng Bài viết sẽ giải thích lý do lựa chọn mô hình và dữ liệu này, đồng thời diễn giải ý nghĩa của các biến và cách thức đo lường chúng.
3.1 Mô hình kinh t ế lượ ng
Mô hình cơ bản về lao động trẻ em được phát triển dựa trên lý thuyết tối đa hóa hữu dụng của hộ gia đình, như được trình bày bởi Rosati và Tzannatos (2006).
Trong đó, C là tiêu dùng, p và s lần lượt là cha mẹ và con cái; 1 và 2 là hai giai đoạn trong đời.
Nếu trẻ làm việc chúng sẽ tăng thêm thu nhập hiện tại của gia đình và giảm gánh nặng chi tiêu Hàm sản xuất của trẻ có dạng:
Mô hình nghiên cứu này xác định rằng n là tổng số trẻ em và l là số lượng công việc mà trẻ tham gia, được phân phối bởi các công việc khác trong gia đình Ngoài ra, -1 đại diện cho vốn nhân lực của cha mẹ đã được xác định trước Các điều kiện áp dụng mô hình yêu cầu f > 0 và f ″ < 0 Đặc biệt, mô hình này dựa trên giả định rằng cha mẹ có quyền tự do quyết định khối lượng công việc của mỗi đứa trẻ và số lượng trẻ em trong gia đình.
Khái niệm về lao động trẻ em
Lao động trẻ em, theo luật pháp quốc tế, đề cập đến tình trạng trẻ em dưới 18 tuổi tham gia vào các công việc có thể gây hại cho sức khỏe tinh thần, thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách của họ Tình trạng này cũng bao gồm việc trẻ em phải làm việc từ khi còn nhỏ, dẫn đến mất cơ hội học tập và phát triển Mặc dù định nghĩa về lao động trẻ em có thể khác nhau giữa các quốc gia, tại Việt Nam, nó có thể được hiểu là những người lao động dưới 16 tuổi thực hiện các công việc vi phạm quy định lao động Theo Công ước 138 của ILO (1973), có những tiêu chí rõ ràng để xác định lao động trẻ em.
- Loại công việc và nơi làm việc
- Công việc nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm
- Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ khác (nô lệ, mại dâm, sản xuất – mua bán – tàn trữ ma túy, )
- Thời gian làm việc (không quá 4 giờ/ngày và 20 giờ/tuần đối với người dưới 15 tuổi)
Các nghiên cứu vẫn đang tranh luận về định nghĩa lao động trẻ em, liệu chỉ bao gồm lao động có lương hay còn bao gồm cả lao động không lương Ngoài ra, lao động trẻ em có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động kinh tế của gia đình, như làm việc trên các trang trại hoặc trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ của gia đình (Guarcello và cộng sự, 2005).
Tổng quan các nghiên cứu liên quan
Mô hình quyết định hộ gia đình của Schultz (1997) cho rằng các hộ gia đình nhằm tối đa hóa hữu dụng chung thông qua việc quyết định số lượng trẻ em, việc học hay đi làm của từng đứa trẻ, thời gian giải trí và tiêu dùng chung Thu nhập của hộ gia đình đến từ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiền lương của các thành viên Đối với những hộ gia đình có sản xuất, đầu vào bao gồm tài sản vật chất và sức lao động của các thành viên, có thể bao gồm cả trẻ em Cha mẹ phải cân nhắc giữa thời gian làm việc, giải trí và nuôi dưỡng trẻ, trong khi trẻ cũng phải phân chia thời gian giữa học tập, vui chơi và làm việc để hỗ trợ gia đình.
Khác với quan điểm của Schultz (1997), Basu và Van (1998) cho rằng nghèo đói là yếu tố chính dẫn đến việc cha mẹ cho phép con cái trở thành lao động trẻ em Trong nhiều trường hợp, cha mẹ, đặc biệt là những người có trình độ học vấn cao, thường không muốn con cái phải gánh vác trách nhiệm lao động quá sớm trong gia đình.
Dưới áp lực tài chính, các gia đình có thể thay thế lao động trưởng thành bằng lao động trẻ em, theo nghiên cứu của Edmonds và Pavcnik (2005) Lao động trẻ em không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng kinh tế mà còn đóng góp thu nhập cần thiết để duy trì sự sống còn của hộ gia đình.
Nghiên cứu của Rosati và Tzannatos (2000), dựa trên mô hình của Basu và Van (1998), phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lao động trẻ em, đặc biệt là từ góc độ hộ gia đình Sử dụng phương pháp hồi quy logit thứ bậc với dữ liệu LSMS của Ngân hàng Thế giới năm 1993 và 1998, nghiên cứu cho thấy thu nhập ảnh hưởng lớn đến quyết định giữa việc đi làm và đi học Đồng thời, giáo dục của cha mẹ, đặc biệt là trình độ học vấn của mẹ, có tác động tích cực đến khả năng trẻ chỉ đi học Chi phí giáo dục tăng cao làm tăng xác suất trẻ chỉ học thay vì vừa học vừa làm, đồng thời giảm số lượng lao động trẻ em Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng miễn hoặc giảm học phí có mối quan hệ tích cực với việc đi học, dẫn đến giảm lao động trẻ em Tuy nhiên, nghiên cứu còn tồn tại hạn chế, như việc mô hình chưa giải thích hết các thay đổi về lao động trẻ em chỉ dựa vào biến ngoại sinh, vấn đề nội sinh giữa quy mô hộ gia đình và khả năng sinh sản, cũng như ảnh hưởng của chi phí giáo dục đến tỷ lệ bỏ học và lao động trẻ em.
Levison (1991) lập luận rằng cha mẹ đa dạng hóa đầu tư vào con cái để giảm thiểu rủi ro, với một số trẻ được đào tạo sớm trong các công việc gia đình nhằm tái tạo nguồn vốn nhân lực Việc đặt tất cả trẻ em vào trường học có thể làm gia tăng rủi ro từ cú sốc thu nhập Nghiên cứu của Parikh và Sadoulet (2005) cho thấy đôi khi lao động trẻ em không ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi của trẻ, vì cha mẹ có quyền quyết định cho trẻ đi học hay tham gia lao động sản xuất trong gia đình, từ đó gia tăng năng suất lao động trẻ em như một hình thức đào tạo nghề Tuy nhiên, nghiên cứu dựa trên dữ liệu PNAD ở Brazil cho thấy các khuyến nghị về cung cấp tín dụng và xây dựng tài sản khi đối mặt với nghèo đói lại làm gia tăng lao động trẻ em.
Theo nghiên cứu của Emerson và Souza (2002) từ dữ liệu PNAD, trẻ em là con đầu lòng có khả năng đi học thấp hơn, trong khi trẻ em sinh cuối cùng ít có khả năng làm việc Tuổi của người mẹ có mối tương quan nghịch với khả năng làm việc của trẻ nam, và gia đình lớn hơn lại có xu hướng tăng xác suất làm việc cho cả nam và nữ Ejrnổ và Pửrtner (2002) giả định rằng cha mẹ quyết định sinh con theo thứ tự, dựa trên nguồn lực di truyền và tiềm năng thu nhập của đứa trẻ đầu tiên Khi một gia đình có đứa trẻ với khả năng di truyền cao, họ sẽ ngừng sinh thêm con và tập trung tài nguyên vào đứa con cuối cùng, dẫn đến việc trẻ sinh ra cuối cùng thường nhận được nhiều vốn nhân lực hơn Giới tính cũng ảnh hưởng đến đánh giá của phụ huynh về tiềm năng của trẻ, điều này quyết định mức độ đầu tư vào giáo dục cho từng đứa trẻ.
Theo nghiên cứu của Ahmed (1999), lao động trẻ em ở khu vực nông thôn thường phổ biến hơn so với khu vực thành thị do nhu cầu lao động trong ngành nông nghiệp, nơi không yêu cầu tay nghề cao Hơn nữa, quy mô hộ gia đình cũng ảnh hưởng đến công việc của trẻ em, như được chỉ ra bởi Edmonds (2007) Cụ thể, khi một gia đình có nhiều thành viên phụ thuộc, điều này không chỉ tạo ra nhu cầu chăm sóc mà còn làm tăng chi tiêu cho gia đình.
Khung lý thuyết
Khung lý thuyết được hình thành từ tổng quan các nghiên cứu liên quan, nhấn mạnh rằng lao động trẻ em chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, bao gồm yếu tố gia đình, đặc điểm cá nhân, các yếu tố giáo dục và những đặc điểm khác.
Hình 1: Khung lý thuyết download by : skknchat@gmail.com
III/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phần III của bài viết tập trung vào phân tích phương pháp nghiên cứu, bao gồm mô hình kinh tế lượng và thông tin bộ dữ liệu được sử dụng Bài viết sẽ giải thích lý do lựa chọn mô hình và dữ liệu, cũng như diễn giải ý nghĩa của các biến và phương pháp đo lường chúng.
Mô hình kinh tế lượng
Mô hình cơ bản về lao động trẻ em được phát triển dựa trên lý thuyết tối đa hóa hữu dụng của hộ gia đình, như được trình bày bởi Rosati và Tzannatos (2006) Mô hình này giúp hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của gia đình liên quan đến việc cho trẻ em tham gia lao động.
Trong đó, C là tiêu dùng, p và s lần lượt là cha mẹ và con cái; 1 và 2 là hai giai đoạn trong đời.
Nếu trẻ làm việc chúng sẽ tăng thêm thu nhập hiện tại của gia đình và giảm gánh nặng chi tiêu Hàm sản xuất của trẻ có dạng:
Mô hình nghiên cứu này xem xét tổng số trẻ em (n) và số lượng công việc mà trẻ tham gia (l), được phân phối dựa trên các hoạt động khác trong gia đình, với vốn nhân lực của cha mẹ được xác định trước (-1) Các điều kiện áp dụng mô hình yêu cầu f > 0 và f ″ < 0 Đặc biệt, mô hình này dựa trên giả định rằng cha mẹ có quyền quyết định về khối lượng công việc của trẻ và số lượng trẻ em trong gia đình.
Nghiên cứu đã phát triển một mô hình hồi quy logit để phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố gia đình và xác suất đi làm của trẻ Mô hình này được xây dựng dựa trên phương trình 2 + 1 = (1+ , –1)+ + (1− ).
Pr( = 1) = Pr ( 1 + 2 ℎ + 3 + 4 + ) download by : skknchat@gmail.com
: Tình trạng việc làm của trẻ (trẻ có đi làm hoặc không)
: Đặc điểm của trẻ như tuổi, giới tính
ℎ: Đặc điểm của hộ gia đình: giới tính của chủ hộ, tuổi của chủ hộ
: Đặc điểm của cha mẹ như nghề nghiệp, thời gian làm việc, thu nhập
: Đặc điểm của giáo dục như miễn/giảm học phí
: Đặc điểm khác chưa quan sát được
Nghiên cứu này áp dụng mô hình hồi quy logit thay vì mô hình bình phương nhỏ nhất OLS, do biến phụ thuộc chỉ có giá trị 0 và 1 Điều này đảm bảo rằng xác suất dự đoán luôn nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
1 Khi sử dụng OLS, không có gì đảm bảo rằng giá trị được ước lượng sẽ nằm trọng khoảng này.
Ký hiệu biến Mô tả biến Hệ số Đo lường kỳ vọng Biến phụ thuộc
=1 nếu trẻ có làm việc
=0 nếu trẻ không có việc làm
Biến độc lập download by : skknchat@gmail.com
Ký hiệu biến Mô tả biến Đo lường Hệ số kỳ vọng Đặc điểm của trẻ
AGE Tuổi của trẻ Liên tục +
SEX Giới tính (Nam = 1, Nữ = 0) Nhị phân + Đặc điểm của hộ gia đình
Giới tính của chủ hộ
HEAGE Tuổi của chủ hộ Liên tục + Đặc điểm của cha mẹ
FETIWORK Số giờ làm việc trung bình của cha trong 1
MOTIWORK Số giờ làm việc trung bình của cha trong 1
FESALARY Tiền lương của cha trong 12 tháng qua
MOSALARY Tiền lương của mẹ trong 12 tháng qua
FEINTER =1 nếu cha có sử dụng internet trong 30
Nhị phân - ngày qua; ngược lại = 0
MOINTER =1 nếu mẹ có sử dụng internet trong 30
Nhị phân - ngày qua; ngược lại = 0
Ký hiệu biến Mô tả biến Đo lường Hệ số kỳ vọng
FEGROUP =1 nếu cha có tham gia các hội nhóm địa
Nhị phân - phương; ngược lại = 0
MOGROUP =1 nếu mẹ có tham gia các hội nhóm địa
Nhị phân - phương; ngược lại = 0 Đặc điểm giáo dục
=1 nếu có đi học và miễn/ giảm học phí
TUFEE =2 nếu có đi học và không miễn/ giảm học
Mô tả dữ liệu
Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu từ Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2016, tập trung vào trẻ em từ 6 đến 15 tuổi Thông tin thu thập bao gồm các yếu tố liên quan đến trẻ em ở khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
Bộ dữ liệu Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VLHSS) năm 2016, do Tổng cục Thống kê thực hiện, cung cấp thông tin quan trọng về mức sống hộ gia đình từ năm 2002 đến 2016 Khảo sát này nhằm theo dõi và đánh giá mức sống của các tầng lớp dân cư, giám sát việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, cũng như đánh giá kết quả đạt được trong các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam Dữ liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Mô tả biến
Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này phản ánh sự tham gia của trẻ em vào thị trường lao động, bao gồm cả việc làm có lương và các hoạt động hỗ trợ gia đình không có lương Việc xác định này được thực hiện dựa trên bộ dữ liệu VHLSS do Tổng cục Thống kê thu thập.
Biến độc lập được chia thành 4 nhóm biến: Nhóm đặc điểm của trẻ, đặc điểm hộ gia đình, đặc điểm cha mẹ và đặc điểm giáo dục của trẻ.
Theo các nghiên cứu trước đây, đặc điểm của trẻ em bao gồm hai yếu tố chính là tuổi và giới tính (Parikh, 2005) Tuổi được tính theo năm, với giả thuyết rằng khi tuổi càng lớn, xác suất trẻ em tham gia lao động sẽ cao hơn Đối với giới tính, biến giới tính được mã hóa thành 1 cho nam và 0 cho nữ, với kỳ vọng rằng trẻ em nam sẽ có khả năng đi làm cao hơn so với trẻ em nữ.
Nhóm đặc điểm của chủ hộ bao gồm giới tính và tuổi tác Nghiên cứu cho thấy, gia đình có chủ hộ nữ thường có xu hướng ít lao động trẻ em hơn so với gia đình có chủ hộ nam Bên cạnh đó, tuổi của chủ hộ cũng ảnh hưởng đến tình trạng lao động trẻ em, với giả thuyết rằng càng lớn tuổi, xác suất trẻ em tham gia lao động sẽ càng tăng.
Trong nghiên cứu này, tiền lương của cha mẹ được tính là tổng thu nhập trong 12 tháng qua, với kỳ vọng rằng khi tiền lương tăng, thu nhập sẽ tăng, từ đó giảm xác suất trẻ em tham gia thị trường lao động (Rosati và Tzannatos, 2000) Số giờ làm việc trung bình hàng ngày của cha mẹ cũng có tác động, khi giảm giờ làm sẽ làm giảm khả năng trẻ đi làm do cha mẹ phải cân bằng giữa công việc, giải trí và nuôi dạy trẻ (Schultz, 1997) Giáo dục của cha mẹ, được đo bằng số năm học từ lớp 1 đến lớp 12, ảnh hưởng lớn đến xác suất trẻ em đi làm; nghiên cứu kỳ vọng rằng khi trình độ học vấn của cha mẹ cao hơn, xác suất trẻ em tham gia lao động sẽ giảm (Rosati và Tzannatos, 2000) Tham gia vào các hội nhóm địa phương và sử dụng internet cũng được kỳ vọng sẽ giảm xác suất đi làm của trẻ, vì điều này phản ánh sự cập nhật thông tin và sự quan tâm của cha mẹ đến việc nuôi dạy con cái Đối với trẻ, việc miễn hoặc giảm học phí được xem là yếu tố quan trọng, với kỳ vọng rằng trẻ được miễn/giảm học phí sẽ có xác suất trở thành lao động trẻ em thấp hơn so với những nhóm còn lại (Rosati và Tzannatos, 2000).
IV/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong phần IV, chúng tôi sẽ diễn giải và thảo luận về thống kê mô tả cùng với kết quả từ hội quy Kết quả được trình bày trong phần này là sự kết hợp giữa khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu đã được trình bày ở các phần trước.
Thố ng kê mô tả
Số quan sát, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của các biến trong mô hình được thể hiện ở Bảng 2.
Theo thống kê, trong tổng số 6064 trẻ em từ 6 đến 15 tuổi, có 3087 trẻ em nam (50,91%) và 2997 trẻ em nữ (49,09%) Bên cạnh đó, tỷ lệ chủ hộ nữ chiếm 17,79%, trong khi chủ hộ nam chiếm 82,21%.
Cha mẹ có những đặc điểm công việc khác nhau, với cha trung bình làm việc 12 giờ mỗi ngày và mẹ là 14 giờ Tỉ lệ cha sử dụng internet chỉ đạt 26,97%, trong khi 73,03% không sử dụng Đối với mẹ, tỉ lệ sử dụng internet là 24,42%, còn lại 75,58% không sử dụng Về sự tham gia vào các hội nhóm địa phương, 37,71% cha tham gia, trong khi 62,29% không tham gia; tỉ lệ mẹ tham gia cao hơn với 57,97%, còn 42,03% không tham gia Về giáo dục trẻ em, 57,98% trẻ được miễn giảm học phí khi đi học, 38,58% trẻ đi học nhưng không được miễn giảm, và 4,34% trẻ không đi học.
Có việc làm Không có việc làm
Hình 2: Biểu đồ thể hiện trẻ có miễn/giảm học phí và có việc làm hay không
Biểu đồ thống kê cho thấy mối tương quan giữa nhóm trẻ có việc làm và nhóm trẻ được miễn/giảm học phí Trong nhóm trẻ không có việc làm, 98% đi học, chỉ 2% là trẻ em nhàn rỗi, và có đến 59% được miễn/giảm học phí Ngược lại, trong nhóm trẻ có việc làm, việc học không được ưu tiên, với 41% không đi học Tỷ lệ trẻ đi học và được miễn/giảm học phí trong nhóm này thấp hơn so với nhóm trẻ không có việc làm.
Bảng 2: Thống kê mô tả
Trung bình Độ lệch Giá trị Giá trị sát chuẩn nhỏ nhất lớn nhất
Biến độc lập download by : skknchat@gmail.com
Trung bình Độ lệch Giá trị Giá trị sát chuẩn nhỏ nhất lớn nhất Đặ c điể m c ủ a tr ẻ
SEX 6,064 0.509 0.500 0 1 Đặc điể m h ộ gia đình
MOGROUP 6,064 0.580 0.494 0 1 download by : skknchat@gmail.com
Trung bình Độ lệch Giá trị Giá trị sát chuẩn nhỏ nhất lớn nhất
Kết quả hồ i quy
Nghiên cứu không chỉ trình bày kết quả từ mô hình hồi quy logit mà còn áp dụng một số phương pháp kiểm định thống kê như kiểm định đa cộng tuyến và phương sai thay đổi Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp thông tin về tác động biên của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc và khả năng dự đoán của mô hình.
Kết quả kiểm định thống kê cho thấy mô hình không gặp phải hiện tượng đa cộng tuyến, nhưng tồn tại vấn đề phương sai thay đổi Để khắc phục điều này, nghiên cứu đã áp dụng mô hình sai số chuẩn mạnh (Robust Standard errors) Ngoài ra, khả năng dự báo của mô hình hồi quy logit đạt 95.79%.
Bảng 3: Kết quả hồi quy
Biến độc lập download by : skknchat@gmail.com
Logit Tác động biên Đặc điể m c ủ a tr ẻ
(0.030) (0.0002) download by : skknchat@gmail.com
(0.246) (0.002) download by : skknchat@gmail.com
- Có đi học, không -0.237 -0.020 miễn/giảm học phí
PSTD Có Đa cộng tuyến Không
Khả năng dự báo của mô hình
Ghi chú: *** có ý nghĩa thống kê tại 1%;
* có ý nghĩa thống kê tại 5%
* có ý nghĩa thống kê tại 10%
Logit download by : skknchat@gmail.com Đặc điểm của trẻ:
Kết quả hồi quy cho thấy tuổi có ảnh hưởng tích cực đến xác suất đi làm của trẻ em từ 6-15 tuổi, với mỗi năm tăng thêm làm tăng xác suất đi làm lên 0.005 Biến tuổi này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, tương đồng với các nghiên cứu trước đó của Parikh (2005) và Panos (2011) Ngoài ra, giới tính cũng ảnh hưởng đến xác suất đi làm, với trẻ em nam có xác suất cao hơn trẻ em nữ 0.001, mặc dù biến giới tính này không đạt ý nghĩa thống kê.
Giới tính của chủ hộ có ảnh hưởng tích cực đến xác suất đi làm của trẻ em, với khả năng cao hơn 0.004 khi chủ hộ là nam so với nữ, và điều này có ý nghĩa thống kê ở mức 1% Ngược lại, tuổi của chủ hộ có tác động tiêu cực, khi mỗi năm tăng thêm sẽ làm giảm xác suất đi làm của trẻ em 0.0001, tuy nhiên, biến tuổi không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu chỉ ra rằng tiền lương của cha mẹ có tác động đáng kể đến xác suất lao động của trẻ Cụ thể, khi tiền lương của cha tăng lên 1 triệu đồng trong một năm, xác suất đi làm của trẻ giảm 6.91e-08, đạt ý nghĩa thống kê ở mức 10% Tương tự, tiền lương của mẹ cũng có tác động âm đến xác suất lao động của trẻ, với mức giảm 1.57e- khi tiền lương tăng lên 1 triệu đồng trong một năm.
7 Điều này có ý nghĩa thống kê ở mức 5% Cả hai kết quả này đều phù hợp với nghiên cứu của Rosati và Tzannatos (2000).
Số giờ làm việc trung bình mỗi ngày của cha và mẹ đều có tác động tích cực đến xác suất đi làm của trẻ Cụ thể, khi cha làm việc tăng thêm 1 giờ, xác suất trẻ đi làm tăng 0.0003, trong khi đó, khi mẹ làm việc tăng thêm 1 giờ, xác suất này tăng 0.0004 Những kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Schultz (1997), tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu cho thấy rằng giáo dục của cha mẹ có ảnh hưởng tiêu cực đến xác suất đi làm của trẻ Cụ thể, khi số năm đi học của cha tăng, xác suất đi làm của trẻ giảm 0.0001, trong khi số năm đi học của mẹ cũng có tác động tương tự, với xác suất đi làm của trẻ giảm 0.0003 khi mẹ học thêm một năm Mặc dù kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rosati và Tzannatos (2000), nhưng cả hai biến giáo dục của cha và mẹ không có ý nghĩa thống kê rõ ràng.
Tiếp cận internet của cha có ảnh hưởng tiêu cực đến xác suất đi làm của trẻ, với mức giảm 0.010, có ý nghĩa thống kê ở mức 1% Ngược lại, tiếp cận internet của mẹ lại có tác động tích cực, làm tăng xác suất đi làm của trẻ với mức tăng 0.0004, nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Rosati và Tzannatos (2000) cho thấy rằng trẻ em không đi học có xác suất đi làm cao hơn so với trẻ em đi học và được miễn/giảm học phí, với hệ số so sánh dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% Ngược lại, trẻ đi học mà không được miễn giảm học phí lại có xác suất đi làm thấp hơn so với trẻ đi học và được miễn giảm, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê Điều này có thể được giải thích bởi trẻ được miễn giảm học phí thường đến từ gia đình có thu nhập thấp hoặc thuộc diện đặc biệt, trong khi trẻ không được miễn giảm học phí thường có gia đình có thu nhập cao hơn, dẫn đến tỷ lệ đi làm thấp hơn.
V/ KẾT LUẬN VÀ HẠN CHẾ
Dựa trên phân tích trước đó, phần này tóm tắt các kết quả quan trọng và đóng góp của đề tài Ngoài ra, những hạn chế của nghiên cứu cũng như đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo sẽ được trình bày.