1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam

60 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Mối Quan Hệ Giữa Hành Vi Điều Chỉnh Lợi Nhuận Và Ý Kiến Kiểm Toán Của Các Công Ty Niêm Yết Trên Sàn Chứng Khoán Việt Nam
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Kế Toán – Kiểm Toán
Thể loại Báo Cáo Công Trình Nghiên Cứu Khoa Học Sinh Viên
Năm xuất bản 2016
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 1,56 MB

Cấu trúc

  • I. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (0)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu (9)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu (0)
    • 1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu (11)
    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu (12)
  • II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU (0)
    • 2.1. Cơ sở lý thuyết (13)
      • 2.1.1. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận (13)
      • 2.1.2. Ý kiến kiểm toán (17)
      • 2.1.3 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận (20)
    • 2.2 Tổng quan nghiên cứu (24)
    • 2.3 Tóm tắt chương II (31)
  • III. XÁC ĐỊNH GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (0)
    • 3.1. Xây dựng giả thiết nghiên cứu (0)
    • 3.2. Chọn mẫu (33)
    • 3.3 Dữ liệu nghiên cứu (33)
    • 3.4 Mô hình nghiên cứu (33)
      • 3.4.1 Mô hình dùng để tính toán biến dồn tích có thể điều chỉnh (Dicretionary Accruals) (34)
      • 3.4.2. Mô hình hồi quy tổng thể nhằm đánh giá mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán (35)
    • 3.5 Quy trình nghiên cứu (37)
      • 3.6.1 Kiểm định giả thiết (0)
      • 3.6.2 Kiểm định về ý nghĩa của các hệ số hồi quy (0)
  • IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (0)
    • 4.1. Phân tích thống kê số liệu nghiên cứu (40)
    • 4.2 Phân tích tương quan (44)
    • 4.3. Kiểm định đa cộng tuyến (45)
    • 4.4 Kết quả phân tích hồi quy (0)
      • 4.4.1 Đánh giá sự phù hợp của mô hình (46)
      • 4.4.2 Kiểm định về độ tin cậy của mô hình (0)
      • 4.4.3 Kiểm định giả thuyết về các hệ số của mô hình hồi quy mẫu (46)
      • 4.4.4 Kiểm định giả thuyết nghiên cứu (0)
  • V. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (0)
    • 5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu (0)
    • 5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu (54)
    • 5.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo (54)

Nội dung

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Ban giám đốc thường được trả lương thưởng dựa trên lợi nhuận của công ty, dẫn đến việc họ có xu hướng điều chỉnh lợi nhuận để đạt mức mong muốn Chỉ tiêu lợi nhuận là yếu tố thu hút sự chú ý của nhà đầu tư, giúp họ đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh và triển vọng tăng trưởng của công ty trong tương lai Nhà đầu tư thường ưu tiên đầu tư vào các công ty có lợi nhuận cao hơn so với những công ty có lợi nhuận thấp (Ambrose Jagongo, 2014).

Theo Thomas P Houck (2003), các công ty niêm yết thường điều chỉnh lợi nhuận để thu hút nhà đầu tư, và thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu Ngoài ra, các công ty tư nhân cũng có thể "xào nấu" sổ sách nhằm mục đích cổ phần hóa trong tương lai, đồng thời có khả năng che giấu hoặc thổi phồng thu nhập tùy thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh.

Sự xuất hiện của xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và ban giám đốc, cùng với thông tin bất đối xứng giữa ban giám đốc và người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC), đòi hỏi sự cần thiết của một bên thứ ba độc lập để đánh giá tính trung thực và minh bạch của các thông tin trong BCTC, phản ánh tình hình tài chính của công ty (DeAngelo, 1981) Bên thứ ba này, được gọi là Kiểm toán viên (KTV), có nhiệm vụ kiểm tra tính chính xác, minh bạch và hợp pháp của các thông tin trên BCTC Trách nhiệm của KTV đối với các bản BCTC được thể hiện thông qua ý kiến cuối cùng của họ về những báo cáo này.

Vụ bê bối kế toán của Enron đã gây ra thiệt hại lớn cho nhà đầu tư và nhân viên, khi cổ phiếu của công ty giảm mạnh từ 90$ xuống chưa tới 1$ chỉ trong một năm Nguyên nhân chính là do Enron đã thổi phồng lợi nhuận và che giấu hàng tỷ USD thua lỗ, đồng thời gây áp lực lên Công ty Kiểm toán Arthur Andersen để bỏ qua các vấn đề kế toán nghiêm trọng Sự việc này đã khiến khoảng 20 nghìn nhân viên mất việc và nhiều người mất trắng khoản tiết kiệm của mình Khi vụ việc bị phát hiện, Enron đã trở thành vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.

Page 11 tới thời điểm đó Rất nhiều các vụ bê bối khác như là Worldcom, Olympus, Tyco International, hay Parmalat và gần đây nhất là Toshiba… cũng đã khiến cho nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ vì những quyết định đầu tư dựa trên các con số được điều chỉnh trên các bản BCTC đã được kiểm toán

Tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã bị “đánh lừa” bởi các bản báo cáo tài chính (BCTC) đã được kiểm toán, như trường hợp công ty Dược Viễn Đông (DVD) mặc dù thua lỗ nhưng vẫn báo cáo kết quả ấn tượng, khiến hàng nghìn nhà đầu tư chịu thiệt hại Ngược lại, một số công ty như Tribeco (TRI) và Petrolimex đã điều chỉnh giảm lợi nhuận nhưng được các kiểm toán viên phát hiện, cho thấy vai trò quan trọng của họ trong việc kiểm tra Vụ việc gần đây của Ngân hàng Eximbank đã làm tăng nhu cầu của nhà đầu tư về việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận Câu hỏi đặt ra là liệu các công ty điều chỉnh lợi nhuận có khả năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần cao hơn không? Nghiên cứu của Charalambos Spathis và Maria Tsipouridou (2013) cho thấy ý kiến kiểm toán phụ thuộc vào khả năng hoạt động liên tục của công ty, không phải hành vi điều chỉnh lợi nhuận Tương tự, nghiên cứu của Kathleen Herbohn và Vanitha Ragunathan (2008) khẳng định rằng điều chỉnh lợi nhuận không phải là nguyên nhân gây ra ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần.

Nghiên cứu năm 2008 đã chỉ ra rằng, đối với các công ty có mức độ rủi ro cao tại thị trường Tây Ban Nha, việc điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ tích cực với việc phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu nào xác định mối quan hệ này Do đó, bài nghiên cứu này sẽ là nghiên cứu đầu tiên khám phá mối quan hệ đã nêu.

Kết quả nghiên cứu cho thấy KTV đã phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường Để xác định mối quan hệ này một cách khoa học, việc thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu là cần thiết.

Dựa trên các nghiên cứu toàn cầu và thực trạng tại Việt Nam về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Ban giám đốc cùng với ý kiến kiểm toán của KTV đối với báo cáo tài chính của các công ty niêm yết, nhóm nghiên cứu nhận thấy sự cần thiết phải nghiên cứu mối quan hệ này.

1.2.Đóng góp dự kiến của đề tài

Nghiên cứu khoa học này nhằm khám phá mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và việc điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường Việt Nam.

Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn khách quan về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cho những người quan tâm tới báo cáo tài chính Nếu kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận, thì độ tin cậy của các báo cáo đã kiểm toán sẽ cao hơn Ngược lại, nếu không có mối quan hệ này, các bên liên quan nên tham khảo thêm thông tin từ các nguồn khác để đưa ra quyết định chính xác hơn.

1.3.Mục tiêu nghiên c u và câu h i nghiên c u ứ ỏ ứ

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các công ty niêm yết tại Việt Nam Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhằm tìm hiểu hành vi điều chỉnh lợi nhuận và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Để đạt được mục tiêu này, nhóm nghiên cứu đã đặt ra các câu hỏi nghiên cứu chi tiết liên quan đến vấn đề.

Thứ nhất, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và hành vi điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ như thế nào?

Trong mô hình được xây dựng, bên cạnh việc điều chỉnh lợi nhuận, có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến việc KTV phát hành ý kiến không chấp nhận toàn phần Các yếu tố này bao gồm chất lượng thông tin tài chính, sự tuân thủ các quy định pháp luật, và các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việc đánh giá các nhân tố này là rất quan trọng để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của báo cáo tài chính.

1.4.Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm đánh giá mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các doanh nghiệp Nhóm nghiên cứu đã tham khảo các tài liệu trước đây và tiến hành khảo sát gần 900 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán HNX và HOSE, từ đó lựa chọn 92 doanh nghiệp nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần đối với báo cáo tài chính năm 2014 Đối tượng nghiên cứu chính là mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các công ty.

Nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp định lượng với mẫu số liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các công ty niêm yết tại Việt Nam Để kiểm định mô hình, nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS.

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm đánh giá mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các doanh nghiệp Nhóm nghiên cứu đã tham khảo các tài liệu trước đó và khảo sát gần 900 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán HNX và HOSE, từ đó lựa chọn 92 doanh nghiệp nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần cho báo cáo tài chính năm 2014 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các công ty là trọng tâm của nghiên cứu này.

Phương pháp nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp định lượng với mẫu số liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các công ty niêm yết tại Việt Nam Để kiểm định mô hình, nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý thuyết

2.1.1 Hành vi điều chỉnh lợi nhu n ậ

Khái niệm điều chỉnh lợi nhuận

Cho đến nay, vẫn chưa có sự đồng thuận về định nghĩa điều chỉnh lợi nhuận (earning management) Theo Schipper (1989), điều chỉnh lợi nhuận là sự can thiệp có tính toán trong việc cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt được mục đích cá nhân Hành động này phản ánh sự lựa chọn các phương pháp kế toán của ban giám đốc để mang lại lợi ích cho họ hoặc tăng giá trị thị trường của công ty (Scott 1997) Healy và Whalen (1999) cho rằng điều chỉnh lợi nhuận xảy ra khi ban giám đốc sử dụng ước tính kế toán hoặc giao dịch nội bộ để thay đổi báo cáo tài chính (BCTC), nhằm đánh lạc hướng người sử dụng thông tin về tình hình hoạt động của công ty hoặc ảnh hưởng đến các hợp đồng phụ thuộc vào số liệu kế toán Ronen và Yaari (2008) đã tổng hợp các nghiên cứu trước đó và định nghĩa điều chỉnh lợi nhuận là hành vi của ban giám đốc sử dụng ghi nhận trên cơ sở dồn tích qua một số tài khoản để thay đổi lợi nhuận sau thuế theo mục tiêu công bố thông tin của họ Trong nghiên cứu này, điều chỉnh lợi nhuận được phân loại thành ba nhóm tùy thuộc vào động cơ.

Điều chỉnh lợi nhuận trắng (White Earnings Management) là quá trình mà ban giám đốc sử dụng quyền lực của mình để linh hoạt lựa chọn các chính sách kế toán, nhằm truyền đạt tín hiệu cá nhân về dòng tiền tương lai của doanh nghiệp Nghiên cứu của Ronen và Sadan (1981), Demski, Patell và Wolfson (1984), Suh (1990), Demski (1998), và Beneish đã chỉ ra rằng việc điều chỉnh này có thể ảnh hưởng đến cách mà nhà đầu tư và các bên liên quan nhận thức về hiệu suất tài chính của công ty.

Theo nghiên cứu của Sankar và Subramanyam (2001), loại thông tin này được coi là có lợi, góp phần nâng cao chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) Mục tiêu của ban giám đốc là cung cấp thông tin chất lượng cao hơn cho người sử dụng, giúp các nhà đầu tư nhận diện kỳ vọng về dòng tiền mà doanh nghiệp sẽ tạo ra trong tương lai (Beneish, 2011).

Điều chỉnh lợi nhuận xám (Grey Earnings Management) là quá trình mà các ban giám đốc lựa chọn các chính sách kế toán, có thể nằm trong hoặc ngoài các giới hạn cho phép, nhằm tăng cường giá trị của doanh nghiệp hoặc phục vụ lợi ích cá nhân của họ (Watts và Zimmerman, 1990; Fields, Lys, và Vincent, 2001).

Điều chỉnh lợi nhuận đen (Black Earnings Management) là hành vi mà ban giám đốc sử dụng các thủ thuật nhằm làm sai lệch hoặc giảm tính minh bạch của báo cáo tài chính (BCTC).

(Schipper, 1989; Levitt, 1998; Healy và Wahlen 1999; Tzur và Yaari, 1999; Chtourou,

Bédard, và Courteau, 2001; Miller và Bahnson, 2002)

Theo Carmen Joosten (2012), lợi nhuận bao gồm dòng tiền từ hoạt động và dòng tiền tích lũy Ban giám đốc công ty có hai phương thức để điều chỉnh lợi nhuận.

- Điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực (Real earning management):

Công ty có khả năng điều chỉnh lợi nhuận thông qua các thay đổi từ hoạt động kinh doanh thông thường, điều này có thể tác động đến dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.

Những chỉnh sửa từ hoạt động kinh doanh bình thường để điều chỉnh BCKQHĐKD này được gọi là điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực (REM)

Điều chỉnh lợi nhuận bằng các ước tính kế toán, hay còn gọi là quản lý lợi nhuận dựa trên dồn tích, cho phép công ty điều chỉnh mức độ dồn tích để đạt được lợi nhuận mong muốn Hành động này của ban giám đốc trong việc sử dụng các ước tính để lập báo cáo tài chính được gọi là điều chỉnh lợi nhuận trên cơ sở ước tính (AEM) theo nghiên cứu của Healy và Wahlen (1999).

Phát sinh các giao dịch được ghi nhậ n

Hoặc thay đổi giá trị hệ thống kế toán

Tại Việt Nam, thuật ngữ Quản trị lợi nhuận (Earning Management - EM) thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau như điều chỉnh lợi nhuận hay quản trị thu nhập Tuy nhiên, các nghiên cứu về EM tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào khía cạnh tiêu cực, xem đây là những phương pháp nhằm "làm đẹp" báo cáo tài chính hoặc sử dụng "thủ thuật" để biến đổi số liệu Nhóm nghiên cứu đã thống nhất sử dụng thuật ngữ này trong bài nghiên cứu của mình.

EM được dùng với nghĩa điều chỉnh lợi nhuận.

Ban giám đốc quyết định các quyết định kinh doanh Ban giám đốc lựa chọn các ước tính kế toán

Những hoạt động kinh doanh thực phát sinh

Những nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận

Lợi nhuận thuần trên kết quả hoạt động kinh doanh download by : skknchat@gmail.com

Page 16 Đã có một số bài nghiên cứu và bài báo trong nước bàn về vấn đề điều chỉnh lợi nhuận như bài viết của tác giả Lê Minh Thủy, công ty tư vấn tài chính Capstone đăng trên tạp chí “Nhịp cầu đầu tư” ngày 26/04/2010 với tựa đề “Nỗi niềm mùa BCTC” đã đưa ra các phương pháp kế toán mà chủ sở hữu hay ban giám đốc sử dụng đề làm sai lệch về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của DN nhưng các phương pháp này lại là các phương pháp gian lận như: dùng nghiệp vụ ảo, che giấu giao dịch, phù phép về thời gian ghi nhận giao dịch Bài viết với tiêu đề “Hoạt động quản trị kết quả kinh doanh trên thế giới và khuyến nghị cho các DN Việt Nam” (11/2011) của Ts Trần Thị Kim Anh, với nội dung chính là các khái niệm, cách phân loại, các phương pháp điều chỉnh lợi nhuận và kiến nghị cho DN Việt Nam Ngoài ra, Ths Phạm Thị Bích Vân (2013), đã cung cấp cho các nhà đầu tư ở Việt Nam một số cách để đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận trên BCTC Trong nghiên cứu này, tác giả cũng nhắc đến 5 thủ thuật mà ban giám đốc sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận như: lựa chọn các phương pháp kế toán, lựa chọn thời điểm vận dụng các phương pháp kế toán và các ước tính các khoản chi phí doanh thu, lựa chọn thời điểm đầu tư hay thanh lý tài sản cố định, dàn xếp thông qua các giao dịch thực

Phương pháp đo lường điều chỉnh lợi nhuận

Theo Renick van Oosterbosch (2009), để đo lường điều chỉnh lợi nhuận có 3 phương pháp tiếp cận:

Phương pháp đầu tiên để đo lường biến dồn tích không thể điều chỉnh được (non discretionary accruals) dựa trên mối quan hệ giữa tổng dồn tích và các yếu tố giải thích Mô hình này sử dụng cách tiếp cận tổng dồn tích, với các ví dụ điển hình như mô hình của Healy (1985), Jones (1991), Dechow (1995) và Deangelo (1986).

Phương pháp thứ hai trong nghiên cứu là áp dụng mô hình dồn tích cụ thể, tập trung vào một ngành công nghiệp có mức dồn tích cao hoặc các biến dồn tích đơn lẻ Các nghiên cứu của Wilson (1988), Petroni (1992) và Beaver cùng Engel (1996) đã chỉ ra tầm quan trọng của mô hình này trong việc phân tích và hiểu rõ hơn về các yếu tố dồn tích trong ngành.

Phương pháp thứ ba để phân tích thu nhập là quan sát mức dồn tích trong một khoảng thời gian cụ thể Cách tiếp cận này tập trung vào tính chất thống kê của thu nhập nhằm xác định cách mà hành vi của các bên liên quan ảnh hưởng đến kết quả tài chính Nghiên cứu của Burgstahler và Dichev (1997) cùng với Degeorge (1999) đã chỉ ra tầm quan trọng của phương pháp này trong việc hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa hành vi và thu nhập.

Nhiều nghiên cứu nổi tiếng đã áp dụng phương pháp thứ nhất, bao gồm mô hình của Jones (1991), Dechow (1995), Kaszmik (1999) và Kothari (2005) Trong các nghiên cứu này, công thức tính tổng dồn tích được xác định dựa trên hai phương thức hạch toán cơ bản của kế toán: cơ sở dồn tích và cơ sở tiền.

Kế toán theo cơ sở dồn tích là phương pháp ghi chép kế toán dựa trên nguyên tắc dự thu và dự chi Theo VAS 01, tất cả các nghiệp vụ kinh tế và tài chính của công ty liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí đều cần được ghi sổ kế toán một cách chính xác.

Page 17 vào thời điểm phát sinh giao dịch, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền”

Tổng quan nghiên cứu

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận cho thấy có hai luồng kết quả: một bên khẳng định sự tồn tại của mối quan hệ này, trong khi bên còn lại phủ nhận Qua tổng quan tài liệu, có thể nhận thấy rằng kết quả nghiên cứu về mối quan hệ này có thể thay đổi tùy thuộc vào phạm vi và đặc điểm môi trường của từng nghiên cứu cụ thể.

Nghiên cứu của Sompong Pornupatham (2006) phân tích khả năng phản ánh điều chỉnh lợi nhuận của kiểm toán viên trong các công ty niêm yết tại Thái Lan giai đoạn 1999-2004 Kết quả cho thấy, các công ty được kiểm toán bởi Big 4 có xu hướng sử dụng dồn tích có thể điều chỉnh thấp hơn và đưa ra hai loại ý kiến kiểm toán khác nhau, cho thấy khả năng phát hiện điều chỉnh lợi nhuận tốt hơn so với kiểm toán viên không thuộc Big 4 Tuy nhiên, kiểm toán viên không sử dụng ý kiến của họ để cảnh báo về điều chỉnh lợi nhuận, mà dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp Nghiên cứu cũng chỉ ra hai giới hạn lớn: đầu tiên, việc sử dụng mô hình dồn tích có thể điều chỉnh cần được xem xét cẩn thận do tính tương đối của nó trong việc phát hiện điều chỉnh lợi nhuận; thứ hai, sự chuyên biệt của một số công ty không niêm yết có thể làm giảm tính đại diện của nghiên cứu đối với ngành kiểm toán tại Thái Lan.

Nghiên cứu của Arnedo Ajona và cộng sự (2008) chỉ ra rằng các công ty có mức độ rủi ro cao, đặc biệt là những công ty sắp phá sản tại Tây Ban Nha, thường có sự khác biệt trong cách các kiểm toán viên của Big N đánh giá Cụ thể, khi mức độ sử dụng dồn tích có thể điều chỉnh thấp hơn, các kiểm toán viên có xu hướng phát hành ý kiến kiểm toán liên quan đến vấn đề hoạt động liên tục nhiều hơn Điều này trái ngược với thực tiễn tại Mỹ, nơi mà báo cáo kiểm toán thường không bao gồm ý kiến không chấp nhận toàn phần như ở Tây Ban Nha.

Page 26 opinion) Điều này cho phép họ nghiên cứu kĩ càng và chi tiết về mối quan hệ này hơn so với dữ liệu của nước Mỹ Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ ngược chiều với vấn đề hoạt động liên tục nhưng có mối quan hệ cùng chiều với việc phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do khác hơn là vấn đề hoạt động liên tục Mối quan hệ ngược chiều này được giải thích bởi sự thận trọng của kiểm toán viên Trong những trường hợp vi phạm GAAP, sự tác động của những điều chỉnh qua các năm tới thu nhập rõ ràng và liên quan chặt chẽ hơn là những điều chỉnh mới được vận dụng vào năm trước Kết quả của họ cho rằng nhận diện của các Big N trong một nước mà áp dụng luật pháp theo văn bản là cụ thể cho từng trường hợp và dựa vào tham số rủi ro kinh doanh của mô hình rủi ro kiểm toán

Nghiên cứu của Andra Gajevszky (2014) chỉ ra rằng các công ty điều chỉnh lợi nhuận và được kiểm toán bởi Big 4 thường nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần, nhưng nghiên cứu này có một số hạn chế, bao gồm mẫu nghiên cứu nhỏ chỉ với 60 công ty và chỉ 21 công ty (35%) nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần Điều này có thể ảnh hưởng đến tính đại diện của kết quả Hơn nữa, do số lượng hạn chế các ý kiến không chấp nhận toàn phần, sự khác biệt giữa các loại ý kiến kiểm toán không được thể hiện rõ Ngược lại, Bradshaw, Richardson và Sloan (2001) không tìm thấy bằng chứng cho thấy khả năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần cao hơn ở các công ty có khoản dồn tích đáng kể, cho rằng kiểm toán viên không thể cảnh báo nhà đầu tư về nguy cơ giảm lợi nhuận trong tương lai Họ nhấn mạnh rằng vấn đề lợi nhuận thường nằm ngoài khả năng của kiểm toán viên, và mặc dù các khoản dồn tích tăng lên có thể liên quan đến vi phạm GAAP, kiểm toán viên không bắt buộc phải cung cấp thông tin này cho nhà đầu tư Butler, Leone và Willenborg (2004) cũng ủng hộ quan điểm rằng kiểm toán viên không phát hành ý kiến không chấp nhận toàn phần vì lý do điều chỉnh lợi nhuận.

Theo nghiên cứu của Shireenjit Johl, Christine A Jubb và Keith Houghton (2007), tác giả đã mở rộng các nghiên cứu trước đây về sự khác biệt trong ý kiến kiểm toán, đặc biệt là ảnh hưởng của chúng đến việc thể hiện các thiếu sót liên quan đến điều chỉnh lợi nhuận Nghiên cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng quan trọng về mối liên hệ giữa ý kiến kiểm toán và sự hiện hữu của các điều chỉnh lợi nhuận.

Page 27 về sự khác biệt trong chất lượng cuả những chuyên gia hàng đầu Big 5 trong một nền kinh tế đầy rủi ro, Malaysia được biết đến với sự thiếu minh bạch và có cơ cấu nhà nước yếu hơn các nền kinh tế khác như Mỹ, châu Âu hay Úc Các kiểm toán viên thuộc Big 5 ở Malaysia đưa ra ý kiến không chấp nhận toàn phần nhiều hơn các công ty kiểm toán không thuộc Big 5, trong khi sự tồn tại cuả các khoản dồn tích bất thường ngày càng cao Tuy nhiên mối quan hệ giữa sự chuyên nghiệp ngành kiểm toán và dồn tích bất thường là không đáng kể trong việc dự đoán các khả năng của ý kiến kiểm toán Tuy nhiên hạn chế của bài báo này đã được chỉ ra rằng kích cỡ mẫu không đầy đủ cho việc đánh giá bởi mỗi loại ý kiến kiểm toán không có số lượng đủ lớn Cùng với đó với những mẫu phù hợp, mặc dù xây dựng sự tính toán cẩn trọng về khoản dồn tích có thể điều chỉnh, chúng vẫn có thể nhỏ hơn số lượng trung bình bởi quy mô của các tổ chức kiểm toán không thuộc Big so với các công ty thuộc Big là nhỏ hơn

Nghiên cứu của Kathleen Herbohn và Vanitha Ragunathan (2008) dựa trên dữ liệu từ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Australia trong giai đoạn 1999-2003 cho thấy rằng điều chỉnh lợi nhuận không phải là nguyên nhân chính dẫn đến ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Nghiên cứu chỉ ra rằng các công ty có ý kiến kiểm toán liên quan đến việc thiếu bằng chứng thường có tỷ lệ điều chỉnh lợi nhuận cao hơn so với các công ty khác Một khía cạnh khác của nghiên cứu cho rằng nhà quản trị điều chỉnh các khoản dồn tích trong báo cáo lợi nhuận nhằm dự đoán khả năng kinh doanh tương lai, tuy nhiên điều này có thể dẫn đến tranh cãi với kiểm toán viên.

Gần đây, vấn đề điều chỉnh lợi nhuận đã thu hút sự chú ý trở lại nhờ nhiều nghiên cứu trên thế giới Nghiên cứu của Tsipouridou và Charalambos Spathis (2014) kết luận rằng ý kiến kiểm toán phụ thuộc vào khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, không phải vào điều chỉnh lợi nhuận Bối cảnh nghiên cứu diễn ra khi Hy Lạp phục hồi sau khủng hoảng kinh tế từ năm 2009, với tỷ lệ thất nghiệp, phá sản và lạm phát cao, dẫn đến gia tăng số lượng công ty phá sản Nghiên cứu này đã xác định khả năng hoạt động liên tục là yếu tố quan trọng để so sánh với khả năng điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp Cả ý kiến kiểm toán và quy mô tổ chức đều có mối liên hệ ngược chiều với giá trị các khoản dồn tích có thể điều chỉnh của các công ty niêm yết.

Toto Rusmanto, Ari Barkah Djamil và Yashinta Salim (2014) đã tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận Kết quả nghiên cứu cho thấy một phát hiện đáng ngạc nhiên, khi chỉ có 4.76% (tương đương 37 công ty) trong tổng số công ty được khảo sát có sự điều chỉnh lợi nhuận liên quan đến ý kiến kiểm toán.

Trong số 672 mẫu, có 9 công ty, chiếm 0,24%, nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần từ kiểm toán viên thuộc Big 4 Phần còn lại, 28 công ty, được kiểm toán bởi các công ty không thuộc Big 4.

4 Điều này cho thấy tại Indonesia không có nhiều kiểm toán viên cả các công ty thuộc Big-4 và không thuộc Big 4 phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần - cho khách hàng Vấn đề thứ 2, tác giả không tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong bối cảnh của Indonesia Ý kiến này là minh chứng mạnh mẽ cho một ví dụ thực tế về Lehman Brothers, WorldCom và những trường hợp khác mà điều chỉnh lợi nhuận có quan hệ trái ngược với ý kiến kiểm toán không chấp nhận to phần Vì vậy câu trả lời cho nghiên cứu là liệu sự tồn tại của điều chỉnh lợi nhuận tác động tới khả năng phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần là sự hiện diện của điều chỉnh lợi nhuận không nhất thiết phải tác động tới ý kiến kiểm toán ở Indonesia Tuy nhiên kết quả cho cả 2 giả thuyết là không mang tính đại diện bởi số lượng bằng chứng khá thấp với chỉ 4,76% công ty với ý kiến không chấp nhận toàn phần trên tổng số 672 công ty qua các năm từ 2008 2010 Do đó mà không thể biết được liệu phần còn lại 95,24% (100- - 4,76%) có thực sự xứng đáng là một báo cáo kiểm toán trong sạch hoặc liệu các kiểm toán viên có bị sai sót trong việc nhận diện ra quản trị lợi nhuận hay không

Nghiên cứu của Akhgar M Omid (2015) đã điều tra mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và điều chỉnh lợi nhuận được đo lường qua các khoản điều chỉnh Nghiên cứu tập trung vào quản trị lợi nhuận kế toán và chi phí sản xuất bất bình thường của các công ty niêm yết từ năm 2003 đến 2013, với 2818 công ty được phân tích thông qua phương pháp hồi quy đa tuyến Kết quả cho thấy không có mối liên hệ đáng kể giữa chi phí sản xuất bất thường và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Điều này chỉ ra rằng chi phí sản xuất bất bình thường không phải là yếu tố giải thích cho việc phát hành ý kiến kiểm toán không toàn phần do sai sót trọng yếu hoặc thiếu tài liệu kiểm toán phù hợp Bên cạnh đó, các đặc điểm tài chính của khách hàng, như khả năng sinh lời và quy mô hoạt động, cũng có ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán liên quan đến khả năng hoạt động liên tục của công ty.

Bảng 2.1 Tóm tắt tổng quan các công trình nghiên cứu

Tên đề tài Tác giả Kết luận chính Hạn chế nghiên cứu

Qualified audit opinion, accounting earnings management and real earnings management: evidence from Iran (2015)

Kết quả cho thấy ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần liên quan đến việc điều chỉnh lợi nhuận bằng các ước tính kế toán, trong khi điều chỉnh lợi nhuận thông qua các giao dịch thực vẫn được chấp nhận Các yếu tố tài chính của khách hàng như khả năng sinh lợi, quy mô, lịch sử, ý kiến kiểm toán trước đó và tình hình kinh doanh năm trước có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định không chấp nhận toàn phần của kiểm toán viên.

Bài chỉ sử dụng ý kiến kiểm toán chấp nhận từng phần chưa mở rộng để xét cho tất cả các loại ý kiến kiểm toán còn lại

Audit opinion and earnings management

Maria Tsipouridou và Charalambos Spathis Ý kiến kiểm toán phụ thuộc vào hoạt động liên tục nhưng không phụ thuộc vào hành vi điều chỉnh lợi nhuận

Bài nghiên cứu sử dụng các biến số dựa trên báo cáo kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận, tuy nhiên, những biến số này không hoàn hảo do được chỉnh sửa từ thông tin công khai thay vì thông tin riêng tư giữa kiểm toán viên độc lập và nhà quản trị.

The impact of auditor’s opinion on earnings management: Evidence from Romania (2014)

Tóm tắt chương II

Do những hạn chế trong việc thu thập dữ liệu và đặc điểm kinh tế tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã quyết định áp dụng phương pháp điều chỉnh lợi nhuận thông qua các ước tính kế toán (accrual-based earnings management) trong nghiên cứu của mình.

Dựa trên phân tích của nhóm và tình hình tại Việt Nam, thuật ngữ "earning management" được hiểu là điều chỉnh lợi nhuận Với cỡ mẫu lớn và không thuộc một ngành cụ thể, nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp điều chỉnh lợi nhuận thông qua việc đo lường biến dồn tích không thể điều chỉnh (non discretionary accruals), dựa vào mối quan hệ giữa tổng dồn tích và các yếu tố giải thích Mô hình được sử dụng là mô hình tổng dồn tích, như mô hình của Healy (1985), Jones (1991), Dechow (1995) và Deangelo (1986).

Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế, ý kiến kiểm toán được chia thành hai loại: chấp nhận toàn phần và không chấp nhận toàn phần Nhóm nghiên cứu chỉ tập trung vào việc kiểm tra các báo cáo tài chính của các công ty nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận đã thu hút sự chú ý trong nhiều năm qua Các nghiên cứu của Beckt và cộng sự (1998), Francis, Maydew & Sparks (1999), Francis & Krishnan (1999), Chang (2001), và Vander Bauwhede và cộng sự (2003) cho thấy rằng khi công ty thực hiện điều chỉnh lợi nhuận, họ có xu hướng nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Những nghiên cứu này cũng phát triển các mô hình cho thấy ý kiến kiểm toán bị ảnh hưởng chủ yếu bởi hành vi điều chỉnh lợi nhuận, cùng với các tỷ số tài chính và tình hình hoạt động của công ty.

Nhóm nghiên cứu đã xác định rằng vấn đề trích lập dự phòng liên quan đến việc phân chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Họ giả thuyết rằng dự phòng là công cụ điều chỉnh lợi nhuận, mặc dù không có giao dịch thực tế xảy ra, nhưng được coi là phương pháp quản trị Từ đó, nhóm đã phân loại ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần thành hai nhóm: không chấp nhận do lý do trích lập dự phòng và không chấp nhận vì lý do khác.

XÁC ĐỊNH GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Xây dựng giả thi t nghiên c u ế ứ

Nghiên cứu của Tsipouridou và Spathis (2014) đã điều tra mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận, được đo lường bằng biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh, với mẫu số liệu từ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Athens (ASE) Họ phân loại ý kiến kiểm toán không chấp nhận thành hai loại: không chấp nhận do có vấn đề trọng yếu trong hoạt động liên tục và không chấp nhận vì các lý do khác Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ý kiến kiểm toán không có mối liên hệ với việc điều chỉnh lợi nhuận.

Nghiên cứu của Toto Rusmanto, Ari Barkah Djamil và Yashinta Salim đã điều tra tác động của việc điều chỉnh lợi nhuận đến mức độ ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần hoặc chấp nhận từng phần Kết quả cho thấy, một công ty thực hiện điều chỉnh lợi nhuận không nhất thiết phải nhận ý kiến không chấp nhận toàn phần từ kiểm toán viên.

Một nghiên cứu tại Iran do Akhgar M Omid thực hiện đã khảo sát mối liên hệ giữa ý kiến không chấp nhận toàn phần và điều chỉnh lợi nhuận, được đo lường qua biến kế toán dồn tích và chi phí sản xuất bất thường Dữ liệu được thu thập từ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Tehran (TSE) Tác giả phân loại ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần thành hai loại: do sai sót trọng yếu và do không thể thu thập đủ bằng chứng kiểm toán Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự liên kết giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận qua các chính sách và ước tính kế toán, nhưng không phát hiện mối liên hệ nào giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận thông qua các giao dịch thực.

Có nhiều phương pháp để xây dựng giả thuyết cho mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Trong nghiên cứu của nhóm, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần được phân loại thành hai loại: do vấn đề dự phòng và lý do khác Do đó, nhóm nghiên cứu đã đề xuất giả thuyết như sau:

GT 1: Điều chỉnh lợi nhuận có ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng download by : skknchat@gmail.com

GT 1*: Điều chỉnh lợi nhuận không có ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng

Tính đến thời điểm thu thập số liệu, các doanh nghiệp niêm yết vẫn chưa công bố báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2015 Do yêu cầu của nghiên cứu cần có số liệu và ý kiến từ các báo cáo tài chính đã kiểm toán, nhóm nghiên cứu đã quyết định sử dụng số liệu từ các bản báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2014 Trong năm 2014, có tổng cộng 899 doanh nghiệp niêm yết trên HNX và HOSE, trong đó có 104 doanh nghiệp thuộc ngành vật liệu cơ bản.

Trong tổng số doanh nghiệp được khảo sát, có 370 doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp, 130 doanh nghiệp trong ngành hàng tiêu dùng, 23 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực y tế, 64 doanh nghiệp trong ngành dịch vụ tiêu dùng, 46 doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ hạ tầng, 127 doanh nghiệp trong ngành tài chính, 29 doanh nghiệp thuộc ngành công nghệ, 5 doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí, và 1 doanh nghiệp thuộc ngành viễn thông.

Nghiên cứu đã chọn lọc 92 doanh nghiệp có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong báo cáo tài chính, trong đó có 4 doanh nghiệp nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần liên quan đến khoản trích lập dự phòng, với các vấn đề như trích lập không đúng, không đủ hoặc không đủ bằng chứng để kết luận Mặc dù nghiên cứu của Andra Gajevszky (2014) chỉ có 21 công ty (35%) trong số các công ty được điều tra có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần, nhưng không đảm bảo tính đại diện của mô hình Tương tự, nghiên cứu của Toto Rusmanto, Ari Barkah Djamil, Yashinta Salim (2014) cho thấy chỉ có 4.76% (37 công ty trong tổng số 672 mẫu) nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần từ kiểm toán viên, và mô hình nghiên cứu đã được kiểm định để đảm bảo tính tin cậy.

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2014 của các công ty trong mẫu nghiên cứu để xây dựng và kiểm định mô hình Các số liệu này được chọn lọc kỹ lưỡng, đảm bảo tính trung thực cao và được công bố rộng rãi Từ những dữ liệu này, chúng tôi đã tính toán các tỷ số và rút ra thông tin cần thiết cho mô hình nghiên cứu.

Nhóm nghiên cứu đã áp dụng hai mô hình nghiên cứu để khám phá đề tài, dựa trên mục tiêu và phương pháp nghiên cứu đã xác định.

Bởi đặc điểm của bài nghiên cứu chỉ sử dụng và phân tích số liệu của năm

2014 nên nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình Logistics để kiểm định, kiểm tra mối quan hệ của các biến trong bài

3.4.1 Mô hình dùng để tính toán biến dồn tích có thể điều chỉnh (Dicretionary

Mặc dù các khoản dồn tích có thể được nhận diện, việc xác định nguồn gốc điều chỉnh của chúng là rất khó khăn Một số khoản dồn tích là cần thiết và dễ hiểu đối với các nhà đầu tư, được gọi là các khoản điều chỉnh không thể điều chỉnh Trong khi đó, phần dồn tích còn lại không được thể hiện trong điều khoản của công ty, nhưng lại được xử lý trong các khoản mục có thể thay thế được (Charitou et al., 2007).

XÁC ĐỊNH GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 09/05/2022, 18:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Ambrose Jagongo (2014), A Survey of the Factors Influencing Investment Decisions: The Case of Individual Investors at the NSE Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Survey of the Factors Influencing Investment Decisions: The Case of Individual Investors at the NSE
Tác giả: Ambrose Jagongo
Năm: 2014
4. Anis Ben Amar (2014), The effect of independence Audit Committee on earnings management: The case in French Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of independence Audit Committee on earnings management: The case in French
Tác giả: Anis Ben Amar
Năm: 2014
5. Ari Barkah Djamil, Toto Rusmanto, Yashinta Salim (2014), The effect of earnings management to issuance of audit qualification: Evidence from Indonesia Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of earnings management to issuance of audit qualification: Evidence from Indonesia
Tác giả: Ari Barkah Djamil, Toto Rusmanto, Yashinta Salim
Năm: 2014
6. Bùi Thị Mai Hoài, Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015), Các nhân tố quyết định hành vi điều chỉnh thu nhập làm giảm thuế thu nhập DN phải nộp: trường hợp Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhân tố quyết định hành vi điều chỉnh thu nhập làm giảm thuế thu nhập DN phải nộp: trường hợp Việt Nam
Tác giả: Bùi Thị Mai Hoài, Nguyễn Thị Tuyết Hoa
Năm: 2015
7. Carmen Joosten (2012), Real earnings management and accrual-based earnings management as substitutes Sách, tạp chí
Tiêu đề: Real earnings management and accrual-based earnings management as substitutes
Tác giả: Carmen Joosten
Năm: 2012
8. Connie L. Becker, Mark L. Defond, James Jiambalvo, K. R. Subramanyam (1998), The effect of audit quality on earning management Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of audit quality on earning management
Tác giả: Connie L. Becker, Mark L. Defond, James Jiambalvo, K. R. Subramanyam
Năm: 1998
9. Đàm Thị Kim Oanh, 2015, Kế hoạch trích lập dự phòng ảnh hưởng tới thông tin trình bày trên BCTC của các CTCP niêm yết trên thị trường chứng khoán VN, http://www.khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=636, truy cập ngày 3/1/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kế hoạch trích lập dự phòng ảnh hưởng tới thông tin trình bày trên BCTC của các CTCP niêm yết trên thị trường chứng khoán VN
Tác giả: Đàm Thị Kim Oanh
Năm: 2015
10. Eli Bartov, Ferdinand A. Gul and Judy S.L. Tsui, (2000), Discretionary – accruals models and audit qualifications Sách, tạp chí
Tiêu đề: Discretionary – accruals models and audit qualifications
Tác giả: Eli Bartov, Ferdinand A. Gul, Judy S.L. Tsui
Năm: 2000
13. Jere R. Francis, Jagan Krishnan (1999), Accounting Accruals and Auditor Reporting Conservatism Sách, tạp chí
Tiêu đề: Accounting Accruals and Auditor Reporting Conservatism
Tác giả: Jere R. Francis, Jagan Krishnan
Năm: 1999
14. Jong – Hag Choi, Kyu An Jeon, Jong II Park (2004), The role of Audit – – Committees in decreasing earning management: Korean evidence Sách, tạp chí
Tiêu đề: The role of Audit – – Committees in decreasing earning management: Korean evidence
Tác giả: Jong – Hag Choi, Kyu An Jeon, Jong II Park
Năm: 2004
1. Akhgar M. Omid (2015), Qualified audit opinion, accounting earnings management and real earnings management: Evidence from Iran Khác
3. Andra Gajevszky (2012), The impact of auditor’s opinion on earnings management: Evidence from Romania Khác
11. Huỳnh Thị Vân (2012), Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các CTCP trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Khác
12. Jenifer J. Jones (1991), Earnings Management during import relief investigations Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng Tên bảng - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
ng Tên bảng (Trang 7)
Hình 2.1. Sự thay đổi các lực tác dụng lên pít tông trong quá trình công tác của chu kỳ - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 2.1. Sự thay đổi các lực tác dụng lên pít tông trong quá trình công tác của chu kỳ (Trang 8)
Hình 2.1 Sơ đồ tác động của REM và AEM lên lợi nhuận - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 2.1 Sơ đồ tác động của REM và AEM lên lợi nhuận (Trang 14)
- Hình dáng phức tạp của vách xylanh thay thế bằng vách phẳng (đối với trường hợp tỷ số chiều dày của vách và đường kính xy lanh nhỏ); - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình d áng phức tạp của vách xylanh thay thế bằng vách phẳng (đối với trường hợp tỷ số chiều dày của vách và đường kính xy lanh nhỏ); (Trang 17)
Cỡ mẫu của mô hình khá nhỏ, chỉ 60 công ty trên sàn được khảo sát trong đó chỉ có  35% (21 công ty) có ý kiến kiểm toán  không chấp nhận toàn phần. - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
m ẫu của mô hình khá nhỏ, chỉ 60 công ty trên sàn được khảo sát trong đó chỉ có 35% (21 công ty) có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần (Trang 29)
 Biến độc lập được liệt kê trong bảng sau: - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
i ến độc lập được liệt kê trong bảng sau: (Trang 36)
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu (Trang 37)
Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả giá trị các biến độc lập - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả giá trị các biến độc lập (Trang 40)
Hình 4.2 Cơ cấu kết quả kinh doanh năm 2013 của mẫu nghiên cứu - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 4.2 Cơ cấu kết quả kinh doanh năm 2013 của mẫu nghiên cứu (Trang 41)
Hình 4.1. Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần Cơ cấu  ý kiến kiểm toán  không chấp  nhận  toàn phần vì  lý do  liên  quan  đến  trích lập dự phòng chiếm gần 46% trong tổng số ý kiến kiểm toán không chấp nhận  toàn phần, có thể thể hi - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 4.1. Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần Cơ cấu ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do liên quan đến trích lập dự phòng chiếm gần 46% trong tổng số ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần, có thể thể hi (Trang 41)
Hình 4.3 - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 4.3 (Trang 42)
Hình 4.4 Cơ cấu ý kiến kiểm toán năm 2013 - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Hình 4.4 Cơ cấu ý kiến kiểm toán năm 2013 (Trang 42)
Bảng 4.2 dưới đây tóm tắt khái quát một số chỉ tiêu trong thống kê mô tả của mẫu nghiên cứu - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Bảng 4.2 dưới đây tóm tắt khái quát một số chỉ tiêu trong thống kê mô tả của mẫu nghiên cứu (Trang 43)
Trong mô hình được xây dựng, một số biến có tương quan với nhau, do đó để chắc chắn mô hình được xây dựng không có hiện tượng đa cộng tuyến, nhóm tác giả  tiến hành kiểm định đa cộng tuyến của mô hình - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
rong mô hình được xây dựng, một số biến có tương quan với nhau, do đó để chắc chắn mô hình được xây dựng không có hiện tượng đa cộng tuyến, nhóm tác giả tiến hành kiểm định đa cộng tuyến của mô hình (Trang 45)
Bảng 4.6 Kết quả hồi quy - báo cáo công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đề tài mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán việt nam
Bảng 4.6 Kết quả hồi quy (Trang 47)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w