PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Du lịch hiện nay đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, đóng góp vào việc chống đói nghèo và phát triển kinh tế Tuy nhiên, ngành du lịch đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của nó Biến đổi khí hậu có thể làm thay đổi điều kiện môi trường, gây ra tác động tiêu cực đến cảnh quan, nông nghiệp, và gia tăng thiên tai như bão, lũ lụt, và xói mòn bờ biển Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của điểm đến mà còn tác động đến cảm giác an toàn của du khách, đặc biệt là khách quốc tế, khi họ lựa chọn điểm đến Do đó, việc hiểu rõ tác động của biến đổi khí hậu đối với ngành du lịch là vô cùng cần thiết để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững trong tương lai.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang làm gia tăng cường độ và phạm vi của thiên tai, ảnh hưởng trực tiếp đến ngành du lịch Đà Nẵng, với vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của miền Trung, cùng với vẻ đẹp của các bãi biển, có tiềm năng du lịch lớn Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thành phố này đã phải đối mặt với những tác động nghiêm trọng từ BĐKH, như thời tiết cực đoan, mực nước biển dâng cao và thay đổi khí hậu, dẫn đến thiệt hại cho cơ sở hạ tầng du lịch và giảm giá trị tài nguyên thiên nhiên Do đó, việc nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của BĐKH đối với ngành du lịch là rất cần thiết để phát triển Đà Nẵng thành một trung tâm du lịch bền vững Tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Đánh giá tính tổn thương do BĐKH đối với ngành du lịch TP Đà Nẵng” để làm rõ những vấn đề này.
Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu chính của đề tài là đánh giá tính tổn thương do BĐKH đối với ngành du lịch thành phố Đà Nẵng bằng phương pháp GIS
Thu thập số liệu về BĐKH và thiên tai thành phố Đà Nẵng
3 Đánh giá mức độ tổn thương do BĐKH đối với ngành du lịch TP Đà Nẵng theo các quận, huyện
Trên cơ sở đó, đưa ra những định hướng và đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch của thành phố Đà Nẵng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là tính tổn thương do biến đổi khí hậu đối với ngành du lịch TP Đà Nẵng, được đánh giá trên ba phương diện: độ phơi nhiễm, tính nhạy cảm và khả năng thích ứng
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ diện tích phần đất liền của thành phố Đà Nẵng bao gồm 6 quận nội thành và huyện Hòa Vang.
Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Việt Nam đã bắt đầu từ những năm 90, với sự đóng góp của các nhà khoa học hàng đầu như Nguyễn Đức Ngữ, Trần Thục và Nguyễn Trọng Hiệu Tuy nhiên, sự quan tâm đến vấn đề này chỉ gia tăng từ năm 2000, đặc biệt là từ năm 2008 đến nay Các nghiên cứu đã đi sâu vào bản chất, nguyên nhân và cơ chế vật lý của BĐKH, cho thấy khí hậu Việt Nam đang có những biến đổi rõ rệt Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH, đứng thứ hai trong danh sách các nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi hiện tượng thời tiết cực đoan trong giai đoạn 1997-2016.
5 về chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018 và thứ 8 về chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn (Open Development Mekong, 2019)
Tại Việt Nam, USAID (2018) đã thực hiện nghiên cứu đánh giá tính DBTT do BĐKH trên hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, sử dụng khung lý thuyết của IPCC (2014) kết hợp với phỏng vấn cộng đồng và phân tích đa chỉ tiêu Nghiên cứu xác định 48 chỉ số chính và phụ liên quan đến độ phơi nhiễm, độ nhạy cảm và khả năng thích ứng, phân vùng mức độ DBTT cho 20 làng chài tại 18 xã thuộc 5 huyện xung quanh đầm phá Ngoài ra, các nghiên cứu khác tại Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh cũng đánh giá DBTT do BĐKH cho các mốc thời gian 2020, 2050 và 2100, tập trung vào dân cư, nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, cơ sở hạ tầng và vệ sinh môi trường Nghiên cứu của N.V.Q Bôi và Đ.T.T Kiều (2012) về tổn thương do BĐKH tại xã đảo Tam Hải, cùng với nghiên cứu của T.T Đạt và V.T.H Thu (2012) về khả năng DBTT của sinh kế ven biển, cũng đóng góp vào lĩnh vực này Các nghiên cứu khác trong nông nghiệp và du lịch của V.T Danh (2014), H.H Dương (2014), H.L.T Thủy và T.T Mùi cũng đã được thực hiện để đánh giá tác động của BĐKH.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong lĩnh vực thủy sản, đáng chú ý là các công trình của Võ Văn Minh (2014), Nguyễn Xuân Trịnh và Trần Văn Tam (2015), cùng với Dư Văn Toán và cộng sự (2017) M.T Nhuận và các đồng nghiệp (2002, 2015) đã đánh giá mức độ tổn thương của đới duyên hải miền Trung và Nam Trung Bộ, đồng thời đề xuất mô hình giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên địa chất tại khu vực bờ biển Phan Thiết – Vũng Tàu Ngoài ra, L.T.T Hiền và cộng sự (2006) đã nghiên cứu tính đa dạng sinh học tại đới ven biển Hải Phòng và lập bản đồ đa dạng sinh học, cho thấy khu vực có tính đa dạng sinh học cao tập trung ở khu nội thành cũ, khu nuôi trồng thủy hải sản và rừng phòng hộ.
Nghiên cứu về 5 hộ ven biển và khu bảo tồn san hô tại Hải Phòng đóng góp quan trọng vào việc quản lý tổng hợp và phát triển bền vững khu vực ven biển Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ các chiến lược bảo tồn và phát triển kinh tế bền vững cho vùng ven biển Hải Phòng.
Đánh giá tính bền vững trước biến đổi khí hậu (DBTT) ở Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực mới, với các nghiên cứu chỉ bắt đầu từ năm 2000 Dữ liệu trong các nghiên cứu này chưa được cập nhật đầy đủ và cần nhiều điều tra thực tế hơn Mặc dù các đề tài nghiên cứu rất đa dạng, nhưng chưa có một khung nghiên cứu thống nhất nào cho tất cả các địa phương, do đánh giá này phụ thuộc vào đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội và khả năng chống chịu của từng khu vực.
Thành phố Đà Nẵng đã triển khai nhiều dự án nghiên cứu về biến đổi khí hậu (BĐKH) và đánh giá tính dễ bị tổn thương do BĐKH Viện nước, Tưới tiêu và Môi trường (2009) thực hiện dự án “Đánh giá tác động của BĐKH và tính dễ bị tổn thương tại Đà Nẵng” trong chương trình “Mạng lưới các Thành phố Châu Á có khả năng chống chịu với Biến đổi Khí hậu”, phân tích thực trạng BĐKH và tính dễ bị tổn thương qua số liệu thống kê và điều tra thực địa Năm 2014, Văn phòng Ban chỉ đạo ứng phó với BĐKH và nước biển dâng cũng đã đánh giá tính dễ bị tổn thương của ngành du lịch Đà Nẵng dựa trên các yếu tố phơi nhiễm, nhạy cảm và khả năng thích ứng Nghiên cứu của Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2015) về mô hình đô thị ven biển thích ứng với BĐKH đã chọn Đà Nẵng làm trọng tâm Tuy nhiên, các đánh giá hiện tại chủ yếu ở cấp thành phố hoặc vùng, chưa có nghiên cứu nào ở cấp xã, phường, và phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa vào số liệu thống kê và điều tra xã hội học, với rất ít ứng dụng viễn thám và GIS.
Kết quả nghiên cứu từ các đề tài và công trình trước đây đã không còn cập nhật, do đó cần bổ sung thông tin để đánh giá chính xác hiện trạng tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu tại TP Đà Nẵng.
Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thu thập, phân tích số liệu thống kê
Phương pháp thu thập dữ liệu liên quan đến đề tài bao gồm việc xử lý và đánh giá thông tin từ nhiều nguồn khác nhau Chúng tôi thu thập số liệu từ các cơ quan như Trung tâm kỹ thuật phòng chống thiên tai miền Trung và Tây Nguyên, Sở Tài nguyên và Môi trường Đà Nẵng, Đài Khí tượng thủy văn Trung Trung Bộ, và Bộ Tài nguyên và Môi trường Ngoài ra, chúng tôi còn khai thác thông tin từ các website của các tổ chức và nhóm nghiên cứu trong và ngoài nước Các số liệu liên quan đến biến đổi khí hậu trong ngành du lịch sẽ được xử lý, phân tích và hệ thống hóa để xây dựng cơ sở dữ liệu về biến đổi khí hậu cho thành phố Đà Nẵng.
Phương pháp này được áp dụng để xây dựng và trình bày kết quả phân tích số liệu thống kê, nhằm hiển thị thông tin về tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu tại thành phố Đà Nẵng Kết quả phân tích sẽ được chuẩn hóa và tích hợp vào môi trường GIS để tạo ra các bản đồ liên quan.
5.3 Phương pháp đánh giá theo chỉ số Để việc đánh giá tính tổn thương do BĐKH được khoa học và tin cậy, đề tài sở dụng cách tiếp cận định lượng bằng việc xây dựng bộ tham số đánh giá và chỉ số dễ bị tổn thương do BĐKH đến du lịch theo công thức:
V: Chỉ số tổn thương tổng hợp;
E: chỉ số phơi nhiễm, chỉ số E càng cao thì mức độ tác động càng mạnh;
S: Chỉ số nhạy cảm, chỉ số S càng cao mức độ nhạy cảm càng lớn;
AC: chỉ số khả năng thích ứng, chỉ số AC càng cao thì khả năng thích ứng càng lớn
Thang đánh giá nguy cơ tổn thương được xác định trong khoảng từ 0 đến 1, phản ánh mức độ tổn thương với 4 cấp độ: Thấp, Trung bình, Cao và Rất cao Tuy nhiên, ở các khu vực khác nhau, thang đánh giá này có thể được điều chỉnh để phù hợp với chỉ số tổn thương cụ thể của từng vùng.
5.4 Phương pháp phân tích thứ bậc (AHP)
Phương pháp phân tích thứ bậc (AHP) là một mô hình toán học trong ra quyết định đa mục tiêu, được phát triển bởi Saaty vào năm 1980 AHP kết hợp tư duy định tính và định lượng thông qua việc sắp xếp thứ bậc và mô tả đánh giá bằng các con số Quá trình phân tích bắt đầu với việc xác định mục tiêu, tiêu chí và các phương án lựa chọn theo cấu trúc thứ bậc Đánh giá sử dụng ma trận so sánh cặp của Saaty với thang điểm từ 1 đến 9, xác định trọng số dựa trên vector riêng tương ứng với giá trị riêng lớn nhất, và kiểm tra hệ số nhất quán Cuối cùng, tổng hợp tất cả các trọng số giúp đưa ra quyết định tốt nhất.
PHẦN B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản về khí hậu, BĐKH và du lịch
1.1.1.1 Khái niệm khí hậu và thời tiết
Khí hậu là trạng thái trung bình của thời tiết tại một khu vực cụ thể, được xác định dựa trên dữ liệu trong ít nhất 30 năm Trong khi đó, thời tiết phản ánh điều kiện khí quyển tại một thời điểm và địa điểm nhất định, bao gồm các yếu tố như nhiệt độ, áp suất, tốc độ gió và lượng mưa.
Thời tiết thưởng thay đổi trong một ngày, từ ngày qua ngày khác, từ năn này qua năm khác nhưng khí hậu thì ít thay đổi (Trần Thị Ân, 2020)
Theo công ước khung của LHQ, biến đổi khí hậu (BĐKH) ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái tự nhiên, các hoạt động kinh tế - xã hội, sức khỏe và phúc lợi của con người BĐKH được định nghĩa là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học có tác động tiêu cực đến thành phần và khả năng phục hồi của hệ sinh thái, cũng như đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội Hiệp hội Khí tượng Mỹ (AMS) nhấn mạnh rằng BĐKH là sự thay đổi hệ thống của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, áp suất và gió trong thời gian dài, có thể do các quá trình tự nhiên như biến đổi năng lượng của Mặt trời hoặc do tác động từ hoạt động của con người.
Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam định nghĩa biến đổi khí hậu (BÐKH) là sự khác biệt giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số hoặc hệ thống khoa học, với trung bình được tính trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập kỷ Sự thay đổi này có thể là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động của con người, dẫn đến việc thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và góp phần vào sự biến động khí hậu tự nhiên trong các khoảng thời gian có thể so sánh.
GS.TSKH Lê Huy Bá nhận định rằng biến đổi khí hậu (BÐKH) là sự thay đổi đáng kể và lâu dài của các thành phần trong "khung" thời tiết truyền thống của một vùng cụ thể, chuyển sang trạng thái thời tiết mới Sự thay đổi này đạt các tiêu chí sinh thái một cách khác hẳn, và sau đó sẽ dần dần ổn định ở trạng thái mới.
Biến đổi khí hậu (BÐKH) là sự thay đổi của hệ thống khí quyển, thủy quyển, sinh quyển và thạch quyển do nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một khoảng thời gian nhất định, từ thập kỷ đến hàng triệu năm Sự thay đổi này có thể biểu hiện qua sự biến động của thời tiết trung bình hoặc sự phân bố của các hiện tượng thời tiết trong suốt năm BÐKH có thể xảy ra trong một khu vực cụ thể hoặc lan rộng toàn cầu.
Theo định nghĩa của IPCC năm 2007, biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi trong trạng thái của hệ thống khí hậu, có thể nhận diện qua sự thay đổi về trung bình và biến động của các thuộc tính khí hậu trong một khoảng thời gian dài, thường là hàng thập kỷ hoặc hơn Nói cách khác, BĐKH được hiểu là sự chuyển đổi từ một trạng thái cân bằng khí hậu này sang một trạng thái cân bằng khác, phản ánh sự thay đổi trong điều kiện thời tiết trung bình và các biến động của nó qua thời gian.
1.1.1.3 Tính dễ bị tổn thương do BĐKH
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc đã xác định ba khía cạnh chính của tính dễ bị tổn thương (DBTT) liên quan đến thiên tai và dịch bệnh, tình trạng nghèo đói, và các yếu tố khác.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) có ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường, sinh thái và xã hội, dẫn đến nhiều nghiên cứu nhằm lượng hóa tác động của nó Những nghiên cứu này đã tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro và tổn thất do BĐKH Thuật ngữ "tính dễ bị tổn thương do BĐKH" (DBTT) được sử dụng để chỉ mức độ mà một hệ thống (tự nhiên, xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương hoặc không có khả năng thích ứng với các tác động bất lợi từ BĐKH.
Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu (BĐKH) được xác định dựa trên sự phơi nhiễm, độ nhạy cảm của hệ thống và khả năng thích ứng của cộng đồng trước các tác động của BĐKH Điều này có nghĩa là những tác động còn lại của BĐKH sau khi thực hiện các biện pháp thích ứng Các định nghĩa này phản ánh sự phát triển trong nghiên cứu tổn thương, thể hiện cái nhìn toàn diện về mối liên hệ giữa kinh tế, xã hội và môi trường Khái niệm tính dễ bị tổn thương này đã được IPCC đưa ra vào năm 2007, nhấn mạnh rằng việc đánh giá tính dễ bị tổn thương do BĐKH liên quan đến mức độ dễ bị ảnh hưởng của các đối tượng như cộng đồng, khu vực, nhóm người hoặc hoạt động kinh tế - xã hội Mức độ dễ bị tổn thương không chỉ phụ thuộc vào bản chất của BĐKH mà còn vào độ nhạy cảm và khả năng thích ứng của đối tượng.
Bảng 1.1 Các khái niệm về tính tổn thương do biến đổi khí hậu của IPCC
Báo cáo của IPCC năm 1992 đã chỉ ra rằng tính tổn thương của một hệ thống trước những hậu quả của biến đổi khí hậu và nước biển dâng là rất quan trọng Mức độ tổn thương này phản ánh khả năng của hệ thống trong việc đối phó với các tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu.
Báo cáo năm 1996 chỉ ra rằng mức độ tổn hại do biến đổi khí hậu gây ra cho hệ thống không chỉ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của hệ thống mà còn vào khả năng thích ứng của cộng đồng với điều kiện khí hậu mới Định nghĩa này bao gồm các yếu tố như sự phơi nhiễm, độ nhạy cảm và khả năng phục hồi của hệ thống trước các mối nguy hiểm do biến đổi khí hậu.
Báo cáo năm 2001 đã chỉ ra rằng mức độ nhạy cảm của một hệ thống tự nhiên hoặc xã hội đối với thiệt hại do biến đổi khí hậu (BĐKH) là rất quan trọng Tính nhạy cảm này phản ánh khả năng của hệ thống trong việc chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ các yếu tố khí hậu, bao gồm cả lợi ích và bất lợi Ngoài ra, năng lực thích ứng của hệ thống, tức khả năng điều chỉnh để hạn chế thiệt hại tiềm ẩn và tận dụng cơ hội, cũng đóng vai trò quan trọng Cuối cùng, mức độ phơi nhiễm của hệ thống với các nguy cơ khí hậu, bao gồm các đặc tính, cường độ và phạm vi của biến đổi khí hậu, cần được xem xét để đánh giá toàn diện về ảnh hưởng của BĐKH.
Báo cáo lần 4 năm 2007 chỉ ra rằng hệ thống sinh thái, kinh tế - xã hội và sản xuất đang ở mức độ dễ bị tổn thương trước các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bao gồm sự dao động khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan.
Tính dễ bị tổn thương là một hàm của mức độ phơi nhiễm, mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng của hệ
12 thống đó Theo định nghĩa này, khi các biện pháp thích ứng được tăng cường, tính DBTT theo đó sẽ giảm đi
Hình 1.1 Sơ đồ tính tổn thương trong biến đổi khí hậu
Du lịch từ xa xưa đã trở thành một phần thiết yếu trong đời sống văn hóa - xã hội của nhân loại Ngành công nghiệp không khói này đang phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Thuật ngữ "du lịch" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, mang ý nghĩa "đi một vòng" Qua thời gian, thuật ngữ này đã được La Tinh hóa thành "Tonus".
“Tourisme” (Tiếng Pháp), “Tourism” (Tiếng Anh)
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Khái quát chung về điều kiện tự nhiêm, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng
Hình 1.2 Bản đồ hành chính thành phố Đà Nẵng
1.2.1.1 Điều kiện tự nhiên Đà Nẵng nằm ở trung độ của đất nước, cách Hà Nội 765km về phía Bắc và cách thành phố Hồ Chí Minh 964km về phía Nam, nối vùng Tây Nguyên qua Quốc lộ 14B và là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước Đông Bắc Á qua tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây a Đặc điểm địa hình Địa hình, địa mạo theo hướng từ tây sang đông, địa hình Tp Đà Nẵng có tính phân dị từ núi, đồi, đồng bằng và biển Tp Đà Nẵng có vịnh Đà Nẵng và 93 km bờ biển Đồng bằng ven biển hẹp bắt đầu từ chân đèo Hải Vân đến Duy Xuyên Các đồi cao từ 10 -15 m đến 100 m xuất hiện với diện tích không lớn ở các vùng Hòa Nhơn, Hòa Liên, Kim Liên Núi phân bố thành dải hẹp thuộc ba kiểu chính: uốn nếp khối tảng thuộc dãy Bạch Mã - Hải Vân có độ cao trên 1.000 m phát triển về phía tây, cùng với cao nguyên Tà Ôi, có phương vĩ tuyến; núi đảo thuộc bán đảo Sơn Trà với đỉnh Sơn Trà cao 696 m có phương vĩ tuyến; và núi sót trên đồng bằng tích tụ tạo thành dãy Ngũ Hành Sơn với năm đỉnh có tên là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, độ cao không vượt quá 150 m Các núi sót khác dãy núi Phước Tường với một thung lũng và đồi thấp kéo dài từ Túy Loan qua Hòa Nhơn đến Hòa Liên gồm nhiều khối nhỏ liên kết với nhau với các đỉnh không vượt quá 350 m Như vậy, Đà Nẵng là thành phố sơn thuỷ điển hình b Đặc điểm khí hậu
Theo dữ liệu quan trắc từ năm 1961 đến 2010 tại trạm Đà Nẵng, khí hậu nơi đây có những đặc điểm nổi bật Đà Nẵng thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ cao và ít biến động Đây là khu vực chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam, nhưng chủ yếu mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới của miền Nam Mỗi năm, Đà Nẵng có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1.
17 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài
Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này khoảng 25,9°C, với nhiệt độ cao nhất vào tháng 6, 7, 8 đạt từ 28-30°C và thấp nhất vào tháng 12, 1, 2 dao động từ 18-23°C Tại vùng rừng núi Bà Nà, ở độ cao gần 1.500 m, nhiệt độ trung bình khoảng 20°C Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%, cao nhất vào tháng 10, 11 với mức 85-88% và thấp nhất vào tháng 6, 7, trung bình 77-78%.
Lượng mưa trung bình hàng năm là trên 2.500 mm; lượng mưa cao nhất vào các tháng 10,11 trung bình 550 - 1.000 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 1 - 6, trung bình 23 – 40 mm/tháng
Năm có trung bình hơn 2.150 giờ nắng, với tháng 5 và 6 là thời điểm nắng nhiều nhất, dao động từ 234 đến 277 giờ/tháng Ngược lại, tháng 11 và 12 có ít nắng nhất, chỉ từ 69 đến 165 giờ/tháng Số ngày nắng nóng trong năm thường từ 35 đến 60 ngày, trong khi hạn hán thường xảy ra vào cuối đông, với tần suất cao nhất vào mùa xuân và mùa hè.
Sông Cu Đê có lưu vực nhỏ với hai nhánh chính là nhánh bắc và nhánh nam, chảy theo hướng tây - đông và đổ vào vịnh Đà Nẵng tại cửa Nam Ô Chế độ thủy văn của sông này biến động nhanh theo lưu lượng mưa Sông Túy Loan bao gồm hai nhánh: nhánh thứ nhất là sông Túy Loan với các chi lưu từ núi Bà Nà, nhánh thứ hai là sông Yên bắt nguồn từ Đại Lộc, chảy theo phương tây bắc - đông nam đến Cẩm Nê, nơi gặp sông Túy Loan và hình thành nên sông Cầu Đỏ Sông Yên có chế độ thủy văn biến động theo mùa và hoạt động xói lở mạnh Sông Cầu Đỏ gặp sông Vĩnh Diện, một nhánh của sông Vu Gia, tại Trung Lương - Hòa Quý, nơi tiếp nhận nước từ sông này.
Sông Vu Gia vừa tiếp nhận nước từ sông Thu Bồn, góp phần hình thành sông Hàn Cả Vu Gia và Thu Bồn là hai con sông chủ yếu trong hệ thống Thu Bồn, đổ nước ra biển qua hai cửa là Cửa Đại và cửa Sông Hàn Tổng lượng nước và phù sa mà hai con sông này mang ra biển rất đáng kể.
Chế độ thủy văn của sông Vu Gia và sông Thu Bồn có sự biến động mạnh mẽ, liên quan đến lượng mưa và địa hình khu vực Sông Thu Bồn, bắt nguồn từ núi Ngọc Lĩnh, chảy từ nam ra bắc và sau đó chuyển hướng tây - đông khi đến đồng bằng làng Thu Bồn Sự thay đổi mạnh mẽ về thủy văn của sông Thu Bồn theo mùa thường dẫn đến các tai biến lũ lụt nghiêm trọng Trong khi đó, sông Hàn mang đặc tính của một sông và lagoon cổ, mở rộng đến 1.000 m và chịu ảnh hưởng mạnh từ thủy triều, với lòng sông có sự tích tụ cát vừa và thô ở một số khu vực.
Vùng biển Đà Nẵng có chế độ bán nhật triều không đều với biên độ triều dao động từ 0,69 - 0,85m và biên độ lớn nhất lên tới 1,3m Trong mùa khô, hiện tượng nước biển xâm nhập sâu vào đất liền gây ra tình trạng nhiễm mặn cho nguồn nước mặt và nước ngầm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sinh hoạt của cư dân địa phương.
Khu vực Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của hai trường đứt gãy Sông Hồng và A Lưới, điều này ảnh hưởng đến quá trình hình thành và cấu trúc địa chất hiện đại của vùng Thành phố Đà Nẵng nằm ở rìa đông địa khối Indochina, nơi đã trải qua quá trình nâng cao mạnh mẽ trong giai đoạn kiến tạo Các vùng nâng Hải Vân, đông Bà Nà và Sơn Trà là những đơn vị cấu trúc nổi bật trong Tân kiến tạo Ngược lại, phần còn lại của thành phố là các khu vực sụt trũng như trũng Vĩnh Diện và vịnh Đà Nẵng Ngoài ra, có nhiều dấu hiệu cho thấy một số khu vực, như dọc sông Túy Loan và khu vực Cẩm An - Cẩm Thanh, đang bị sụt lún hiện đại.
1.2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội a Kinh tế
Trong những năm gần đây, Việt Nam nổi bật trong số các quốc gia ASEAN với mức tăng trưởng tích cực liên tục, chủ yếu nhờ vào việc đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực sản xuất.
19 càng tăng Với sự tăng trưởng tập trung vào việc tăng năng suất và chuyển sang các phân khúc giá trị gia tăng cao như điện tử & ô tô
Kinh tế thành phố đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ và liên tục trong giai đoạn 2010-2020, với tổng sản phẩm xã hội (GRDP, giá so sánh 2010) ước tăng bình quân 7,89% mỗi năm Đến năm 2019, GRDP ước đạt 68.879,3 tỷ đồng, gấp gần 2 lần so với năm 2010 GRDP bình quân đầu người năm 2019 ước đạt 95,7 triệu đồng, tăng 2,58 lần so với năm 2010.
Mặc dù Đà Nẵng dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, quy mô kinh tế của thành phố vẫn còn khiêm tốn so với tổng thể nền kinh tế Việt Nam GRDP của Đà Nẵng hiện chỉ chiếm 1,4% GDP cả nước, xếp thứ 4 trong số 5 thành phố trực thuộc trung ương.
Bảng 1.2 Cơ cấu GDP Đà Nẵng
Theo Niên giám thống kê 2019, Đà Nẵng không phải là nền kinh tế lớn về vốn, lao động và độ mở, nhưng lại nổi bật với số lượng doanh nghiệp Cụ thể, vốn đầu tư, lao động và độ mở của Đà Nẵng chỉ chiếm 1,7%, 0,99% và 0,85% tổng thể của Việt Nam.
Việt Nam 2018Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp - Xây dựng Dịch vụ
Trong giai đoạn 2016-2020, 20 vị trí đầu của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, với yếu tố vốn chiếm 50,4%, lao động 21% và các yếu tố khác 28,6% So với giai đoạn 2011-2015, tỷ trọng đóng góp đã cải thiện đáng kể, khi trong giai đoạn trước đó, cơ cấu tăng trưởng kinh tế lần lượt là 59,5% cho vốn, 25,4% cho lao động và 15,1% cho các yếu tố khác.
Trong giai đoạn 2016-2020, vốn đầu tư từ nguồn năng suất nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 12,8% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, cho thấy mức đầu tư còn thấp Đồng thời, tốc độ tăng bình quân của vốn đầu tư công tích luỹ đạt 5,6%, góp phần 0,46 điểm phần trăm vào sự tăng trưởng của GRDP.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá
2.1.1 Lựa chọn tiêu chí đánh giá
2.1.1.1 Chỉ số phơi nhiễm với biến đổi khí hậu của du lịch thành phố Đà Nẵng (E)
Chỉ số phơi nhiễm (E) phản ánh mức độ tác động của thiên tai, khí hậu và biến đổi khí hậu đối với du lịch Nghiên cứu này tập trung vào các chỉ số phơi nhiễm liên quan đến ngành du lịch.
Khí hậu ấm lên toàn cầu được coi là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng số lượng và cường độ siêu bão, đặc biệt là ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới đối với chiều dài đường bờ biển Đây là một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của biến đổi khí hậu, được đưa vào các tiêu chí đánh giá.
Tiêu chí 2 (E2) đề cập đến phần trăm diện tích bị ngập lụt theo quận (huyện) tại thành phố Đà Nẵng, nơi mà bão và lũ lụt là những thiên tai phổ biến Trong thời gian tới, tình trạng lũ lụt dự kiến sẽ gia tăng, bao gồm lũ quét, xói lở và ngập lụt Hơn nữa, sự gia tăng mực nước biển toàn cầu, đặc biệt là khu vực biển Đông, đang góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ngập lụt và mất đất trên diện rộng tại Đà Nẵng.
Thành phố Đà Nẵng, với bờ biển dài hơn 70km, đang phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng do mực nước biển dâng cao Tình trạng ngập lụt gia tăng ở các khu vực đất thấp, mất đất, và xói mòn bờ biển là những vấn đề nổi bật Hơn nữa, độ mặn tại các cửa sông và nguồn nước ngầm cũng tăng lên, dẫn đến sự suy giảm chất lượng nước và suy thoái hệ sinh thái ven biển Những tác động này rõ rệt là hệ quả của biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến du lịch tại Đà Nẵng thông qua ba yếu tố chính: mức độ phơi nhiễm, tính dễ bị tổn thương và sự tương quan tỉ lệ thuận giữa chúng Những yếu tố này cần được xem xét để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với ngành du lịch trong khu vực.
Bảng 2.1 Tương quan mức độ phơi nhiễm (E) Tiêu chí E Chi tiết Tương quan với tổn thương
E1 Ảnh hưỡng của bão và áp thấp nhiệt đới (Chiều dài đường bờ biển)
E2 Phần trăm diện tích bị ngập lụt theo quận huyện
Tỷ lệ phần trăm ngập do nước biển dâng được đánh giá dựa trên số liệu tổng chiều dài bờ biển của các quận huyện trong thành phố Đà Nẵng, sử dụng phần mềm QGIS để tính toán từ cơ sở dữ liệu nền về đường bờ biển Thông tin về phần trăm diện tích bị ngập lụt theo quận huyện được thống kê từ Sở GTVT TP Đà Nẵng năm 2007 Ngoài ra, phần trăm ngập do nước biển dâng được thu thập từ Báo cáo Cập nhật kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng năm 2020.
2.1.1.2 Chỉ số nhạy cảm với biến đổi khí hậu của du lịch thành phố Đà Nẵng (S)
Chỉ số nhạy cảm với biến đổi khí hậu của du lịch thành phố Đà Nẵng (sensitivity, S) được đánh giá theo 4 tiêu chí như sau:
Du lịch là một ngành kinh tế nhạy cảm với điều kiện môi trường tự nhiên, vì vậy tổng số doanh nghiệp và lao động trong lĩnh vực này chịu ảnh hưởng nặng nề từ biến đổi khí hậu.
Ngành du lịch Việt Nam hiện có 34 doanh nghiệp hoạt động, với số lượng lao động trong lĩnh vực này chịu ảnh hưởng rõ rệt từ các hoạt động du lịch, đặc biệt là lữ hành Các hoạt động như nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí và lữ hành phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết Thực tế, nhiều tour du lịch đã bị hủy do thời tiết xấu, bão lụt và lũ quét do biến đổi khí hậu Các chương trình du lịch tại miền Trung và vùng núi phía Bắc cũng đã phải hủy hoặc hoãn do mưa bão bất ngờ, gây ảnh hưởng lớn đến hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Mật độ giao thông thành phố theo từng quận (huyện) đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành du lịch, một lĩnh vực kinh tế liên ngành và liên vùng Sự nâng cấp hạ tầng giao thông, bao gồm đường bộ, nhà ga, bến tàu và các tuyến bay, đã mở rộng khả năng tiếp cận đến nhiều thị trường mới Đầu tư vào mạng lưới và phương tiện vận tải đường biển, đường sông cũng giúp cải thiện việc di chuyển và vận chuyển cho du khách Tuy nhiên, ngành giao thông hiện nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức do tác động của thiên tai.
Tiêu chí 4 (S4) về độ dài ống cấp nước trong thành phố đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống dân sinh và phát triển kinh tế, đặc biệt là hỗ trợ hoạt động của các nhà hàng, khách sạn và cơ sở du lịch Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, với hiện tượng nước biển dâng và mưa lớn gây ngập lụt, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng cung cấp nước sạch cho người dân và ngành du lịch.
Tổng số doanh nghiệp và lao động trong lĩnh vực du lịch tỷ lệ thuận với mức độ tổn thương của ngành này Mật độ hoạt động trong du lịch cũng phản ánh sự ảnh hưởng đến các yếu tố kinh tế và xã hội liên quan.
Mật độ giao thông tại thành phố được phân chia theo từng quận (huyện), và tỷ lệ nghịch với mức độ tổn thương Dưới đây là bảng thống kê chi tiết về tình hình giao thông của từng khu vực.
Bảng 2.2 Tương quan mức độ nhạy cảm S
Tiêu chí S Chi tiết Tương quan với tổn thương
S1 Tổng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch
S2 Tổng số lao động hoạt động trong lĩnh vực du lịch
S3 Mật độ giao thông thành phố theo từng quận (huyện)
Độ dài ống cấp nước trong thành phố Đà Nẵng có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với tổng số doanh nghiệp và lao động trong lĩnh vực du lịch, theo số liệu từ Niêm giám thống kê Đà Nẵng 2019 Thông tin về mật độ giao thông tại từng quận, huyện được tính toán bằng phần mềm QGIS dựa trên dữ liệu đường giao thông của thành phố Số liệu về độ dài ống cấp nước được thống kê bởi công ty Dawaco.
2.1.1.3 Chỉ số thích ứng đối với biến đổi khí hậu của du lịch thành phố Đà Nẵng (AC)
Chỉ số thích ứng đối với biến đổi khí hậu của du lịch thành phố Đà Nẵng (Adaptive Capacity, AC) được đánh giá theo 3 tiêu chí như sau:
Tiêu chí 1 (AC1) về thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động cho thấy rằng, khi có nguồn thu nhập ổn định, người dân sẽ có khả năng cải thiện cơ sở hạ tầng và lựa chọn các dịch vụ xã hội tốt hơn, từ đó nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Cơ sở y tế tại thành phố Đà Nẵng đóng vai trò quan trọng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, khi mà các yếu tố thời tiết cực đoan như bão, lũ, và sóng thần ngày càng gia tăng Sự thay đổi thời tiết không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn kéo theo các dịch bệnh, do đó, việc nâng cao năng lực và sự chuẩn bị của các cơ sở y tế là cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Xác định trọng số cho các tiêu chí
Để xác định trọng số cho các tiêu chí độ phơi nhiễm, độ nhạy cảm, khả năng thích ứng, cần phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Xác đinh các yếu tố liên quan và thiết lập thứ bậc quan trọng
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu trong phát triển du lịch tại Đà Nẵng là rất quan trọng Việc phân loại tầm quan trọng tương đối của các yếu tố này giúp hiểu rõ hơn về tác động của chúng Bước tiếp theo là phân hạng và so sánh các yếu tố để có cái nhìn tổng quan và đưa ra giải pháp hiệu quả cho du lịch bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Các cặp so sánh được sử dụng để xác định tầm quan trọng tương đối của từng yếu tố Phương pháp này dựa trên các câu hỏi như “Yếu tố A quan trọng gấp mấy yếu tố B” và “Yếu tố C quan trọng gấp mấy yếu tố B” Những câu trả lời cho các so sánh này được thu thập từ kinh nghiệm của các chuyên gia và được xác định bằng hệ số: 1, 3, 5, 7.
Bước 3: Tính giá trị trọng số bằng cách tổng hợp số liệu về độ ưu tiên, từ đó xác định trị số chung cho mức độ ưu tiên Điều này được thực hiện bằng cách tính tổng mỗi cột trong ma trận.
Ảnh hưởng của Bão và ATNĐ
Diện tích ngập do nước biển dâng
Diên tích bị ngập theo quận huyện
Tổng doanh nghiệp HĐ Du lịch
Độ dài ống dẫn nước
Thu nhập bình quân 1 tháng của người lao động
Tỷ lệ nhà kiên cố
Để xác định trọng số, bạn cần chia mỗi giá trị cho tổng của từng cột tương ứng Sau đó, tính giá trị trung bình của mỗi hàng, và giá trị này sẽ trở thành trọng số cho các tiêu chí.
Bước 4: Kiểm tra tính nhất quán của các cặp so sánh
Trong kỹ thuật AHP, cần xem xét tỷ lệ nhất quán (CR) CR= CI
RI, CR thể hiện sự nhất quán và thống nhất ý kiến của các chuyên gia trong quá trình tham gia thảo luận
Nếu chỉ số nhất quán (CR) nhỏ hơn 0,1 (10%), kết quả được coi là chấp nhận được do sự đánh giá của các chuyên gia tương đối nhất quán Ngược lại, nếu CR lớn hơn 0,1, sự đánh giá trở nên không nhất quán, với các phản đoán có tính ngẫu nhiên và cần phải được đánh giá lại.
CI là chi số nhất quan (Consistency Index)
- CI= (ƛmax -n)/(n- 1); n: số nhân tố (tiêu chí) ƛmax: giá trị riêng của ma trận so sánh
- RI la chỉ số ngẫu nhiên (Random Index)
RI được xác định theo bảng dưới:
2.2.1 Tính trọng số cho độ phơi nhiễm (E)
Theo công thức AHP, đối chiếu so sánh được các tiêu chí trong độ phơi nhiễm từ đó xác định trọng số cho từng tiêu chí như sau:
Bảng 2.4 Giá trị so sánh giữa các yếu tố trong độ phơi nhiễm (E)
Bảng 2.5 Giá trị quy đổi và trọng số của các yếu tố trong độ phơi nhiễm (E)
Theo công thức AHP ta có:
CI= (ƛmax -n)/(n- 1) ƛmax = Tổng (Trọng số của mỗi tiêu chí*Tổng của mỗi tiêu chí)
0.58 = 0.07 < 0.1 (Kết quả được chấp nhận)
2.2.2 Tính trọng số cho độ nhạy cảm (S)
Theo công thức AHP, đối chiếu so sánh được các tiêu chí trong độ nhạy cảm từ đó xác định trọng số cho từng tiêu chí như sau:
Bảng 2.6 Giá trị so sánh giữa các yếu tố trong độ nhạy cảm (S)
Bảng 2.7 Giá trị quy đổi và trọng số của các yếu tố trong độ nhạy cảm (S)
Theo công thức AHP ta có:
CI= (ƛmax -n)/(n- 1) ƛmax = Tổng (Trọng số của mỗi tiêu chí*Tổng của mỗi tiêu chí)
0.89 = 0.05 < 0.1 (Kết quả được chấp nhận)
2.2.3 Tính trọng số cho khả năng thích ứng (AC)
Theo công thức AHP, đối chiếu so sánh được các tiêu chí trong khả năng thích ứng từ đó xác định trọng số cho từng tiêu chí như sau:
Bảng 2.8 Giá trị so sánh giữa các yếu tố trong độ thích ứng (AC)
Bảng 2.9 Giá trị quy đổi và trọng số của các yếu tố trong khả năng thích ứng (AC)
AC 1 AC 2 AC 3 Trọng số (W)
Theo công thức AHP ta có:
RI (Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID, 2018)
CI= (ƛmax -n)/(n- 1) ƛmax = Tổng (Trọng số của mỗi tiêu chí*Tổng của mỗi tiêu chí)
0.58 = 0.07 < 0.1 (Kết quả được chấp nhận)
Xây dựng cơ sở dữ liệu GIS phục vụ đánh giá
Sau khi xây dựng bộ tham số đánh giá tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu đến du lịch và xác định trọng số cho các chỉ số, bước tiếp theo là chuyển đổi tất cả dữ liệu về cùng một thang đo để đảm bảo tính đồng nhất trong các đơn vị tính của các chỉ số này.
Trong Excel, các số liệu được quy đổi về thang giá trị từ 0 đến 1 bằng công thức nhất định, đặc biệt trong trường hợp chỉ số có tỉ lệ thuận với hợp phần được đánh giá.
Giá trị chuẩn hóa của chỉ thị j tại Quận (huyện) được ký hiệu là Xij, trong khi giá trị thực của chỉ thị ij là Xij(t) Giá trị thực nhỏ nhất của chỉ thị ij(t) trong tất cả các Quận (huyện) được gọi là Min Xij, và giá trị thực lớn nhất tương ứng là Max Xij.
Ngược lại, trong trường hợp chỉ số tính toán có quan hệ nghịch với hợp phần được đánh giá thì đề tài áp dụng công thức:
Giá trị chuẩn hóa của chỉ thị j tại Quận (huyện) được ký hiệu là Xij, trong khi giá trị thực của chỉ thị ij được biểu diễn là Xij(t) Giá trị thực nhỏ nhất của chỉ thị ij(t) trong tất cả các Quận (huyện) được gọi là Min Xij, và giá trị thực lớn nhất của chỉ thị ij(t) trong tất cả các Quận (huyện) là Max Xij.
Dữ liệu đã được chuẩn hóa trong Excel sẽ được chuyển đổi sang môi trường GIS, và các chỉ số sẽ được cập nhật tương ứng Hình 2.1 và 2.2 minh họa quy trình cập nhật dữ liệu trong phần mềm QGIS.
Hình 2.2 Nhập số liệu các tiêu chí, chuyển đổi qua tỷ lệ 0-1
Hình 2.3 Cập nhật dữ liệu vào QGIS
Hình 2.4 Hoàn thành cập nhập dữ liệu vào QGIS 2.3.2 Chuyển đổi dữ liệu sang GRASS GIS
Sau khi cập nhật dữ liệu GIS trong QGIS, dữ liệu sẽ được chuyển vào phần mềm GRASS GIS và chuyển đổi sang định dạng Raster để tiến hành phân tích chỉ số dễ bị tổn thương.
Hình 2.5 Chuyển đổi dữ liệu sang GRASS GIS
Hình 2.6 Các tiêu chí đánh giá BĐKH của thành phố Đà Nẵng
Đánh giá tính dễ bị tổn thương do BĐKH đối với ngành du lịch
2.4.1 Tính toán mức độ phơi nhiễm (E) Độ phơi nhiễn được tính toán bằng cách tổng hợp các chỉ số thành phần cùng với trọng số tương ứng theo công thức:
Từ công thức trên ta có kết quả ở bảng dưới đây:
Bảng 2.10 Giá trị mức độ phơi nhiễm theo từng quận huyện
Quận (huyện) Độ phơi nhiễm (E) Quận (huyện) Độ phơi nhiễm (E)
Thanh Khê 0,0666 Ngũ Hành Sơn 0,3319
Bảng 2.11 Mức độ phơi nhiễm phân theo từng quận huyện
Giá trị E Mức độ Khu vực (Quận/huyện)
0 – 0,25 Thấp Thanh Khê, Hải Châu, Cẩm Lệ
0,25 – 0,5 Trung bình Hòa Vang, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn
Từ bảng độ phơi nhiễm trên ta có được biểu đồ sau:
Hình 2.7 Biểu đồ thể hiện mức độ phơi nhiễm (E) của thành phố Đà Nẵng (tỷ lệ 0-1)
Hình 2.8 Tỷ lệ mức độ phơi nhiễm của thành phố Đà Nẵng
Chỉ số phơi nhiễm tại các quận huyện của thành phố Đà Nẵng dao động từ 0,0666 đến 0,6524, phản ánh mức độ phơi nhiễm từ thấp đến cao Quận Sơn Trà ghi nhận giá trị E cao nhất, trong khi quận Thanh Khê có giá trị E thấp nhất.
- Mức độ phơi nhiễm cao: Trong phạm vi toàn thành phố Đà Nẵng có 1/07 quận (huyện) có mức độ phơi nhiễm cao (chiếm 14,3%), đó là: Quận Sơn Trà (0,6524)
- Mức độ phơi nhiễm Trung bình có 3 quận (huyện) chiếm (42,85%), đó là Quận Liên Chiểu (0,4714), Quận Ngũ Hành Sơn (0,3319), huyện Hòa vang (0,26)
Mức độ phơi nhiễm thấp tại Đà Nẵng ghi nhận ở 3 quận, chiếm 42,85% tổng số quận, gồm Cẩm Lệ (0,1168), Thanh Khê (0,0666) và Hải Châu (0,0888) Đánh giá chung cho thấy các yếu tố phơi nhiễm đã tác động đến ngành du lịch thành phố ở mức trung bình với giá trị 0,28 Các huyện ven biển và gần biển chịu ảnh hưởng của các yếu tố phơi nhiễm cao hơn so với các huyện nằm sâu trong đất liền.
Son Tra Ngu Hanh Son
2.4.2 Mức độ nhạy cảm (S) Độ nhạy cảm được tính toán bằng cách tổng hợp các chỉ số thành phần cùng với trọng số tương ứng theo công thức:
Từ công thức trên ta có kết quả ở bảng dưới đây:
Bảng 2.12 Giá trị mức độ nhạy cảm phân theo từng quận huyện
Quận (huyện) Độ nhạy cảm (S) Quận (huyện) Độ nhạy cảm (S)
Thanh Khê 0,2345 Ngũ Hành Sơn 0,7114
Bảng 2.13 Mức độ nhạy cảm phân theo từng quận huyện
Giá trị S Mức độ Khu vực (Quận/huyện)
0 – 0,25 Thấp Cẩm Lệ, Hòa Vang, Thanh Khê
0,5 – 0,75 Cao Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà
Từ bảng độ nhạy cảm trên ta có được biểu đồ sau:
Hình 2.9 Biểu đồ thể hiện mức độ nhạy cảm (S) của thành phố Đà Nẵng (tỷ lệ 0-1)
Hình 2.10 Tỷ lệ mức độ nhạy cảm của thành phố Đà Nẵng
Son Tra Ngu Hanh Son
Chỉ số nhạy cảm của các quận huyện tại thành phố Đà Nẵng dao động từ 0.1771 đến 0.8044, thể hiện mức độ nhạy cảm từ thấp đến rất cao Quận Hải Châu có giá trị S cao nhất, trong khi quận Cẩm Lệ ghi nhận giá trị S thấp nhất.
- Mức độ nhạy cảm rất cao: Toàn thành phố có 1 quận: Quận Hải Châu 0,8044 (chiếm 14,3% tổng số quận, huyện)
- Mức độ nhạy cảm cao: Có 2 quận, đó là quận Sơn Trà 0,7472, quận Ngũ Hành Sơn 0,7114
- Mức độ nhạy cảm trung bình: có 1 quận, đó là quận Liên Chiểu 0,2621
- Mức độ nhạy cảm thấp: Có 3 Quận huyện chiếm (42,9%), đó là Quận Thanh
Mức độ nhạy cảm của ngành du lịch thành phố Đà Nẵng trước các tác động của biến đổi khí hậu được đánh giá ở mức trung bình với giá trị 0,44 Các quận như Khê, Cẩm Lệ và huyện Hòa Vang có chỉ số nhạy cảm lần lượt là 0,2345, 0,1771 và 0,1917 Điều này cho thấy rằng những khu vực có đa dạng loại hình và nhiều cơ sở du lịch thường có mức độ nhạy cảm cao và rất cao đối với biến đổi khí hậu.
2.4.3 Mức độ thích ứng (AC)
Khả năng thích ứng được tính toán bằng cách tổng hợp các chỉ số thành phần cùng với trọng số tương ứng theo công thức:
Từ công thức trên ta có kết quả ở bảng dưới đây:
Bảng 2.14 Giá trị khả năng thích ứng phân theo từng quận huyện
Quận (huyện) Độ thích ứng (AC) Quận (huyện) Độ thích ứng (AC)
Thanh Khê 0,4945 Ngũ Hành Sơn 0,5474
Bảng 2.15 Mức độ khả năng thích ứng phân theo từng quận huyện
Giá trị AC Mức độ Khu vực (Quận/huyện)
0 – 0,25 Thấp Cẩm Lệ, Hòa Vang, Sơn Trà
0,25 – 0,5 Trung bình Liên Chiểu, Thanh Khê
Từ bảng độ thích ứng trên ta có được biểu đồ sau:
Hình 2.11 Biểu đồ thể hiện khả năng thích ứng (AC) của thành phố Đà Nẵng (tỷ lệ 0-1)
Hình 2.12 Khả năng thích ứng của thành phố Đà Nẵng
Chỉ số năng lực thích ứng tại các quận, huyện của thành phố Đà Nẵng dao động từ 0,0575 đến 1,0, cho thấy mức độ thích ứng từ thấp đến rất cao Quận Hải Châu có giá trị AC cao nhất, trong khi quận Cẩm Lệ có giá trị thấp nhất.
- Năng lực thích ứng rất cao: Toàn thành phố chỉ có Quận Hải Châu 1,0 chiếm 14,3
- Năng lực thích ứng cao: có 1 quận đó là: Quận Ngũ Hành Sơn 0,5474
- Năng lực thích ứng trung bình: có 2 quận, đó là: quận Thanh Khê 0,4945, Quận Liên Chiểu 0,4593
- Năng lực thích ứng thấp: Tại 3 quận huyện còn lại, đó là quận Sơn Trà 0,2333, huyện Hòa Vang 0,1607, quận Cẩm Lệ 0,0575
Các quận có tiềm năng phát triển kinh tế mạnh mẽ và cơ sở hạ tầng được đầu tư kỹ lưỡng, bao gồm cả hạ tầng du lịch, cùng với trình độ dân trí và thu nhập cao, sẽ có khả năng ứng phó tốt với biến đổi khí hậu Ngược lại, những quận huyện có tiềm lực kinh tế và cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ gặp khó khăn hơn trong việc đối phó với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra.
Ngu Hanh Son Cam Le
Khả năng thích ứng AC
54 thấp Nhìn chung khả năng thích ứng của du lịch thành phố Đà Nẵng đối với BĐKH ở mức trung bình (0,43)
2.4.4 Mức độ tính tổn thương (V)
Giá trị tổn thương V được tính toán theo công thức của IPCC:
Trong đó: V: Tính dễ bị tổn thương
E: Độ phơi nhiễm S: Độ nhạy cảm AC: Khả năng thích ứng Giá trị V sau đó lại được chuẩn hóa về thang đo từ 0 đến 1 và phân thành 4 cấp như sau:
Từ 0 – 0,25 : Thấp 0,25 – 0,5 : Trung Bình 0,5 – 0,75 : Cao
Bảng 2.16 Tính tổn thương theo từng quận huyện
Quận (huyện) Độ tổn thương (V) Quận (huyện) Độ tổn thương (V)
Thanh Khê 0,0001 Ngũ Hành Sơn 0,5070
Từ bảng tính tổn thương trên ta có được biểu đồ sau:
Hình 2.13 Biểu đồ thể hiện mức độ tổn thương (V) của thành phố Đà Nẵng (tỷ lệ 0-1)
Hình 2.14 Mức độ tổn thương do biến đổi khí hậu tới hoạt động du lịch tại thành phố Đà Nẵng
Son Tra Ngu Hanh Son
Chỉ số tổn thương V tại các quận huyện của Đà Nẵng dao động từ 0,0001 đến 1,0, phản ánh mức độ tổn thương từ thấp đến rất cao Quận Sơn Trà ghi nhận giá trị V cao nhất, trong khi quận Thanh Khê có giá trị V thấp nhất.
- Mức độ tổn thương rất cao: toàn thành phố chỉ có quận Sơn Trà có mức độ tổn thương rất cao, đạt giá trị là 1,0
- Mức độ tổn thương cao: có 1 quận, đó là: quận Ngũ Hành Sơn 0,5070 (chiếm 14,3% tổng số quận, huyện)
- Mức độ tổn thương trung bình: có 3 quận, huyện, đó là: Huyện Hòa Vang 0,3563, quận Liên Chiểu 0,3439, quận Cẩm Lệ 0,3161
Mức độ tổn thương của ngành du lịch thành phố Đà Nẵng do biến đổi khí hậu được đánh giá với chỉ số trung bình là 0,37 Hai quận có mức độ tổn thương thấp là Hải Châu (0,0637) và Thanh Khê (0,0001) Trong khi đó, quận Sơn Trà có mức độ tổn thương cao nhất do đa phần diện tích giáp biển, dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và khả năng thích ứng thấp Ngược lại, quận Hải Châu mặc dù có chỉ số nhạy cảm cao nhưng nhờ khả năng thích ứng tốt nên mức độ tổn thương chỉ ở mức thấp.
Chỉ số dễ bị tổn thương trong du lịch của thành phố Đà Nẵng được xác định dựa trên các thành phần như phơi bày (E), nhạy cảm (S) và năng lực thích ứng (AC) theo mô hình của IPCC Kết quả phân tích được thực hiện dựa trên dữ liệu thu thập từ niên.
Theo báo cáo của 57 giám thống kê thành phố, tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đến du lịch ở Đà Nẵng được đánh giá là ở mức trung bình Hai quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn có mức độ dễ bị tổn thương cao nhất do độ nhạy cảm lớn nhưng khả năng thích ứng với BĐKH còn hạn chế Nghiên cứu cũng cho thấy ba quận, huyện Liên Chiểu, Cẩm Lệ và Hòa Vang ở mức độ tổn thương trung bình, trong khi hai quận Thanh Khê và Hải Châu có tính tổn thương thấp.