(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020(Luận án tiến sĩ) Chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ TÍN DỤNG Ở CHDCND LÀO
Việc xây dựng và thực thi chính sách phù hợp với cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Lĩnh vực này phức tạp và nhạy cảm, yêu cầu một cơ sở lý luận vững chắc và sự phù hợp với thực tế kinh tế Lào Nghiên cứu lý luận chung về kinh tế thị trường, cùng với kinh nghiệm của một số quốc gia và phân tích thực trạng hoạt động dịch vụ tín dụng, sẽ là căn cứ để đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng Điều này góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
4.1 Định hướng và quan điểm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
4.1.1 Đị nh h ướ ng phát tri ể n kinh t ế -xã h ộ i đế n n ă m 2020 và xu h ướ ng m ở c ử a h ộ i nh ậ p kinh t ế qu ố c t ế c ủ a CHDCND Lào
4.1.1.1 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của CHDCND Lào đến năm 2020
Theo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, định hướng phát triển kinh tế-xã hội của nước CHDCND Lào trong giai đoạn 2016 – 2020 được xác định một cách cụ thể.
- Đến năm 2020, ước tính tỷ lệ dân số Lào khoảng 7,6 triệu người, với tỷ lệ tăng trưởng khoảng 2,2%
Kinh tế quốc gia đã có sự phát triển liên tục và ổn định, với tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trên 8,5% mỗi năm Trong đó, ngành nông nghiệp đóng góp khoảng 3,3% và chiếm 18,2% GDP năm 2020, ngành công nghiệp tăng 15% và chiếm 45,4% GDP, trong khi ngành dịch vụ tăng 6,5% và chiếm 32,6% GDP Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người đạt 3,253 USD.
TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG
Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
2.2.1.1.Khái niệm và đặc điểm của chính sách Nhà nước
Khái niệm Chính sách Nhà nước
Khái niệm “chính sách” là một khái niệm có thể hiểu ở nhiều góc độ khác nhau:
Tiếp cận dưới góc độ chính trị, theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường,
Chính sách được hiểu là tập hợp các biện pháp do một chủ thể quyền lực thiết lập nhằm định hướng xã hội thực hiện các mục tiêu chính trị của mình.
Tiếp cận dưới góc độ tâm lý học, theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường,
Chính sách được định nghĩa là tập hợp các biện pháp ưu đãi nhằm khuyến khích một nhóm xã hội hoạt động theo hướng đạt được mục tiêu của chủ thể quyền lực.
Theo Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường (2014), tiếp cận pháp lý và chính sách được định nghĩa là tập hợp các biện pháp thể chế hóa nhằm phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội, đồng thời điều chỉnh động cơ hoạt động của các nhóm đó theo hướng mục tiêu phát triển xã hội.
Tiếp cận dưới góc độ hệ thống, theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường,
Chính sách vận hành và tác động đến xã hội theo quy luật của một hệ thống, bao gồm các yếu tố như chủ thể chính sách, đối tượng chính sách, và sự tác động từ chủ thể Những yếu tố này dẫn đến phản ứng xã hội trước chính sách và tạo ra sự tương tác giữa chính sách với môi trường xã hội.
Chính sách được định nghĩa là hệ thống sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm cụ thể về chính sách Nhà nước, xuất phát từ khái niệm chính sách nói chung.
Chính sách Nhà nước, theo Jenskin (1978), là tập hợp các quyết định liên quan của một nhà chính trị hoặc nhóm nhà chính trị, nhằm lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được những mục tiêu đó.
Theo (Aucoin, 1979) “Chính sách Nhà nước bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành”
Chính sách Nhà nước được định nghĩa là tổng thể quan điểm, tư tưởng và giải pháp mà Nhà nước áp dụng để tác động đến các chủ thể kinh tế - xã hội, nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể theo định hướng phát triển chung của đất nước (PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, 2007).
Theo TS Nguyễn Trọng Hòa và TS Vũ Sỹ Cường (2014), chính sách Nhà nước là hành động của Nhà nước đối với các vấn đề trong cộng đồng, được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau Mục tiêu của chính sách này là thúc đẩy sự phát triển xã hội theo định hướng nhất định.
Các khái niệm chính sách Nhà nước được đưa ra ở trên đã cho thấy rõ những đặc trưng của chính sách Nhà nước, đó là:
Chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như Quốc hội, Chính phủ, các Bộ và chính quyền địa phương Chính sách Nhà nước được đề ra và thực thi bởi các cơ quan này, do đó luôn phản ánh bản chất của Nhà nước.
Chính sách Nhà nước bao gồm nhiều quyết định liên quan, nhằm giải quyết các vấn đề chính sách Những quyết định này được ban hành bởi các cấp khác nhau trong Bộ máy Nhà nước và có tính chất lâu dài Một chính sách có thể được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật, tạo căn cứ pháp lý cho việc thực thi.
Các quyết định chính sách là hành động thể hiện ý định của nhà hoạch định chính sách nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng Tuy nhiên, một chính sách chỉ được coi là hợp lệ khi nó không chỉ là dự định, mà còn bao gồm các hành vi thực hiện những dự định đó và mang lại kết quả thực tế.
Chính sách Nhà nước tập trung vào việc giải quyết các vấn đề cụ thể trong đời sống kinh tế - xã hội với những mục tiêu rõ ràng Khác với các công cụ quản lý như chiến lược hay kế hoạch, chính sách được thiết lập và thực hiện nhằm đáp ứng một hoặc một số vấn đề xã hội hiện tại, thể hiện sự liên kết chặt chẽ với các vấn đề chính sách xuyên suốt.
Chính sách Nhà nước vào năm thứ n ảnh hưởng trực tiếp đến các đối tượng của chính sách, những người chịu sự tác động và điều tiết từ chính sách đó Phạm vi điều tiết của chính sách có thể rộng hoặc hẹp, tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng chính sách.
Vào thứ sáu, Chính sách Nhà nước được thiết lập để phục vụ lợi ích chung của quốc gia và cộng đồng Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn tình trạng một số chính sách mang lại lợi ích nhiều hơn cho một nhóm dân cư nhất định so với các nhóm khác.
2.2.1.2.Nội dung cơ bản của chính sách Nhà nước và các phương tiện thể hiện chính sách
Nội dung cơ bản của chính sách Nhà nước
Mỗi một chính sách Nhà nước đều bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Mục tiêu của chính sách
- Quy định của chính sách
- Giải pháp và công cụ thực hiện mục tiêu
Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của CHDCND Lào
Trong giai đoạn 2000 – 2010, nền kinh tế CHDCND Lào phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7,1% Ngành nông nghiệp tăng 2,8%, công nghiệp 10,5% và dịch vụ 9,2% GDP bình quân đầu người tăng từ 325 USD năm 2000 lên 1.069 USD năm 2010, cho thấy sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu kinh tế Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 48,03% xuống 31%, trong khi tỷ trọng công nghiệp tăng từ 19,74% lên 27,7% và dịch vụ từ 32,23% lên 41,3%.
Năm 2015, CHDCND Lào tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng với mức 7,2%/năm, nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của ngành dịch vụ, đạt 8,5% và chiếm 43,2% tổng GDP Ngành công nghiệp cũng có sự tăng trưởng đáng kể với 7,6%, đóng góp 32% vào GDP, trong khi nông nghiệp tăng trưởng 2,4% và chiếm 24,8% tổng GDP GDP bình quân đầu người đã tăng từ 1.069 USD năm 2010 lên 1.824 USD năm 2015, tương đương với mức tăng hơn 1,7 lần.
2015 là 5,3%, một kết quả tương đối khả quan so với mức lạm phát trong giai đoạn từ năm 2010 trở lại đây
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế Lào giai đoạn 2000-2015 Đơn vị tính: %
Nguồn: Cục Kế hoạch và Viện Thống kê Quốc gia
Từ năm 2005 đến 2015, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển dịch rõ rệt Tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp giảm từ 78,5% xuống 65%, trong khi tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng và khai thác mỏ tăng từ 4,8% lên 8,9% Đồng thời, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ cũng tăng mạnh từ 16,7% lên 26,1% Sự chuyển dịch này phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế và xu hướng phát triển của các ngành nghề.
Hoạt động thương mại quốc tế của Lào đã có nhiều tiến bộ trong giai đoạn 2000 – 2015, với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 327 triệu USD lên 3.305,3 triệu USD, tương đương mức tăng hơn 10 lần, trong khi kim ngạch nhập khẩu cũng tăng mạnh từ 595 triệu USD lên 4.700 triệu USD Những thành tựu này chủ yếu nhờ vào việc Lào tích cực hội nhập khu vực và toàn cầu, gia nhập ASEAN vào năm 1997, WTO năm 2013 và AEC vào năm 2015 Chính phủ Lào đã thực hiện nhiều biện pháp cải thiện cơ chế thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất nhập khẩu Tuy nhiên, Lào vẫn đối mặt với thâm hụt thương mại lớn, đạt đỉnh điểm 1.609,21 triệu USD vào năm 2014 và giảm xuống 1.394,7 triệu USD vào năm 2015, nhưng vẫn ở mức cao.
Bảng 3.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Lào giai đoạn 2000-2015 Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Báo cáo thường niên các năm của NHNN Lào;
Thống kê Bộ Công Thương Lào
CHDCND Lào có nền chính trị xã hội ổn định và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khoảng 7%/năm, tạo điều kiện cho sự phát triển trong kinh doanh, sản xuất, dịch vụ và đầu tư Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, dẫn đến việc quản lý và sử dụng tài nguyên chưa bền vững và không thân thiện với môi trường, cần được giải quyết sớm Về mặt xã hội, cơ sở hạ tầng và dịch vụ đã cải thiện, đời sống người dân được nâng cao, chất lượng lao động tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm, giáo dục đào tạo được chú trọng.
Thực trạng thị trường dịch vụ tín dụng ở nước CHDCND Lào
3.2.1 Quá trình hình thành và phát tri ể n các t ổ ch ứ c tín d ụ ng t ạ i n ướ c CHDCND Lào
Các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào bao gồm ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phi ngân hàng, trong đó ngân hàng thương mại chiếm khoảng 95% thị phần Sự phát triển của các tổ chức tín dụng tại Lào có thể được chia thành hai giai đoạn chính.
Quá trình phát triển trước năm 1986
Trong thời kỳ Pháp thuộc, Lào chỉ có một Chi nhánh của Ngân hàng Đông Dương Đến năm 1952 và 1953, các nhà tư sản tư nhân Lào đã thành lập ba ngân hàng chuyên doanh, hoạt động dưới sự kiểm soát của Chi nhánh Ngân hàng Đông Dương Năm 1958, chính quyền Vương Quốc Lào đã chính thức thành lập “Ngân hàng Quốc gia Vương Quốc Lào”, đánh dấu sự ra đời của đồng tiền Kíp Lào, tạo lập nền tiền tệ độc lập và tự chủ cho Lào.
Sau khi đất nước được giải phóng, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào được thành lập vào ngày 02 tháng 12 năm 1975, dẫn đến việc chính quyền cách mạng thu hồi và tổ chức lại hệ thống ngân hàng Năm 1981, Ngân hàng quốc gia Vương quốc Lào được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Lào (NHNN Lào), và đồng tiền Kíp Lào đã được sử dụng rộng rãi trên toàn quốc.
Ngân hàng Nhà nước Lào (NHNN Lào) hoạt động theo mô hình một cấp, với cấu trúc từ trung ương đến địa phương Là cơ quan thuộc hội đồng Bộ trưởng, NHNN Lào có tư cách pháp nhân và vốn riêng, chịu trách nhiệm quản lý toàn ngành ngân hàng theo nguyên tắc hạch toán kinh tế thống nhất Thống đốc NHNN Lào đứng đầu, là thành viên của hội đồng Bộ trưởng và phụ trách toàn bộ hoạt động ngân hàng Dưới thống đốc có 4 phó thống đốc và các Vụ, Cục hỗ trợ thực hiện chức năng quản lý về tiền tệ và tín dụng ngân hàng Hệ thống ngân hàng hiện tại chưa thể hiện rõ vai trò của mình do sự lẫn lộn giữa quản lý vĩ mô và tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Quá trình phát triển từ năm 1986 đến nay
Sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, Lào đã bước vào thời bình nhưng phải đối mặt với nhiều hậu quả nặng nề, bao gồm kinh tế chậm phát triển và đời sống nhân dân khó khăn Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, với trọng tâm là mở cửa và điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế, nhằm từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
Dựa trên chính sách đổi mới của Chính phủ năm 1986, vào ngày 12/03/1988, Chính phủ Lào đã thông qua Nghị quyết chuyển đổi hệ thống ngân hàng sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Từ thời điểm này, hệ thống ngân hàng Lào đã có những thay đổi đáng kể, chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước Sự chuyển đổi này bao gồm việc thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Ngân hàng Thương mại (NHTM), với 19 chi nhánh NHNN trước đây được chuyển đổi thành 07 NHTM hoạt động kinh doanh tiền tệ Năm 1988, Nghị định số 03/PM về quản lý hoạt động kinh doanh của NHTM và các tổ chức tài chính đã được phê duyệt Đến năm 1989, hội nghị đầu tiên về phương hướng đổi mới hệ thống ngân hàng đã diễn ra, và năm 1990, Quốc hội Lào thông qua Luật tổ chức Ngân hàng, cho phép các tổ chức trong và ngoài nước thành lập chi nhánh ngân hàng tại Lào, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều loại hình ngân hàng mới như ngân hàng liên doanh và ngân hàng cổ phần.
Hệ thống pháp lý hoàn chỉnh trong lĩnh vực ngân hàng tại CHDCND Lào đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là ngân hàng thương mại Sự hoàn thiện về thể chế và mức độ hội nhập sâu rộng của Lào vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu đã dẫn đến sự gia tăng số lượng ngân hàng thương mại với nhiều hình thức sở hữu hoạt động kinh doanh trên thị trường Lào.
Hình 3.1: Số lượng NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015
Nguồn: Báo cáo Thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào các năm 2000, 2005, 2010, 2015
Trong giai đoạn 2000 – 2015, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) tại CHDCND Lào đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với số lượng NHTM tư nhân tăng từ 0 lên 7 ngân hàng Đặc biệt, số lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng đáng kể, từ 6 ngân hàng năm 2000 lên 19 ngân hàng vào năm 2015, hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng tại Lào.
2015, số lượng văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài cũng tăng từ 02 văn phòng lên
09 văn phòng; trong khi số lượng ngân hàng liên doanh về cơ bản ổn định ở mức 03
Ngân hàng thương mại Nhà nước Ngân hàng thương mại tư nhân
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài Văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng liên doanh tại CHDCND Lào đang chiếm ưu thế trong hệ thống ngân hàng, với sự hiện diện mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài Lý do chính cho sự phát triển này là Lào được coi là một thị trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài nhờ vào quỹ đất phong phú và nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn.
Số lượng ngân hàng thương mại nhà nước ở Lào đã giảm từ 04 ngân hàng vào năm 2000 xuống còn 03 ngân hàng vào năm 2005 và giữ ổn định ở mức này cho đến nay Ba ngân hàng thương mại nhà nước hiện tại bao gồm Ngân hàng Ngoại thương Lào, Ngân hàng Phát triển Lào và Ngân hàng Khuyến khích Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sự thay đổi về số lượng ngân hàng thương mại nhà nước trong giai đoạn 2000 – 2005 phản ánh những biến động trong hệ thống ngân hàng quốc gia.
Năm 2003, Chính phủ Lào đã tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng bằng cách sáp nhập các ngân hàng thương mại nhà nước Kết quả là Ngân hàng Phát triển Lào được thành lập từ sự hợp nhất của Ngân hàng Lane Xang và Ngân hàng LaoMay.
Tính đến năm 2015, sau gần 30 năm đổi mới, Lào đã có tổng cộng 41 ngân hàng thương mại, trong đó 3 ngân hàng nhà nước chiếm 60% thị phần Ngoài ra, nước này còn có 3 ngân hàng liên doanh, 7 ngân hàng thương mại tư nhân, 9 đại lý văn phòng nước ngoài và 19 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trong năm 2014, có 5 ngân hàng mới được thành lập tại Lào, bao gồm Ngân hàng Lào-Trung Quốc, Ngân hàng RSB Lào, Ngân hàng CIMB Thái (chi nhánh Viêng Chăn), Ngân hàng Khasikon Thái và Ngân hàng Carthe Unitet (chi nhánh Viêng Chăn) Tiếp nối xu hướng này, năm 2015 chứng kiến sự ra mắt của thêm 5 ngân hàng mới, trong đó có 3 văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài (Ngân hàng Viettin Lào, Ngân hàng Canadia Lào, Ngân hàng Saigon-Hanoi Lào) và 2 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Ngân hàng Bangkok, chi nhánh Pakse và Ngân hàng Malayan, chi nhánh Nongduang tại Viêng Chăn).
Hình 3.2: Cấu trúc hệ thống Ngân hàng CHDCND Lào năm 2015
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Ngân hàng thương mại tư nhân
1 Ngân hàng Liên phát triển
2 Ngân hàng Phông sa văn
Văn phòng Đại lý Ngân hàng Nước ngoài
3 Ngân hàng Thương mại Quốc tế
4 Ngân hàng Liên doanh thương mại Sài Ngòn Thương tính
9 Ngân hàng Saigon-Ha noi Lào
1 Ngân hàng Ngoài thương Lào
2 Ngân hàng Phát triển Lào
3 Ngân hàng Khuyến khích Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài
1 Ngân hàng Kung thêp, chi nháhn Thủ đô Viêng Chăn
2 Ngân hàng Kung thai, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn
3 Ngân hàng Kung si ,chi nhánh Thu đô Viêng Chăn
4 Ngân hàng Quân đội Thái, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn
5 Ngân hàng Thương mại Thái, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn
7 Ngân hàng Public, chi nhánh Si khay
8 Ngân hàng Public, chi nhánh Sa Văn Na Khệt
9 Ngân hàng Kung si, chi nhánh Sa Văn Na Khệt
10 Ngân hàng Cổ phần Thương mại Quân đội, chi nhánh Lào
11 Ngân hàng Công thương Trung quốc (ICBC)
12 Ngân hàng Công thương Việt Nam (Việttinbank), chi nhánh Lào
13 Ngân hàng Thương mại Sài Ngòn-Hà Nội, chi nhánh Lào
14 Ngân hàng Public, chi nhánh Pakse
15 Ngân hàng May, chi nháhn Lào
16 Ngân hàng CIMB Thái, chi nhánh Viêng Chăn
17 Ngân hàng Carthe Unitet, chi nhánh Viêng Chăn
18 Ngân hàng Bangkok, chi nhánh Pakse
19 Ngân hàng Malayan, chi nhánh Nongduang (Viêng Chăn)
1 Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt
3 Ngân hàng Lào- Trung quốc
Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.3 minh họa sự thay đổi tỷ trọng tài sản và tiền gửi của các loại hình ngân hàng thương mại tại CHDCND Lào trong giai đoạn 2008 – 2013 Qua hình ảnh này, có thể nhận thấy một số đặc điểm nổi bật trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào.
Mặc dù chỉ có ba ngân hàng thương mại nhà nước tại CHDCND Lào, nhưng chúng lại chiếm gần 50% tổng tài sản và hơn 60% tổng lượng tiền gửi trong toàn hệ thống ngân hàng Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của các ngân hàng này trong hệ thống tài chính Lào và sự đóng góp lớn của chúng cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Đánh giá thực trạng chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại nước CHDCND Lào
3.4.1 K ế t qu ả trong chính sách Nhà n ướ c v ề phát tri ể n d ị ch v ụ tín d ụ ng t ạ i CHDCND Lào
Chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào đã được xây dựng và thực hiện một cách có hệ thống, dẫn đến những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực này.
Chính sách phát triển dịch vụ tài chính đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức tín dụng tại CHDCND Lào, với số lượng ngân hàng tăng từ 15 lên 41 trong giai đoạn 2000-2015, gấp gần ba lần, trong đó có nhiều ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài Chất lượng dịch vụ tài chính cũng được cải thiện, nợ xấu được kiểm soát, và độ phủ sóng dịch vụ tài chính được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận Theo TS Akhom Prasead, các tổ chức tài chính đã trở thành nguồn vốn quan trọng trong thị trường tiền tệ Lào, với lợi nhuận đạt 6,43 tỷ Kíp trong năm 2014 và các chỉ số tài chính khác đều tăng trưởng Tính đến nay, có nhiều loại hình tổ chức tài chính được đăng ký, bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng, và công ty cho thuê tín dụng Thống đốc NHNN Lào, TS Somphao Phaysith, cũng khẳng định ngành ngân hàng đã đạt được nhiều thành công đáng kể trong thời gian qua.
Tỷ lệ tiền gửi trên GDP tại Lào đã tăng từ 31% lên 51%, trong khi tỷ lệ tín dụng trên GDP cũng tăng từ 29% lên 53% Hiện nay, tổng tín dụng cung ứng để giải quyết tình trạng đói nghèo đạt 2.294 tỷ Kíp, với tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng chỉ ở mức 2,5%, cho thấy sự ổn định của ngành Hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính tại Lào ngày càng phát triển về cả số lượng lẫn chất lượng, hiện có 37 ngân hàng thương mại, 89 chi nhánh, 423 đơn vị dịch vụ, 865 ATM và 123 tổ chức tài chính dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Tài sản của hệ thống ngân hàng tăng trung bình 64,75% mỗi năm, trong khi tài sản của các tổ chức tài chính tăng trung bình 57% mỗi năm Dịch vụ ngân hàng không ngừng phát triển, cung cấp đa dạng sản phẩm tín dụng cho doanh nghiệp và cá nhân, đồng thời thị trường vốn cũng phát triển mạnh mẽ với khả năng huy động vốn dài hạn từ việc phát hành cổ phiếu đạt khoảng 5,23% GDP.
Hệ thống chính sách phát triển dịch vụ tín dụng đã tạo ra tác động toàn diện và đạt được nhiều kết quả tích cực trên các khía cạnh như chủ thể cung ứng, chủ thể sử dụng và các sản phẩm dịch vụ tín dụng Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của lĩnh vực tín dụng trong nền kinh tế trong những năm tới.
Lào đã ban hành nhiều quy định pháp luật chi tiết nhằm quản lý hoạt động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, giúp giảm tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng xuống dưới 3% từ năm 2013, đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu đều có xu hướng giảm tích cực Chính phủ và các Bộ ngành cũng đã chú trọng cải thiện môi trường pháp lý và kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, đặc biệt là hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc sử dụng dịch vụ tài chính.
Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng đã điều chỉnh cơ cấu kinh tế, hỗ trợ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước Trong những năm qua, tín dụng đầu tư vào các ngành kinh tế quốc dân tăng, chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ có giá trị gia tăng cao, nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế Đồng thời, cơ cấu vốn tín dụng của các ngân hàng cũng đang hướng đến việc đầu tư nâng cấp khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao, thể hiện xu hướng chuyển dịch tích cực trong đầu tư tín dụng, góp phần vào quá trình hiện đại hóa và đô thị hóa nông thôn.
Chính sách phát triển dịch vụ tài chính đã thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, khai thác tiềm năng mạnh mẽ trong phát triển đất nước Từ năm 2000 đến 2015, tín dụng cho khách hàng tư nhân tăng trưởng với tốc độ bình quân đạt 30,18%, vượt xa mức 21,32% của tín dụng doanh nghiệp nhà nước Tín dụng dành cho khách hàng tư nhân chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào, đạt 90,03% vào năm 2015 Kinh tế ngoài quốc doanh đã chứng minh hiệu quả cao và đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế, do đó, việc tăng cường cho vay cho khu vực này là một yêu cầu thiết yếu trong chiến lược đầu tư tín dụng.
Trong những năm qua, hệ thống chính sách điều hành thị trường tài chính và phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đã đạt được mục tiêu ổn định tiền tệ và kiểm soát lạm phát, góp phần vào sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế Dịch vụ tín dụng phát triển với quy mô hợp lý đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bất chấp các khủng hoảng khu vực và quốc tế Lào duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ổn định trên 7%, trong khi lạm phát được kiểm soát ở mức một con số, với tỷ lệ 5,3% vào năm 2015 Thành công này thể hiện sự hiệu quả trong công tác điều hành chính sách tiền tệ của Lào, với tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với kiểm soát lạm phát dưới mức tăng trưởng.
Hiện nay, các cơ quan quản lý Nhà nước CHDCND Lào thực hiện quản lý thị trường tài chính và dịch vụ tín dụng một cách linh hoạt, tập trung vào việc mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn và chất lượng, nhằm đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế Đồng thời, các giải pháp đồng bộ được triển khai để quản lý hiệu quả thị trường ngoại tệ, ổn định tỷ giá, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối Bên cạnh đó, việc cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu cũng được đẩy mạnh, nhằm lành mạnh hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo an toàn hệ thống và giảm tỷ lệ nợ xấu toàn ngành Những định hướng quản lý này thể hiện tính hợp lý và đồng bộ cao.
Thị trường tài chính – tiền tệ tại Lào đã được điều hành linh hoạt hơn để phù hợp với diễn biến kinh tế trong và ngoài nước, với NHNN Lào sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ hiệu quả nhằm ổn định thị trường, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Sự linh hoạt này đã giúp giảm thiểu tác động từ các cú sốc kinh tế toàn cầu, như giá hàng hóa tăng và khủng hoảng tài chính Chính sách tỷ giá cũng đạt được thành công với cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết, giúp đồng Kíp Lào ổn định so với USD và Bạt Thái, với mức tăng giá lần lượt 6% và 5% trong giai đoạn 2000-2015 Sự ổn định tỷ giá đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương và khuyến khích đầu tư, trong khi lãi suất có xu hướng giảm, góp phần vào tăng trưởng kinh tế Cơ chế quản lý ngoại tệ cũng được thắt chặt nhằm kiểm soát tình trạng đô la hóa và khuyến khích thanh toán bằng nội tệ.
Hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ tại NHNN Lào đã trở nên hiệu quả và linh hoạt hơn, chuyển từ việc sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp trong điều hành thị trường tài chính Các công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và lãi suất trên thị trường mở đang được áp dụng với tần suất cao hơn, thay thế cho các biện pháp hạn chế tăng trưởng tín dụng hay quy định trần lãi suất trước năm 2005 Đồng thời, nghiệp vụ thị trường mở cũng được thực hiện thường xuyên hơn với quy mô hoạt động được mở rộng, bao gồm cả việc mua và bán.
3.4.2 H ạ n ch ế trong chính sách Nhà n ướ c v ề phát tri ể n d ị ch v ụ tín d ụ ng t ạ i CHDCND Lào
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống chính sách phát triển DVTD ở nước CHDCND Lào vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế, cụ thể là:
Tính hiệu lực của chính sách phát triển dịch vụ tài chính doanh nghiệp (DVTD) hiện nay chưa cao, với mức độ tuân thủ của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với quy định pháp luật còn thấp Các TCTD chưa nghiêm chỉnh chấp hành các quy định liên quan đến đối tượng cấp tín dụng, nguyên tắc, điều kiện và quy trình cấp tín dụng, cũng như việc phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, xử lý rủi ro tín dụng và các quy định pháp luật khác có liên quan đến phát triển DVTD.
Hiệu quả của chính sách phát triển dịch vụ tài chính tại Lào vẫn còn hạn chế, thể hiện qua năng lực cạnh tranh yếu kém của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Quy mô tín dụng nhỏ, đối tượng cung cấp dịch vụ hạn chế, và chất lượng dịch vụ chưa cao là những vấn đề nổi bật Các sản phẩm tín dụng chủ yếu chỉ dừng lại ở các dịch vụ cơ bản, thiếu tính đa dạng và chưa có định hướng dài hạn Mặc dù việc tiếp cận tín dụng đã cải thiện, theo ông Sengchan Keosongseng, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế và thiếu mục tiêu rõ ràng Đặc biệt, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, với CHDCND Lào xếp hạng 116 trong số 189 nền kinh tế về khả năng tiếp cận tín dụng, cho thấy rõ ràng những thách thức mà khu vực này đang phải đối mặt.
Hình 3.20: Xếp hạng về mức độ dễ dàng trong việc tiếp cận vốn tín dụng của một số quốc gia
Nguồn: Báo cáo Môi trường kinh doanh 2015
Việc phát triển nguồn nhân lực ở Lào hiện nay được thúc đẩy bởi cả khu vực tư nhân và công cộng, nhưng chất lượng lao động vẫn còn thấp do thiếu kỹ năng cần thiết Định hướng phát triển nguồn nhân lực chưa phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh Lào hội nhập kinh tế ASEAN và là thành viên của WTO Hiện tại, Lào chưa thể cung cấp đủ lao động có tay nghề cao và kỷ luật để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư, trong khi nhiều lao động Lào lại có xu hướng di cư hợp pháp và bất hợp pháp ra nước ngoài.
Mức độ phù hợp của chính sách phát triển dịch vụ tài chính hiện nay còn thấp, với nhiều nội dung chồng chéo và chưa phù hợp với sự phát triển của từng loại hình tổ chức cung cấp dịch vụ Một số văn bản pháp luật như Luật Thuế và Luật Thuế giá trị gia tăng chưa khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài Hệ thống pháp luật hiện tại thiếu các ưu đãi đặc biệt cho các lĩnh vực kinh tế trọng điểm và các khu vực khó khăn Ngoài ra, mức vốn pháp định cho các loại hình tổ chức tín dụng còn thấp và các quy định về tín dụng, an toàn, kiểm soát rủi ro, thanh tra giám sát chưa phù hợp với thực tế.