1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bảo vệ quyền lợi của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

135 39 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Có Khó Khăn Trong Nhận Thức, Làm Chủ Hành Vi
Tác giả Ngô Thị Minh Thư
Người hướng dẫn ThS. Ngô Thị Anh Vân
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại Khóa Luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 135
Dung lượng 1,21 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái niệm về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (15)
  • 1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (18)
  • 1.3. Pháp luật hiện hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (21)
    • 1.3.1. Điều kiện xác định cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (21)
    • 1.3.2. Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (27)
    • 1.3.3. Khôi phục năng lực hành vi dân sự cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi các căn cứ xác định không còn (35)
    • 1.3.4. Phân biệt giữa cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi với người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành (36)
  • CHƯƠNG II. BẢO VỆ NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN (42)
    • 2.1. Phạm vi chủ thể được xác định là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (42)
      • 2.1.1. Quy định hiện hành về phạm vi chủ thể là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (42)
      • 2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mở rộng phạm vi chủ thể là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (44)
      • 2.2.2. Kiến nghị làm rõ quy định của pháp luật về người có quyền, lợi ích liên (48)
    • 2.3. Xác định số lượng người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (53)
      • 2.3.1. Quy định hiện hành về số lượng người giám hộ của người có khó khăn (53)
      • 2.3.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định về số lượng người giám hộ (55)
    • 2.4. Căn cứ xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ của người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (61)
      • 2.4.1. Quy định hiện hành về căn cứ xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ giám hộ (61)
      • 2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về căn cứ xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ giám hộ (62)
    • 2.5. Xác định người đại diện theo pháp cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (66)
      • 2.5.1. Quy định hiện hành về xác định người đại diện theo pháp luật của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (66)
      • 2.5.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về xác định người đại diện theo pháp luật của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (67)

Nội dung

Khái niệm về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều thay đổi quan trọng về chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, đặc biệt là việc bổ sung quy định cho người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Điều này mở rộng khái niệm so với các thuật ngữ truyền thống như “người thành niên” và “người chưa thành niên”.

Khái niệm "người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi" vẫn còn mới mẻ so với các thuật ngữ như "người mất năng lực hành vi dân sự" và "người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự" Việc làm rõ khái niệm này và nhận diện đúng đối tượng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của những người thuộc nhóm này.

Khó khăn thường được hiểu là sự cần thiết phải nỗ lực, đối mặt với nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn Nhận thức là kết quả của quá trình phản ánh và tái hiện thực tại trong tư duy, giúp con người hiểu biết về thế giới xung quanh Làm chủ hành vi được xác định là khả năng kiểm soát và điều chỉnh các phản ứng, hành vi theo ý chí cá nhân Do đó, những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là những cá nhân có trở ngại trong việc tư duy, nhận biết thế giới khách quan hoặc trong việc điều khiển hành vi của chính mình.

Dưới góc độ pháp lý, BLDS năm 2015 đã đưa ra định nghĩa chính thức tại khoản

Điều 23 quy định rằng người lớn tuổi gặp khó khăn trong việc nhận thức và kiểm soát hành vi do tình trạng thể chất hoặc tinh thần sẽ không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, nhưng vẫn chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự.

1 Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 502.

2 Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 712.

Người thành niên được định nghĩa là người từ đủ mười tám tuổi trở lên Mặc dù Bộ luật Dân sự không cung cấp định nghĩa cụ thể về tình trạng thể chất hoặc tinh thần, nhưng theo cách hiểu thông thường, tình trạng thể chất có thể liên quan đến sức khỏe và khả năng vận động, trong khi tình trạng tinh thần liên quan đến trạng thái tâm lý và cảm xúc của cá nhân.

Tình trạng “thể chất” đề cập đến các vấn đề liên quan đến “mặt thể xác của con người”, như câm, điếc, mù mắt, hay cụt tay, chân Tuy nhiên, không phải tất cả người khuyết tật đều gặp khó khăn trong việc nhận thức và kiểm soát hành vi Ví dụ, người cụt tay hoặc chân vẫn có thể tiếp nhận thông tin và giao tiếp hiệu quả Những người khuyết tật về nghe, nói, nhìn cũng có thể hoạt động bình thường thông qua ngôn ngữ, ký hiệu và chữ viết dành riêng cho họ Để rơi vào “tình trạng thể chất” mà không đủ khả năng nhận thức hay kiểm soát hành vi, các khiếm khuyết này phải gây ra khó khăn trong việc nhận thức và điều khiển hành vi, đồng thời cần sự hỗ trợ từ người khác.

Khác với tình trạng thể chất, tình trạng “tinh thần” là tình trạng liên quan đến

Tình trạng tinh thần có thể ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và biểu đạt ý chí của con người, đặc biệt là ở người cao tuổi do lão hóa hệ thần kinh trung ương, dẫn đến giảm trí nhớ và khó khăn trong việc diễn đạt Tuy nhiên, không phải tất cả người cao tuổi đều gặp khó khăn này; vẫn có những người rất cao tuổi nhưng vẫn sáng suốt và minh mẫn Định nghĩa về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi (Điều 23) phân biệt rõ ràng với người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22), với người có khó khăn trong nhận thức là những người không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự.

5 Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 622.

6 Khoa luật Dân sự trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự, Hội thảo, tr 194.

8 Theo Điều 2 Luật Người cao tuổi 2009 quy định: “Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.

9 Bộ Tư pháp (2017), Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Lao động, tr.59.

Mất năng lực hành vi dân sự là tình trạng mà cá nhân không còn khả năng tự xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình Theo từ điển Tiếng Việt, "mất" có nghĩa là không còn tồn tại, trong khi năng lực hành vi dân sự được hiểu là khả năng của cá nhân trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ Về mặt pháp lý, người mất năng lực hành vi dân sự thường là những người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác, khiến họ không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình.

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là những cá nhân không đủ khả năng để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự do tình trạng thể chất hoặc tinh thần, nhưng vẫn có khả năng tự xác lập một số quyền và nghĩa vụ dân sự Thực tế, đối tượng này thường là những người mắc bệnh tâm thần chưa mất hoàn toàn năng lực hành vi, hoặc những người bị tai nạn phải điều trị lâu dài Ngoài ra, họ có thể là những người mắc các bệnh suy giảm trí nhớ như Alzheimer hoặc bệnh Parkinson, dẫn đến khó khăn trong việc nhận thức và kiểm soát hành vi của chính mình.

10 Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 622.

13 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận Bộ luật dân sự 2015, Nxb Công an nhân dân, tr 59.

Bệnh Alzheimer là nguyên nhân chính gây ra sa sút trí tuệ, với triệu chứng đặc trưng là mất trí nhớ ngắn hạn và các thiếu hụt nhận thức liên quan đến nhiều chức năng Người bệnh thường gặp khó khăn trong việc lập luận, giải quyết các công việc phức tạp, và đánh giá tình huống Ngoài ra, họ cũng có thể trải qua rối loạn ngôn ngữ, như khó khăn trong việc tìm từ hoặc mắc lỗi khi nói và viết Rối loạn chức năng thị giác không gian, chẳng hạn như không nhận diện được khuôn mặt hay đồ vật quen thuộc, và rối loạn hành vi như đi lang thang, kích động hoặc hoang tưởng cũng thường xuất hiện.

Nguồn:https://www.msdmanuals.com/vi/chuyên-gia/rối-loạn-thần-kinh/sảng-và-sa-sút-trí-tuệ/bệnh-alzheimer

15 Theo Bác sĩ A.Q RANA (bác sĩ thần kinh), Chương trình về bệnh Parkinson Quốc tế Toronto, Canada năm 2008:

Bệnh Parkinson là một bệnh thoái hóa hệ thần kinh với các triệu chứng chính như run tay, chân, hoặc cánh tay, thường bắt đầu ở một bên cơ thể Các dấu hiệu khác bao gồm run khi nghỉ, cử động chậm chạp trong các hoạt động hàng ngày, bước chân chậm và kéo lê, rối loạn thăng bằng, và cứng cơ Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân có thể gặp phải các triệu chứng như giảm biểu cảm khuôn mặt, táo bón, rối loạn giấc ngủ, giọng nói thều thào, rối loạn trí nhớ, suy giảm chức năng tư duy, cùng với trầm cảm, lo âu và rối loạn cảm giác.

Nguồn: https://www.pdprogram.org/wp-content/uploads/2019/07/PD-BR-1-intro-vietnamese-Final.pdf

16 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự,

Nxb.Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr 119.

Ý nghĩa của việc bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Trong quan hệ pháp luật dân sự, không phải ai cũng có năng lực hành vi đầy đủ, đặc biệt là những cá nhân gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Những người này, mặc dù không hoàn toàn mất năng lực hành vi dân sự, nhưng do hạn chế về thể chất hoặc tinh thần, họ không thể tự bảo vệ mình trong các giao dịch dân sự Do đó, việc quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là rất cần thiết, mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của họ.

Để bảo vệ những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cần thiết phải đáp ứng yêu cầu thực tiễn về quyền lợi của họ trong quan hệ pháp luật dân sự Quan hệ dân sự được xây dựng trên nền tảng bình đẳng, thỏa thuận và tự do ý chí, tuy nhiên, những người gặp khó khăn trong nhận thức thường không đủ khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do tuổi tác, khiếm khuyết thể chất hoặc hạn chế tinh thần Họ gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình trong các quan hệ dân sự, do đó, họ được coi là những đối tượng “yếu thế” trong lĩnh vực này.

BLDS năm 2005 chỉ quy định về người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành vi dân sự, nhưng không đề cập đến những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, mặc dù họ cũng là nhóm yếu thế cần được bảo vệ Trong trường hợp này, Tòa án không có cơ sở pháp lý nào trong BLDS năm 2005 để bảo vệ nhóm người này, vì họ không thuộc vào các trường hợp mất năng lực hay hạn chế năng lực dân sự.

17 Trần Thị Diệu Hương (2019), “Bảo vệ người yếu thế trong Luật dân sự”, Nghiên cứu lập pháp, Số 6 (382).

Nguồn: http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid!0275

18 Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.53.

Năm 2015, pháp luật đã quy định về việc bảo vệ người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thông qua chế định giám hộ Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ để chăm sóc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ (Điều 23) Điều này tạo ra hành lang pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của những người này, đồng thời đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong việc bảo vệ những người yếu thế trong quan hệ pháp luật dân sự.

Việc bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã làm rõ hơn sự phân hóa các mức độ năng lực hành vi dân sự Sự phân hóa này không chỉ giúp bao quát nhiều hơn các chủ thể thiếu năng lực hành vi dân sự cần được bảo vệ, mà còn đảm bảo rằng mỗi mức độ năng lực sẽ có những chế định pháp lý phù hợp, như đối với người mất năng lực hành vi dân sự.

Điều 22 quy định về người gặp khó khăn trong nhận thức, Điều 23 đề cập đến người khó khăn trong việc làm chủ hành vi, và Điều 24 nói về người hạn chế năng lực hành vi dân sự Những quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhóm đối tượng có hạn chế về thể lực hoặc trí lực khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là cần thiết để duy trì sự ổn định trong mối quan hệ pháp luật dân sự Theo nguyên tắc, các bên tham gia giao kết hợp đồng cần có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số người do sức khỏe hoặc vấn đề tinh thần vẫn tham gia vào quan hệ dân sự Nếu không có cơ chế bảo vệ cho nhóm này, sẽ khó đảm bảo sự bình đẳng và thiện chí trong quan hệ pháp luật, dẫn đến khả năng tranh chấp và mất ổn định khi giao dịch vô hiệu do thiếu năng lực hành vi.

Khi bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, giao dịch dân sự của họ sẽ được thực hiện bởi người giám hộ Qua đó, việc xác lập giao dịch của những người này vẫn được đảm bảo thông qua sự đại diện của người giám hộ.

Điều 17 BLDS năm 2015 quy định rõ ràng về tính hợp pháp của các giao dịch, giúp các bên giao kết dự liệu được rủi ro và hạn chế tranh chấp Quy định này tạo hành lang pháp lý vững chắc, hỗ trợ Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Nhờ đó, các tranh chấp được giải quyết công bằng và nhanh chóng, tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Từ đó, giúp tạo sự ổn định trong mối quan hệ pháp luật dân sự.

Quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng giữa họ và các chủ thể khác Khi Tòa án xác định một người có khó khăn trong nhận thức, đồng thời chỉ định người giám hộ, người này không chỉ chăm sóc mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ trong các giao dịch dân sự Mặc dù người có khó khăn trong nhận thức không đủ năng lực hành vi dân sự, họ vẫn có thể tham gia giao dịch một cách bình đẳng thông qua người giám hộ, đảm bảo rằng các bên trong giao dịch có quyền và nghĩa vụ ngang nhau Như vậy, quy định này góp phần thúc đẩy sự công bằng trong các mối quan hệ pháp lý.

Quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 của Việt Nam thể hiện sự hòa nhập của pháp luật Việt Nam với hệ thống pháp luật quốc tế Trước khi BLDS 2015 được ban hành, nhiều quốc gia đã công nhận và bảo vệ quyền lợi của nhóm người này, như BLDS Nhật Bản năm 1896 (sửa đổi năm 2006) Mặc dù không sử dụng cụm từ “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,” Điều 11 của BLDS Nhật Bản quy định rằng những người không đủ nhận thức vào một thời điểm cụ thể có thể không thể thực hiện các giao dịch nhất định, dẫn đến việc ý chí và lý trí của họ không được phản ánh đúng.

Pháp luật hiện hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Điều kiện xác định cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Việc bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là cần thiết, đảm bảo quyền lợi cho nhóm yếu thế trong quan hệ dân sự Quy định này tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng, góp phần ổn định quan hệ pháp luật dân sự Hơn nữa, việc này không chỉ hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự ở Việt Nam mà còn phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu.

1.3 Pháp luật hiện hành về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1.3.1 Điều kiện xác định cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thường biểu hiện qua các dấu hiệu như tâm thần, hoang tưởng, đãng trí hoặc khuyết tật về nghe, nói, nhìn Tuy nhiên, để xác định một người có khó khăn này, cần phải dựa vào các điều kiện luật định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2015 Theo quy định, chỉ những người thành niên, do tình trạng thể chất hoặc tinh thần, mà không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mới được xem là có khó khăn trong nhận thức.

20 Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr 53.

Điều 490 Bộ luật Dân sự Pháp năm 2015 quy định rằng nếu khả năng tinh thần của một người bị suy giảm do bệnh tật, tật nguyền hoặc tuổi tác, quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ thông qua các chế độ bảo hộ được nêu trong các chương tiếp theo Các chế độ bảo hộ này cũng áp dụng cho trường hợp thay đổi về thể chất nếu sự thay đổi đó ảnh hưởng đến khả năng bày tỏ ý chí của người đó.

Theo Điều 34 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 1915 (sửa đổi năm 2021), một người không thể điều hành công việc của mình do tật nguyền thân thể hoặc tinh thần có vấn đề có thể bị Tòa án coi là không có khả năng và được đặt dưới sự trông nom, chăm sóc Để xác định một người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cần có quyết định của Tòa án dựa trên kết luận pháp y tâm thần và đơn yêu cầu từ chính người đó, người có quyền lợi liên quan hoặc cơ quan hữu quan Để được xem là người có khó khăn trong nhận thức, cần thỏa mãn năm yếu tố: (1) là người thành niên; (2) có tình trạng thể chất hoặc tinh thần không đủ khả năng nhận thức nhưng chưa mất năng lực hành vi dân sự; (3) có đơn yêu cầu từ cá nhân hoặc tổ chức liên quan; (4) có kết luận giám định pháp y tâm thần; (5) có quyết định của Tòa án.

Một là, người thành niên:

Theo Điều 23 BLDS năm 2015, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi phải là người thành niên, tức là từ đủ 18 tuổi trở lên theo Điều 20 Điều này tạo ra sự khác biệt với người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành vi dân sự BLDS năm 2015 không quy định rõ ràng về việc người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành vi dân sự có phải là người thành niên hay không, dẫn đến khả năng họ có thể là người thành niên hoặc chưa thành niên.

Quy định về người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành vi dân sự chủ yếu áp dụng cho người đã thành niên Điều 53 quy định rằng người giám hộ của người mất năng lực hành vi có thể là vợ, chồng hoặc con cái, cho thấy họ thường là người trưởng thành Đối với người hạn chế năng lực hành vi, người chưa thành niên chỉ được thực hiện giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, và trong một số trường hợp, người đại diện có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 125 BLDS năm 2015 Pháp luật cũng bảo vệ người chưa thành niên bằng cách yêu cầu có người đại diện theo pháp luật (Điều 21, Điều 136 BLDS năm 2015), do đó không cần áp dụng quy định về người hạn chế năng lực hành vi cho những người chưa thành niên gặp vấn đề nghiện ngập, vẫn có thể bảo vệ quyền lợi của họ một cách hiệu quả.

Tình trạng thể chất hoặc tinh thần được gọi là "hai là" là khi một người không đủ khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình, nhưng vẫn chưa đến mức mất khả năng hành vi dân sự.

Tình trạng thể chất hoặc tinh thần, như cụt tay, cụt chân, mù mắt hay suy giảm trí nhớ, có thể khiến người lớn không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình Theo Từ điển tiếng Việt, "đầy đủ" có nghĩa là không thiếu thứ gì, do đó "không đủ" đồng nghĩa với việc thiếu hụt khả năng nào đó Những người gặp khó khăn trong việc nhận thức hoặc điều khiển hành vi sẽ không thể thực hiện một số quyền và nghĩa vụ dân sự như những người có đầy đủ năng lực hành vi Ví dụ, một người bị tai nạn phải cưa tay, cưa chân sẽ gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc và thực hiện giao dịch Tương tự, người bị suy giảm trí nhớ có thể không nhớ hoặc quên thông tin, dẫn đến việc không thể tự bảo vệ quyền lợi của mình trong các giao dịch dân sự.

Tình trạng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi có thể bị ảnh hưởng, nhưng chưa đạt đến mức mất năng lực hành vi dân sự Sự khác biệt giữa người gặp khó khăn trong nhận thức và người mất năng lực hành vi dân sự nằm ở chỗ cả hai đều bị tác động bởi các yếu tố tinh thần hoặc bệnh tật, nhưng người gặp khó khăn vẫn giữ được một mức độ nhận thức nhất định, không hoàn toàn mất khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình.

Ba là, có yêu cầu từ những người gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi, cũng như từ những cá nhân có quyền lợi và lợi ích liên quan, hoặc từ các cơ quan, tổ chức có liên quan.

23 Thân Thị Ngọc Bích (2017), “Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự trong Bộ luật Dân sự 2015”,

Kinh tế và Pháp luật (tập 48), tr.2.

Theo Điều 23 BLDS năm 2015, Tòa án chỉ có thể tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi có yêu cầu từ một trong ba chủ thể: chính người đó, người có quyền lợi liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan Điều này cho thấy sự cần thiết của đơn yêu cầu từ các bên liên quan, không thể tự Tòa án can thiệp So với pháp luật một số quốc gia, như BLDS Pháp năm 2015, quy định rõ ràng hơn về quyền yêu cầu, cho phép vợ hoặc chồng, người thân và Viện Công tố có thể đề nghị tổ chức giám hộ cho người cần bảo vệ Điều này phản ánh sự khác biệt trong quy định pháp lý về quyền lợi và trách nhiệm trong việc bảo vệ những người có khó khăn trong nhận thức.

So với Bộ luật dân sự năm 2015 của Việt Nam, quy định về quyền yêu cầu tại các quốc gia khác, như Bộ luật dân sự Nhật Bản, có sự khác biệt đáng chú ý Trong khi Việt Nam cho phép “cơ quan, tổ chức hữu quan” hoặc “người có quyền, lợi ích liên quan” yêu cầu, thì pháp luật Nhật Bản và các quốc gia khác xác định rõ ràng hơn các chủ thể có quyền yêu cầu, bao gồm vợ, chồng, người thân trong phạm vi bốn đời, và công tố viên Điều này cho thấy phạm vi quyền yêu cầu tại các nước này hẹp hơn so với quy định của Việt Nam.

Bốn là, có kết luận giám định pháp y tâm thần từ cơ quan chuyên môn có thẩm quyền

Kết luận giám định pháp y tâm thần là căn cứ quan trọng để Tòa án xác định tình trạng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi của một cá nhân, theo quy định tại Điều 23.

Theo Điều 29 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 1915 (sửa đổi năm 2021), một người không đủ minh mẫn có thể bị Tòa án tuyên bố là không có khả năng Quyết định này có thể được đưa ra theo yêu cầu của vợ, chồng, em, cháu gái, người giám hộ, người trông nom hoặc ủy viên công tố.

Điều 11 của Bộ luật Dân sự Nhật Bản năm 1896 (sửa đổi năm 2006) quy định rằng một người không đủ năng lực để đánh giá đúng hoặc sai do khuyết tật tâm thần có thể được quản lý Tòa án gia đình có quyền ra lệnh bắt đầu quản lý theo yêu cầu của chính người đó hoặc từ những người liên quan như vợ, chồng, họ hàng trong phạm vi bốn đời, người giám hộ, người giám sát của người giám hộ, người trợ lý, người giám sát của người trợ lý, hoặc một công tố viên.

Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Theo Điều 23 BLDS năm 2015, Tòa án có quyền tuyên bố một cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ Việc chỉ định người giám hộ đi kèm với việc xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ, điều này dẫn đến việc một số quyền của người có khó khăn trong nhận thức sẽ bị hạn chế, chẳng hạn như quyền tham gia vào một số giao dịch dân sự Quyền và nghĩa vụ của người này được hiểu là phần còn lại sau khi đã trừ đi quyền và nghĩa vụ của người giám hộ, nhằm bảo vệ họ khỏi những xâm phạm khi không đủ lý trí và ý chí để tự quyết định.

1.3.2.1 Xác định người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Theo Điều 46 BLDS năm 2015, giám hộ là việc cá nhân hoặc pháp nhân được chỉ định để chăm sóc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, hoặc người có khó khăn trong nhận thức Mục đích chính của giám hộ là đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người được giám hộ, đồng thời khắc phục tình trạng những người có năng lực pháp luật nhưng không thể tự thực hiện quyền của mình.

Người giám hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân hoặc pháp nhân, theo quy định của pháp luật Để đảm bảo hiệu quả, người giám hộ cần đáp ứng các điều kiện cụ thể mà pháp luật đã đề ra.

Người giám hộ phải đáp ứng bốn điều kiện quan trọng: (1) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; (2) có tư cách đạo đức tốt và đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ; (3) không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; (4) không bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên Những quy định này nhằm đảm bảo hiệu quả trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.

Pháp luật quy định các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ, tuy nhiên chưa rõ ràng về khái niệm "điều kiện cần thiết" Bản chất của giám hộ là chăm sóc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người được giám hộ, do đó, người giám hộ cần có khả năng kinh tế vững mạnh để không chỉ đảm bảo cuộc sống cho bản thân mà còn cho người được giám hộ Ngoài ra, họ cũng cần có thời gian và sức khỏe để thực hiện trách nhiệm chăm sóc và quan tâm đến người được giám hộ.

Để trở thành người giám hộ theo Điều 50 BLDS năm 2015, pháp nhân phải đáp ứng các điều kiện về năng lực pháp luật dân sự phù hợp với vai trò giám hộ và có khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ giám hộ Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân thể hiện ở khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến giám hộ Điều này yêu cầu pháp nhân hoạt động trong các lĩnh vực đảm bảo lợi ích cho người được giám hộ, như giáo dục hoặc y tế Ngược lại, các pháp nhân hoạt động không lành mạnh, như vũ trường hay quán bar, sẽ không phù hợp để đảm nhận vai trò giám hộ.

35 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự, Nxb.Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr 131.

Theo Khoản 1 Điều 86 Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ thông qua các hình thức khác nhau, bao gồm tài chính và địa điểm có trụ sở của pháp nhân Điều này nhằm đảm bảo việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ trong các quan hệ dân sự.

Khác với giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi không được giám hộ tự động Họ chỉ có thể có người giám hộ thông qua hai hình thức: một là theo sự chỉ định của Tòa án, hai là theo sự lựa chọn của chính họ khi còn đủ năng lực hành vi dân sự.

Việc xác định giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi tuân theo nguyên tắc ưu tiên người được lựa chọn trước khi rơi vào tình trạng cần giám hộ Nếu không có người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 BLDS năm 2015, Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ từ danh sách các cá nhân được quy định tại Điều 53 BLDS năm 2015 Trong trường hợp không có những cá nhân này, Tòa án sẽ chỉ định một cá nhân khác hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.

Hình thức giám hộ theo sự lựa chọn, được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015, nhằm bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ Theo đó, cá nhân có quyền chọn người giám hộ khi họ còn đủ năng lực hành vi dân sự Khi cần giám hộ, người đã được chọn sẽ trở thành người giám hộ nếu đồng ý Quy định này thể hiện sự tôn trọng ý chí cá nhân, giúp tìm được người giám hộ phù hợp nhất, từ đó nâng cao hiệu quả của việc giám hộ.

Việc bổ sung quy định mới này phù hợp với tinh thần pháp luật của nhiều quốc gia, đặc biệt là Singapore, thông qua Đạo luật Năng lực Tinh thần năm 2008 Luật này cho phép người dân Singapore lập kế hoạch cho tương lai khi họ còn đủ năng lực hành vi, thông qua một cơ chế rõ ràng.

38 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Tlđd 13, tr 124.

Theo Khoản 2 Điều 46 BLDS năm 2015, Sức mạnh lâu dài của Luật sư (LPA) cho phép một cá nhân chỉ định người khác đưa ra quyết định về tài chính, phúc lợi cá nhân và chăm sóc sức khỏe khi họ không còn đủ năng lực tinh thần Tương tự, Đạo luật tinh thần của Anh năm 2005 cũng quy định rằng cá nhân có thể chỉ định người giám hộ thông qua “văn bản ủy quyền lâu dài” (LPA) khi còn đủ năng lực hành vi dân sự.

Hình thức giám hộ theo sự chỉ định của Tòa án được quy định tại Điều 53 BLDS năm 2015, trong đó Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ cho những người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Người giám hộ có thể là vợ, chồng, cha, mẹ hoặc con của người cần được giám hộ, đảm bảo trách nhiệm cao trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ Nếu không có những người thân thuộc, Tòa án sẽ chỉ định cá nhân hoặc pháp nhân khác Để bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, việc giám hộ phải được sự đồng ý của người có khó khăn trong nhận thức nếu họ có khả năng thể hiện ý chí tại thời điểm yêu cầu, qua đó thể hiện sự tôn trọng ý chí của họ và góp phần bảo vệ quyền lợi tốt hơn.

Việc giám hộ cần được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch Thủ tục này được thực hiện theo Điều 20 của luật hiện hành.

Luật Hộ tịch năm 2014 và Quyết định 1872/QĐ-BTP ngày 04/9/2020 của Bộ Tư pháp quy định việc đăng ký giám hộ, giúp cơ quan nhà nước theo dõi tình hình giám hộ và kịp thời xử lý các tình huống bất lợi cho người được giám hộ Điều này cũng nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc giám sát hoạt động giám hộ.

42 Mục 11 phần 4 Chương 177A Đạo luật Năng lực Tinh Thần Singapore năm 2008.

43 Mục 9, phần 1 Chương 9 Đạo luật Năng lực Tinh thần Anh năm 2005.

1.3.2.2 Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Khôi phục năng lực hành vi dân sự cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi các căn cứ xác định không còn

Khi không còn căn cứ xác định người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, Tòa án sẽ hủy bỏ quyết định tuyên bố tình trạng này theo yêu cầu của người đó, người có quyền lợi liên quan, hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Điều này dẫn đến việc khôi phục năng lực hành vi dân sự cho người đã từng gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

Tòa án có quyền tuyên bố một người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, đồng thời cũng có khả năng hủy bỏ quyết định của chính mình khi các căn cứ không còn hiệu lực Quyết định này được thực hiện dựa trên yêu cầu từ ba chủ thể: (1) người bị tuyên là có khó khăn trong nhận thức và hành vi; (2) người có quyền lợi và lợi ích liên quan; và (3) cơ quan, tổ chức hữu quan.

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố của mình Việc tuyên bố này nhằm bảo vệ quyền lợi của họ, trong khi hủy bỏ quyết định sẽ khôi phục những quyền cơ bản của công dân khi căn cứ hạn chế không còn Cả hai quyết định đều hướng đến mục đích hỗ trợ và bảo vệ những người này Do đó, việc cho phép họ yêu cầu Tòa án khôi phục năng lực hành vi dân sự là hợp lý và góp phần bảo vệ quyền lợi tốt hơn cho họ.

Theo quy định tại BLDS năm 2015, người có quyền, lợi ích liên quan và cơ quan, tổ chức hữu quan đều có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy bỏ So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 mở rộng đối tượng yêu cầu, bao gồm cả cơ quan, tổ chức hữu quan Khi hai chủ thể này có quyền yêu cầu tuyên bố một người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi (Điều 23), luật cũng quy định họ có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ.

Khoản 2 Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc hỗ trợ những người gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Một người chỉ có thể khôi phục năng lực hành vi dân sự khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố về việc có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự hiện hành không quy định rõ ràng về cơ sở hủy bỏ quyết định này nếu cá nhân được tuyên bố có khó khăn trong nhận thức dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần Do đó, tác giả cho rằng quyết định hủy bỏ cần phải dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần tương tự như trường hợp tuyên bố cá nhân có khó khăn Khi có quyết định hủy bỏ có hiệu lực từ Tòa án, năng lực hành vi dân sự của người đó sẽ được khôi phục, và họ sẽ có quyền tham gia vào việc xác lập và thực hiện mọi giao dịch dân sự.

Khôi phục năng lực hành vi cho người có khó khăn trong nhận thức là một quy định quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của họ Khi năng lực hành vi được phục hồi, những người này có thể khôi phục các quyền cơ bản và tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự Hơn nữa, việc này cũng giúp giảm bớt trách nhiệm cho người giám hộ và người giám sát, khi không còn căn cứ để thực hiện quyền hạn của họ Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người có khó khăn trong nhận thức thực hiện giao dịch mà không cần sự đồng ý hay can thiệp từ bất kỳ ai khác.

Phân biệt giữa cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi với người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành

Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân trong việc xác lập và thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ dân sự Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt khiến cá nhân không thể tự thực hiện quyền và nghĩa vụ này, bao gồm người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và kiểm soát hành vi, và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự Mỗi trường hợp này đều ảnh hưởng đến mức độ nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân.

Điều 19 BLDS năm 2015 quy định về những người có năng lực hành vi không đầy đủ, trong đó họ không thể tự xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự mà cần sự đồng ý của người khác Cần phân biệt giữa người có khó khăn trong nhận thức, người mất năng lực hành vi dân sự và người hạn chế năng lực hành vi dân sự để làm rõ quy định về từng nhóm này Điều 22, 23, và 24 BLDS năm 2015 xác định các tiêu chí cho từng loại chủ thể: người mất năng lực hành vi dân sự là người có dấu hiệu bệnh tâm thần, người hạn chế năng lực hành vi là người sử dụng ma túy dẫn đến không kiểm soát được hành vi Tuy nhiên, quy định về người có khó khăn trong nhận thức chưa rõ ràng, không xác định cụ thể tình trạng thể chất hoặc tinh thần Để xác định một người có khó khăn trong nhận thức, cần dựa vào kết luận giám định pháp y tâm thần, tương tự như căn cứ để Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự.

Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một cá nhân không thể nhận thức hoặc làm chủ hành vi do bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự Quyết định này được thực hiện dựa trên yêu cầu của người có quyền lợi liên quan hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, cùng với kết luận giám định pháp y tâm thần.

Theo Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thành niên không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi do tình trạng thể chất hoặc tinh thần sẽ được xem xét theo yêu cầu của chính họ, người có quyền lợi liên quan, hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án có quyền tuyên bố người này gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, đồng thời chỉ định người giám hộ và xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Theo quy định, nếu 59 người nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác gây thiệt hại tài sản gia đình, Tòa án có thể tuyên bố họ là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan hoặc cơ quan tổ chức Quyết định này cần dựa vào kết quả giám định từ cơ quan y tế và các chứng cứ thực tế để làm cơ sở xác minh.

Sau khi Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, người đó sẽ được bảo vệ bởi chế định giám hộ đương nhiên, theo quy định tại Điều 53 và 61 BLDS năm 2015, với những người thân thuộc tự động trở thành giám hộ Nếu không có người thân, UBND cấp xã sẽ chỉ định người giám hộ Đối với người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, Tòa án sẽ chỉ định giám hộ và xác định quyền, nghĩa vụ của họ Ngược lại, người hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ không có giám hộ mà thay vào đó sẽ được Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật và xác định phạm vi đại diện Sự khác biệt trong chế định bảo hộ này cũng dẫn đến sự khác nhau trong khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự của ba nhóm đối tượng.

Người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự nhận thức và kiểm soát hành vi của mình, vì vậy người giám hộ sẽ đại diện cho họ trong tất cả các giao dịch dân sự Người giám hộ có trách nhiệm chăm sóc, điều trị bệnh, quản lý tài sản và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được giám hộ Tất cả các giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi phải được thực hiện bởi người giám hộ, trừ một số trường hợp đặc biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 125.

Theo Điều 377 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trong thời gian chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Tòa án có quyền trưng cầu giám định sức khỏe và tình trạng bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, dựa trên đề nghị của người yêu cầu.

61 Điều 53 về người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự:

Trong trường hợp không có người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật Dân sự, người giám hộ đương nhiên cho người mất năng lực hành vi dân sự sẽ được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể.

1 Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.

2 Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

3 Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.

Theo Khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự của người được quy định tại Khoản 1 không bị vô hiệu nếu họ không thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, và cần tham gia vào các giao dịch dân sự thông qua người giám hộ.

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi vẫn giữ một phần năng lực hành vi dân sự, cho phép họ thực hiện một số quyền và nghĩa vụ nhất định Tòa án sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ dựa trên tình trạng của từng cá nhân, theo quy định tại Điều 23 Người giám hộ có trách nhiệm chăm sóc, đại diện và quản lý tài sản theo quyết định của Tòa án, nhưng chỉ trong những lĩnh vực cần thiết, khác với người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự, người này phải giám hộ toàn bộ quyền và nghĩa vụ Theo Điều 125 BLDS năm 2015, giao dịch của người có khó khăn trong nhận thức có thể bị tuyên bố vô hiệu nếu không được thực hiện bởi người đại diện theo pháp luật được Tòa án chỉ định Do đó, người có khó khăn trong nhận thức vẫn có thể thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của mình, phù hợp với tình trạng năng lực hành vi của họ.

Người hạn chế năng lực hành vi dân sự khác với người mất năng lực và người có khó khăn trong nhận thức, vì họ vẫn có năng lực hành vi nhưng cần sự giám sát để bảo vệ tài sản gia đình Chỉ những giao dịch liên quan đến tài sản của họ mới cần có sự đồng ý của người giám hộ Các giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày cũng cần sự đồng ý Ngoài ra, giao dịch chỉ phát sinh quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hoặc người có khó khăn trong nhận thức cũng phải được thực hiện với sự đồng ý của người đã xác lập giao dịch Cuối cùng, các giao dịch mà người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã thực hiện sẽ được công nhận hiệu lực khi họ đủ tuổi trưởng thành hoặc khi năng lực hành vi được khôi phục.

63 Khoản 2 Điều 136 BLDS năm 2015. người đại diện theo pháp luật, trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày.

BẢO VỆ NGƯỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 05/05/2022, 11:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
15. Thân Thị Ngọc Bích (2017), “Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự trong Bộ luật Dân sự 2015”, Kinh tế và Pháp luật (tập 48), tr. 1-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sựtrong Bộ luật Dân sự 2015”,"Kinh tế và Pháp luật
Tác giả: Thân Thị Ngọc Bích
Năm: 2017
16. Bộ Tư pháp (2017), Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb.Lao động, tr. 58-65 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Nxb.Lao động
Năm: 2017
17. Nguyễn Thị Phương Châm (2016), “Năng lực hành vi dân sự trong bộ luật dân sự 2015 nhìn từ góc độ so sánh với Bộ luật Dân sự Nhật Bản” (Kỳ I), Tòa án nhân dân. Số 20, tr. 21-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Năng lực hành vi dân sự trong bộ luậtdân sự 2015 nhìn từ góc độ so sánh với Bộ luật Dân sự Nhật Bản” (Kỳ I),"Tòa án nhân dân. S
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Châm
Năm: 2016
19. Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận Bộ luật dân sự 2015, Nxb. Công an nhân dân, tr. 59-120 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận Bộ luậtdân sự 2015
Tác giả: Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
Năm: 2017
20. Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 53-55 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học những điểm mới của Bộluật Dân sự 2015
Tác giả: Đỗ Văn Đại (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2016
21. Đỗ Văn Đại - Nguyễn Thanh Thư (2011), “Vấn đề bảo hộ người mất năng lực hành vi dân sự”, Khoa học pháp lý, Số 5/2011, tr. 56-64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề bảo hộ người mất nănglực hành vi dân sự”,"Khoa học pháp lý
Tác giả: Đỗ Văn Đại - Nguyễn Thanh Thư
Năm: 2011
22. Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình luật dân sự, Nxb. Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 68-70 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật dân sự
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điện
Nhà XB: Nxb. Đại học quốc giaTp. Hồ Chí Minh
Năm: 2016
23. Đặng Thanh Hoa (2010), “Bảo vệ quyền của người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự”, Dân chủ &Pháp luật, Số 12, tr. 17-23 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ quyền của người mất năng lực hành vidân sự theo quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự”, "Dân chủ &"Pháp luật
Tác giả: Đặng Thanh Hoa
Năm: 2010
24. Khoa luật Dân sự trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, “Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự”, Hội thảo, tr. 192-194 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ quyền lợicủa người yếu thế trong lĩnh vực dân sự”,"Hội thảo
25. Trương Hồng Quang, Nguyễn Bích Loan, Vũ Hữu Trường Điền (2017), Bộ luật dân sự năm 2005 và 2015 phân tích - đối chiếu, Nxb.Chính trị quốc gia sự thật, tr. 113 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộluật dân sự năm 2005 và 2015 phân tích - đối chiếu
Tác giả: Trương Hồng Quang, Nguyễn Bích Loan, Vũ Hữu Trường Điền
Nhà XB: Nxb.Chính trị quốc giasự thật
Năm: 2017
27. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng, Nguyễn Thanh Thư, Nguyễn Nhật Thanh (2013), “Bảo hộ người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự”, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trường năm 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hộ người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của phápluật dân sự và tố tụng dân sự
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hồng Phượng, Nguyễn Thanh Thư, Nguyễn Nhật Thanh
Năm: 2013
28. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự, Nxb.Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.119-131 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình những quy địnhchung về luật dân sự
Tác giả: Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb.Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2017
29. Vacaxum Xaca, Aritdumi Tori (1995), Bình Luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 45-53 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình Luận khoa học Bộ luật Dân sựNhật Bản
Tác giả: Vacaxum Xaca, Aritdumi Tori
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 1995
31. Nguyễn Thị Ngọc Trâm (2020), Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi xác lập giao dịch dân sự, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Tài liệu Internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều kiện về năng lực hành vi dân sự củacá nhân khi xác lập giao dịch dân sự", Luận văn thạc sĩ, Trường đại họcLuật Tp. Hồ Chí Minh.
Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Trâm
Năm: 2020
33. Trần Thị Diệu Hương (2019), “Bảo vệ người yếu thế trong Luật dân sự”,Nghiên cứu lập pháp, Số 6. Nguồn:http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210275 Bản án, Quyết định Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ người yếu thế trong Luật dân sự”,"Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Trần Thị Diệu Hương
Năm: 2019
32. Britney Spears lên tiến chống lại quyền bảo hộ: Bị ép đạt vòng trái thai, cấm sịnh con”, truy cập ngày 28/06/2021, nguồn: https://alexwa.com/britney- spears-speaks-out-against-conservatorship-forced-to-have-an-iud-banned-from-giving-birth Link
34. Quyết định số 04/2021/QĐST-VDS ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng Khác
35. Quyết định số 01/2021/QĐST-DS ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Khác
36. Quyết định số 01/2021/QĐST-DS ngày 04/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau Khác
37. Quyết định số 04/2021/QĐST-VDS ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w