NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
Khái quát về giao dịch dân sự vô hiệu
1.1.1 Khái quát về giao dịch dân sự Để tiếp cận nội hàm của giao dịch dân sự (GDDS) vô hiệu thì trước tiên, tác giả làm rõ khái niệm “giao dịch dân sự” Theo nghĩa thông thường, “giao dịch” là
Giao dịch dân sự (GDDS) được hiểu là hành vi hợp pháp nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Mặc dù pháp luật của mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về GDDS, nhiều nước như Pháp và Nhật Bản không có định nghĩa cụ thể, mà chỉ quy định các vấn đề liên quan đến hợp đồng và thừa kế Trong khi đó, Bộ luật Dân sự Liên bang Nga và Bộ luật Dân sự Trung Quốc đưa ra khái niệm tương tự, nhấn mạnh rằng GDDS là hành vi của các chủ thể dân sự nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ Nhìn chung, GDDS không được định nghĩa theo cách liệt kê các loại giao dịch cụ thể mà được hiểu như là tất cả các hành vi tự nguyện của các chủ thể trong quan hệ dân sự, nhằm đạt được mục đích nhất định mà không vi phạm pháp luật.
Pháp luật dân sự Việt Nam định nghĩa giao dịch dân sự thông qua phương pháp liệt kê, theo Điều 116 BLDS năm 2015, giao dịch dân sự bao gồm hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, có khả năng phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Điều này cho thấy rằng ý chí của các bên tham gia giao dịch là yếu tố quyết định trong việc xác định tính hợp pháp và hiệu lực của giao dịch.
4 Viện Ngôn ngữ học (2019), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, tr 495
5 Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (1995), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, tr
6 Article 153 The Civil Code of the Russian Federation (as amended and added to December 8, 2011), https://www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/ru/ru083en.pdf, truy cập ngày 28/6/2021
Điều 133 của Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định về các quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch dân sự Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân và tổ chức, đồng thời tạo ra một môi trường pháp lý ổn định cho các hoạt động kinh doanh và giao dịch Thông tin chi tiết về điều luật này có thể được tìm thấy tại trang web của Quốc hội Trung Quốc.
GDDS có thể chia thành hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương (có tài liệu gọi là
Hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được lập thành văn bản Theo quy định của luật, hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 385 BLDS năm 2015) Hợp đồng được coi là giao dịch dân sự phổ biến nhất, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự thể hiện ý chí của một bên nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Khác với hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương chỉ xuất phát từ ý chí của một bên, ví dụ như lập di chúc, đồng ý nhận di sản thừa kế, từ chối hưởng thừa kế hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản Tuy nhiên, không phải mọi hành vi pháp lý đơn phương đều được xem là giao dịch dân sự; chỉ những hành vi thể hiện rõ ý chí của một bên và có căn cứ pháp lý rõ ràng mới được công nhận.
GDDS đóng vai trò quan trọng như một “công cụ pháp lý” giúp các chủ thể trong xã hội tham gia vào các quan hệ dân sự, từ đó đạt được những mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu về sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất và kinh doanh trong đời sống hàng ngày Tuy nhiên, GDDS không tự động có hiệu lực mà phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Một là, chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với GDDS được xác lập
Hai bên tham gia giao dịch dân sự (GDDS) phải hoàn toàn tự nguyện, điều này nhằm ngăn chặn các trường hợp GDDS bị thiết lập hoặc thực hiện do lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
Ba là, giáo dục đạo đức, xã hội (GDDS) phải tuân thủ các quy định của pháp luật và không vi phạm đạo đức xã hội Điều này có nghĩa là lợi ích mà các chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện GDDS phải phù hợp với các giá trị và nguyên tắc đạo đức chung.
9 Phạm Văn Tuyết (2017), Hướng dẫn môn học Luật Dân sự tập 1, Nxb Tư pháp, tr 132
10 Viện Ngôn ngữ học (2019), tlđd (4), tr 588
11 Vũ Thị Hồng Vân, tlđd (8), tr 169
12 Phùng Trung Tập, Kiều Thị Thùy Linh (2020), Nhập môn Luật Dân sự, Nxb Lao động, tr 215
Giao dịch và các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ đó phải tuân thủ các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội Đạo đức được hiểu là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi và quan hệ giữa con người với nhau Trong lĩnh vực pháp luật dân sự, nguyên tắc tự do thỏa thuận được tôn trọng, nhưng sự tự do này cần phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và các giá trị đạo đức đã được xã hội công nhận.
Để GDDS có hiệu lực pháp luật, cần đáp ứng ba điều kiện bắt buộc, trong đó hình thức của GDDS cũng có thể là một yếu tố quan trọng Nếu luật yêu cầu GDDS phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, thì các bên liên quan phải tuân thủ điều này Ví dụ, khi ông A chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B, hai bên cần lập hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản Mặc dù hợp đồng có thể đáp ứng các điều kiện có hiệu lực, nhưng nếu không được công chứng, nó có thể bị coi là vô hiệu Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định của GDDS, từ đó giúp Nhà nước kiểm soát trật tự trong giao lưu dân sự.
1.1.2 Khái quát về giao dịch dân s ự vô hiệu
Khi không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực theo luật định, giao dịch dân sự (GDDS) sẽ trở nên vô hiệu, tức là không có hiệu lực và không mang lại hiệu quả Thuật ngữ "GDDS vô hiệu" vẫn chưa có khái niệm thống nhất, nhưng có thể hiểu rằng đây là giao dịch mà khi được thiết lập, các bên đã vi phạm ít nhất một điều kiện có hiệu lực theo quy định pháp luật, do đó không phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên liên quan.
Giao dịch dân sự vô hiệu là những giao dịch không có giá trị pháp lý, dẫn đến việc không phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên tham gia.
14 Viện Ngôn ngữ học (2019), tlđd (4), tr 365
15 Điểm a, d khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013
16 Viện Ngôn ngữ học, tlđd (4), tr 1423
Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Vũ Hường (2016) tại Trường Đại học Luật Hà Nội, tác giả đã nghiên cứu về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự vô hiệu Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho những bên không biết về sự vô hiệu của giao dịch, nhằm tạo ra sự công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong lĩnh vực dân sự.
Các trường hợp GDDS vô hiệu được quy định trải dài từ Điều 123 đến Điều
Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, các giao dịch dân sự (GDDS) có thể bị tuyên vô hiệu trong nhiều trường hợp, bao gồm: vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội; giả tạo; do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, hoặc người có khó khăn trong nhận thức không đủ khả năng xác lập và thực hiện; do nhầm lẫn; bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; hoặc do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình Ngoài ra, GDDS cũng có thể vô hiệu nếu không tuân thủ quy định về hình thức Tất cả các trường hợp này đều vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của GDDS.
Xác định người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Khi Giấy Đăng Ký Doanh Nghiệp (GDDS) bị vô hiệu, sẽ xảy ra những hậu quả pháp lý nghiêm trọng Việc xử lý các hậu quả này có thể tác động đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan Do đó, pháp luật dân sự Việt Nam chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của những chủ thể bị ảnh hưởng.
19 Phùng Trung Tập, Kiều Thị Thùy Linh, tlđd (12), tr 271
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh (2016) đã xuất bản giáo trình Luật Dân sự do Nguyễn Ngọc Điện chủ biên, trong đó đề cập đến khái niệm "người thứ ba ngay tình" (NTBNT) Khoa học pháp lý phân loại NTBNT thành hai nhóm: "người thứ ba ngay tình đầu tiên" và "người thứ ba ngay tình tiếp theo".
NTBNT đầu tiên là bên thứ ba trong mối quan hệ tài sản, thường liên quan đến chủ sở hữu thực sự và người giao dịch với bên thứ ba Theo Điều 131 BLDS năm 2015, NTBNT đầu tiên được coi là bên ngay tình trong việc thu hoa lợi mà không phải hoàn trả Ví dụ, khi M cho S mượn đất và S tự ý đăng ký quyền sử dụng đất, sau đó chuyển nhượng cho V, thì V là NTBNT đầu tiên trong mối quan hệ với M và S Để xác định NTBNT đầu tiên, chỉ cần có một giao dịch dân sự được thực hiện và người nhận chuyển giao tài sản ngay tình.
Người nhận chuyển giao tài sản trong trường hợp này được gọi là người thứ ba ngay tình tiếp theo, theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 Khái niệm này không tương đồng với người thứ ba ngay tình đầu tiên được đề cập trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Cụ thể, người giao dịch với vợ hoặc chồng chỉ có thể là người thứ ba ngay tình đầu tiên, trong khi người thứ ba ngay tình theo Bộ luật Dân sự 2015 là người chiếm hữu tài sản hợp pháp Ví dụ, trong trường hợp A và B là vợ chồng hợp pháp sở hữu quyền sử dụng đất, nhưng A đã chuyển nhượng thửa đất cho C mà không thông báo cho B, thì B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu.
Pamela O’Connor trong tác phẩm "Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property?" đã phân tích các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản trong bối cảnh pháp luật hiện đại Bài viết được trích dẫn bởi Đỗ Thành Công trong nghiên cứu về việc đòi lại bất động sản từ người thứ ba ngay tình, được trình bày tại hội thảo khoa học về pháp luật đất đai và nhà ở tại Việt Nam Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người trong các giao dịch bất động sản, thể hiện qua những thách thức pháp lý mà người dân phải đối mặt.
Bài viết của Thân Văn Tài và Nguyễn Thị Phi Yến (2017) trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp đề cập đến khái niệm "người thứ ba ngay tình" theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Nghiên cứu này phân tích các quy định pháp lý liên quan và ảnh hưởng của chúng đến quyền lợi của các bên liên quan trong các mối quan hệ hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 133 BLDS năm 2015, trong trường hợp thửa đất giữa A và C bị vô hiệu, C được công nhận là người thứ ba ngay tình (NTBNT) đầu tiên trong mối quan hệ với A, người thực hiện giao dịch dân sự (GDDS), và B, đồng sở hữu tài sản Tuy nhiên, luật không đưa ra định nghĩa rõ ràng về NTBNT cũng như cách xác định NTBNT, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Do đó, việc làm rõ khái niệm NTBNT là cần thiết trước khi xác định một chủ thể là NTBNT.
Khái niệm người thứ ba ngay tình (NTBNT) cần được hiểu rộng rãi, không chỉ giới hạn ở cá nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân khi tham gia giao dịch dân sự (GDDS) một cách ngay tình Trong lĩnh vực pháp lý, “người thứ ba” được định nghĩa là người không phải là một bên trong quan hệ pháp lý nhưng có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Cụm từ “thứ ba” giúp phân biệt với “bên ngay tình”, chỉ các bên trong GDDS vô hiệu đầu tiên Ví dụ, nếu A nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ B mà B đã lừa dối A về thông tin đất đai, GDDS giữa A và B sẽ vô hiệu, và A được xem là bên ngay tình Khi A chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho C, giao dịch giữa A và C sẽ là GDDS thứ hai, trong đó C có thể được coi là NTBNT.
Cụm từ "thứ ba" trong thuật ngữ NTBNT giúp phân biệt các chủ thể ngay tình trong chuỗi giao dịch khác nhau Trong thực tế, mặc dù giao dịch dân sự (GDDS) chưa hoàn tất tại bên C, nhưng nếu C tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các chủ thể tham gia giao dịch trong các GDDS tiếp theo vẫn được bảo vệ, miễn là họ đáp ứng đầy đủ các yếu tố cần thiết.
25 Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, tr 313
Theo Từ điển Luật học (1999), "người thứ ba" là chủ thể của giao dịch dân sự (GDDS) thứ hai, nhưng tài sản mà họ nhận chuyển giao lại là đối tượng của GDDS vô hiệu thứ nhất.
Thứ hai, tính “ngay tình” của người thứ ba trong việc xác lập GDDS thứ hai
Ngay tình được hiểu là sự trung thực và thiện chí, không có ý đồ lẩn tránh pháp luật Bộ luật Dân sự năm 2015 không định nghĩa rõ ràng về tính ngay tình của người thứ ba khi giao dịch dân sự vô hiệu, mà chỉ đề cập đến chiếm hữu ngay tình Chiếm hữu ngay tình là khi người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản Tính ngay tình của người thứ ba trong giao dịch dân sự vô hiệu có nội hàm hẹp hơn so với chiếm hữu ngay tình, vì luật loại trừ trường hợp chiếm hữu ngay tình từ hợp đồng không có đền bù Một số quan điểm cho rằng tính ngay tình của người thứ ba là dựa vào việc họ tin rằng người xác lập giao dịch có quyền định đoạt tài sản Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng sự ngay tình xuất phát từ việc tài sản đã được đăng ký, khiến người thứ ba tin tưởng vào quyền sở hữu của người chuyển giao Quan điểm đầu tiên được cho là bao quát hơn, vì nó không giới hạn trong trường hợp tài sản đã được đăng ký, mà còn xem xét những bất cập trong việc đăng ký tài sản tại Việt Nam.
Theo Điều 550 Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp, sửa đổi bổ sung năm 2013, người chiếm hữu tài sản được coi là ngay tình khi họ chiếm hữu tài sản như một chủ sở hữu, dựa trên một văn bản chuyển nhượng quyền sở hữu mà họ không biết là trái pháp luật Tuy nhiên, người chiếm hữu sẽ không còn được xem là ngay tình kể từ thời điểm họ nhận thức được tính trái pháp luật của văn bản đó.
27 Viện Ngôn ngữ học (2019), tlđd (4), tr 848
29 Thân Văn Tài, Nguyễn Thị Phi Yến, tlđd (22), tr 51
31 Thân Văn Tài, Nguyễn Thị Phi Yến, tlđd (22), tr 51
Trong nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, Vũ Thị Thanh Huyền (2016) chỉ ra rằng nhiều quốc gia có quy định khác nhau về thiện chí của người sở hữu Cụ thể, pháp luật dân sự Cuba quy định rằng thiện chí bao gồm niềm tin vào quyền sở hữu của người chuyển nhượng (Điều 1950) Tương tự, Điều 233 BLDS Campuchia năm 2007 xác định chiếm hữu ngay tình là chiếm hữu mà không biết mình không có quyền Ngoài ra, Điều 1127 BLDS Philippines năm 1949 cũng nhấn mạnh rằng thiện chí của người chiếm hữu dựa trên niềm tin hợp lý về quyền sở hữu Qua đó, có thể thấy rằng mặc dù kỹ thuật lập pháp khác nhau, nhưng tính ngay tình luôn bắt nguồn từ ý chí trung thực và hoàn cảnh cụ thể của giao dịch.
BLDS năm 2015 chưa định nghĩa rõ ràng về NTBNT, nhưng khái niệm này đã được tiếp cận từ nhiều góc độ trong khoa học pháp lý NTBNT được hiểu là người nhận tài sản qua giao dịch dân sự mà không biết hoặc không cần biết rằng tài sản đó xuất phát từ giao dịch vô hiệu Họ chiếm hữu tài sản mà không biết rằng việc chiếm hữu này không có căn cứ pháp lý Một số tác giả cho rằng NTBNT là người chiếm hữu tài sản mà không nhận thức được tính hợp pháp của việc chiếm hữu đó Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng NTBNT là người tham gia giao dịch một cách tự nguyện, bình đẳng và tuân thủ pháp luật mà không hay biết rằng tài sản giao dịch là bất minh.
34 Nhà pháp luật Việt - Pháp (2005), Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb Tư pháp, tr 411
35 Jesus Bugeda Lanzas, (1958), Statement of the Laws of Cuba in the Matters Affecting Business, Pan
Khoản 1 Điều 233 của Bộ luật Dân sự Vương quốc Campuchia năm 2007 quy định về các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng Thông tin chi tiết về điều luật này có thể được tìm thấy trong bản dịch của JICA Việt Nam, truy cập tại https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2018/03/28/16/50/bo-luat-dan-su-vuong-quoc-campuchia/, ngày 13/5/2021.
37 Article 1127 The Civil Code of the Philippines, https://www.chanrobles.com/civilcodeofthephilippinesfulltext.html, truy cập ngày 14/5/2021
38 Trường đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, tr 95
39 Trần Thị Hồng Nhung (2019), Bảo vệ người thứ ba ngay tình theo Bộ luật Dân sự năm 2015, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 19
Pháp luật về bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Khoản 1 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định: “GDDS vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập” Về nguyên tắc, GDDS trước vô hiệu sẽ kéo theo GDDS liền sau vô hiệu Tương tự, “hệ quả dây chuyền” cho rằng “sự vô hiệu của một hợp đồng có tác dụng thủ tiêu các quyền của người thứ ba có nguồn gốc từ các quyền được xác lập theo hợp đồng vô hiệu” 46 Nói cách khác, hợp đồng trước vô hiệu sẽ dẫn đến các hợp đồng sau vô hiệu Tuy nhiên, vì khuyến khích các chủ thể tham gia GDDS một cách trung thực, thiện chí nên pháp luật của các quốc gia thường đặt ra ngoại lệ đối với nguyên tắc trên để bảo vệ NTBNT Ví dụ như Điều 159, Điều 160 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 2008 quy định: Một tuyên bố về ý định do gian lận thì vô hiệu; nhưng sự vô hiệu của tuyên bố đó không thể được thiết lập, để chống lại người thứ ba hành động với thiện chí và bị thiệt hại bởi tuyên bố ý định không thực đó 47
Một tác giả cho rằng việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự (GDDS) vô hiệu là rất quan trọng Người thứ ba ngay tình có quyền tự mình hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản và người xác lập giao dịch Biện pháp bảo vệ tối ưu quyền lợi của người thứ ba ngay tình là công nhận hiệu lực giao dịch của họ Tuy nhiên, không phải tất cả người thứ ba ngay tình đều được bảo vệ như nhau, mà mức độ bảo vệ phụ thuộc vào các trường hợp cụ thể được quy định bởi pháp luật Pháp luật dân sự Việt Nam cũng đã trải qua nhiều thời kỳ với các quy định kế thừa và thay đổi, sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau.
45 Kiều Anh Vũ, “Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu”, tlđd (1), ngày truy cập
46 Trường đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (20), tr 130
47 Ariticle 159, 160 The Thailand Civil and Commercial Code (part I), https://www.samuiforsale.com/law- texts/thailand-civil-code-part-1.html#VI, truy cập ngày 29/6/2021
Bài viết của Nguyễn Thanh Phúc (2020) trong Tạp chí Nhân lực và Khoa học xã hội, số 11, trang 30, tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự Tác giả phân tích tầm quan trọng của việc công nhận hiệu lực của những giao dịch này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho những bên liên quan.
Trước khi Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 ra đời, quyền lợi của người thứ ba không được bảo vệ Điều 16 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 chỉ quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu mà không đề cập đến quyền lợi của người thứ ba Tuy nhiên, Điều 147 của BLDS năm 1995 đã khắc phục thiếu sót này, tạo ra cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của NTBNT.
Quy định trong Bộ luật Dân sự 1995 về giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực ngay cả khi giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng nếu tài sản đã được chuyển giao cho người thứ ba không ngay tình (NTBNT) và sau đó bị tịch thu hoặc trả lại cho người có quyền, NTBNT có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người xác lập giao dịch Mặc dù đây là một bước tiến trong pháp luật, nhưng nội dung điều luật còn nhiều thiếu sót, không phân biệt rõ giữa tài sản động sản và bất động sản, cũng như không đề cập đến việc đăng ký quyền sở hữu Điều này dẫn đến việc không thể xác định rõ trách nhiệm của các bên trong giao dịch dân sự và gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi cho NTBNT.
“bảo vệ gần như tuyệt đối của chủ sở hữu” 51
Điều 138 BLDS năm 2005 đã sửa đổi để cải thiện việc bảo vệ người thứ ba ngay tình (NTBNT) khi giao dịch dân sự (GDDS) vô hiệu Theo đó, giao dịch với NTBNT sẽ có hiệu lực nếu tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu và đã được chuyển giao qua một giao dịch khác, trừ khi người chiếm hữu ngay tình nhận tài sản mà không có đền bù Luật không yêu cầu người nhận chuyển giao phải xác định quyền sở hữu thực sự của người chuyển giao, vì điều này được coi là "không khả thi" Điều này tương tự như quy định trong BLDS Nhật Bản năm 1896, sửa đổi năm 2006, cũng bảo vệ người ngay tình mà không phân biệt loại động sản có phải đăng ký hay không.
Công nhận hiệu lực công tín giúp người thứ ba xác lập giao dịch dựa vào tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó họ sẽ được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
50 Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), Chủ biên: Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 (tập I), Nxb Chính trị quốc gia, tr 311
Theo Điều 192, một người có quyền định đoạt ngay lập tức đối với động sản nếu họ bắt đầu sở hữu một cách công khai và hòa bình thông qua giao dịch mua lại, với điều kiện là người đó trung thực và không có lỗi.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, giao dịch liên quan đến bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu sẽ không được công nhận hiệu lực đối với người thứ ba nếu tài sản đã được chuyển giao cho người không có quyền sở hữu Tuy nhiên, ngoại lệ được áp dụng trong trường hợp người thứ ba nhận tài sản qua bán đấu giá hoặc từ người đã được cơ quan nhà nước xác định là chủ sở hữu, nhưng sau đó quyết định này bị hủy hoặc sửa đổi Điều này cho thấy Bộ luật Dân sự năm 2005 đã khắc phục một số nhược điểm của các quy định trước đó.
Năm 1995, việc mở rộng các trường hợp bảo vệ người thứ ba ngay tình (NTBNT) khi giao dịch dân sự (GDDS) vô hiệu đã giúp Tòa án giải quyết tranh chấp hiệu quả hơn Tuy nhiên, luật vẫn còn nhiều lỗ hổng, đặc biệt là chưa quy định rõ về GDDS vô hiệu đối với tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước, nhưng sau đó lại được chuyển giao qua một GDDS khác cho NTBNT Điều này dẫn đến việc không có cơ sở pháp lý để công nhận hiệu lực giao dịch của NTBNT, gây bất lợi cho những người tham gia giao dịch một cách thiện chí và trung thực Hệ quả là tình trạng xáo trộn và mất ổn định trong các quan hệ tài sản Tại Nhật Bản, mặc dù không có chế độ bảo vệ NTBNT đối với bất động sản, nhưng gần đây, án lệ đã dẫn chiếu đến quy định liên quan để bảo vệ quyền lợi của người ngay tình.
94 BLDS Nhật Bản nhằm bảo vệ người ngay tình” 55
Để giải quyết những vướng mắc và bất cập, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã bổ sung các quy định nhằm nâng cao mức độ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thứ ba ngay tình Cụ thể, Khoản 1 Điều 133 quy định rằng nếu giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình, thì giao dịch đó vẫn được xác lập và thực hiện.
53 Article 192 Japanese Civil Code (Amendment of Act No 78 of 2006), http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?printID=&id 57&re&vm, truy cập ngày 28/6/2021
Bài viết "Người thứ ba trong Bộ luật Dân sự 2015" của tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Yến và Ngô Quốc Chiến trình bày về khái niệm và vai trò của người thứ ba trong các giao dịch dân sự **Thông tin truy cập**Bài viết có thể được tìm thấy tại địa chỉ: [thegioiluat.vn](https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/nguoi-thu-ba-trong-bo-luat-dan-su-2015-5605/) và được truy cập vào ngày 07 tháng 3 năm 2021.
Một số vấn đề bất cập về chế định quyền sở hữu trong Bộ Luật Dân sự và định hướng sửa đổi được trình bày bởi TS Hoàng Thị Thúy Hằng trong hội thảo tại Tp.HCM vào ngày 11/4/2014 Chế định "Tài sản và quyền sở hữu" trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã tạo cơ sở pháp lý cho quyền sở hữu, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập Cụ thể, thuật ngữ “vật quyền” chưa được sử dụng, dẫn đến sự thiếu hụt lý thuyết và giải pháp cho các quyền cụ thể Điều 173 quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu nhưng còn nhiều hạn chế Hơn nữa, quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự chưa phân biệt rõ giữa biện pháp đối vật và đối nhân Bên cạnh đó, thời điểm chuyển quyền sở hữu và hình thức sở hữu cũng gặp nhiều bất cập, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng Để khắc phục, cần tiếp cận chế định quyền sở hữu trên cơ sở lý thuyết về vật quyền, xây dựng các quy định rõ ràng và thống nhất về quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự.
Điều 167 của Bộ luật Dân sự quy định rằng quyền lợi của người thứ ba vẫn được bảo vệ, trừ trường hợp có quy định khác Về mặt kỹ thuật lập pháp, nội dung của điều khoản này không thay đổi, chỉ được diễn đạt ngắn gọn hơn Một số ý kiến cho rằng Bộ luật Dân sự năm 2015 đã mở rộng đối tượng giao dịch khi thay đổi cụm từ “tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu” thành “tài sản phải đăng ký” Tuy nhiên, tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng sự thay đổi này không thuyết phục, vì việc đăng ký tài sản như xe máy chỉ liên quan đến việc lưu thông, không rõ ràng về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba.
Khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 có sự sửa đổi lớn giúp bảo vệ tốt hơn cho NTBNT khi quy định hai trường hợp căn cứ vào việc tài sản giao dịch đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay chưa để xác định hiệu lực của GDDS
Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong mối
Quyền lợi của người thứ ba không có quyền (NTBNT) và quyền của chủ sở hữu thực sự luôn đối lập nhau, dẫn đến xung đột Để giải quyết vấn đề này, pháp luật có hai hướng điều chỉnh: ưu tiên bảo vệ quyền sở hữu thực sự (an toàn tĩnh) hoặc bảo vệ người nhận chuyển giao tài sản (an toàn động) Tại Anh, có hai quan điểm chính về việc bảo vệ quyền của chủ sở hữu và quyền lợi của NTBNT, trong đó tuyên bố của thẩm phán Lord Denning MR thể hiện ý kiến của đa số các cơ quan tư pháp.
Trong bài viết của Tưởng Duy Lượng (2018), tác giả phân tích quy định của các Bộ luật Dân sự liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình Bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3, trang 16, cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực tiễn giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến người thứ ba trong các giao dịch dân sự.
Trong bài viết "Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự" của Võ Văn Tú, tác giả phân tích vai trò của người thứ ba trong các giao dịch dân sự và những quyền lợi, nghĩa vụ của họ Bài viết nhấn mạnh rằng người thứ ba ngay tình có thể được bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong các giao dịch mà họ tham gia, miễn là họ không biết hoặc không có lý do để nghi ngờ về tính hợp pháp của giao dịch đó Điều này tạo ra sự công bằng trong các mối quan hệ dân sự và góp phần vào sự ổn định của các giao dịch thương mại **Nguồn tham khảo**: Võ Văn Tú, “Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự”, truy cập ngày 07/3/2021.
78 Phùng Trung Tập, Kiều Thị Thùy Linh, tlđd (12), tr 277
79 Thân Văn Tài, Nguyễn Thị Phi Yến, tlđd (22), tr 48
80 Pamela O’Connor, Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property? Trong ElizabethCooke, Modern Studies in Property Law Vol III, Hart Publishing (2005), p 47 Dẫn theo: Đỗ Thành Công, tlđd (21), tr 121
Pamela O’Connor trong tác phẩm "Registration of title in England and Australia" đã chỉ ra rằng việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, đặc biệt là người mua vô tội, là rất quan trọng Người mua không biết gì về giao dịch giữa người bán và kẻ lừa đảo không nên bị mất quyền sở hữu chỉ vì sự sơ suất của người bán Luật sư Sam Brodsky cũng nhấn mạnh rằng sự bất công lớn nhất xảy ra khi chủ sở hữu có thể thu hồi tài sản từ người mua chân chính, bất kể sự cẩn trọng của họ Điều này không chỉ làm giảm động lực của chủ sở hữu trong việc kiểm tra danh tính khách hàng mà còn khiến người mua chân chính phải gánh chịu hậu quả từ những sai lầm của người bán.
Một người mua chân chính luôn xứng đáng được bảo vệ, điều này phản ánh sự cần thiết của các quy tắc dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của họ Theo quan điểm của Tòa California và Patricia Youngblood Reyhan, chủ sở hữu tài sản ban đầu có trách nhiệm trong việc tạo ra hoàn cảnh khiến người ngay tình tham gia giao dịch với người không có quyền Tuy nhiên, thẩm phán Lord Walker của Gestingthorpe trong vụ Shogun lại cho rằng không phải lúc nào người mua chân chính cũng xứng đáng được bảo vệ hơn.
Nếu hoàn toàn tuyệt đối hóa quyền đòi tài sản của chủ sở hữu, sẽ dẫn đến tâm lý e dè và lo sợ khi thực hiện giao dịch dân sự, tạo ra rào cản cho sự phát triển giao lưu dân sự và thương mại Do đó, pháp luật dân sự Việt Nam không nghiêng hoàn toàn về một xu hướng nào mà hướng tới việc dung hòa lợi ích của các bên, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người có quyền lợi là rất quan trọng.
82 Sam Brodsky (2016), “Void or voidable: an erroneous approach to the law of mistake?”, Restitution Law
Patricia Youngblood Reyhan discusses the complexities of legal conflicts in her article "A Chaotic Palette," published in the Duke Law Journal The focus is on the litigation challenges faced by original owners versus good-faith purchasers of stolen art This is further contextualized by Châu Thị Khánh Vân's work on protecting good-faith individuals in land use transactions, highlighting the importance of safeguarding rights in legal disputes.
Bài viết của Vũ Thị Hồng Yến tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong các tranh chấp tài sản - Việc tôn trọng an toàn giao dịch là rất quan trọng.- Cần có các biện pháp bảo vệ cho những người đã thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực.- Bài viết nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của những người này trong bối cảnh pháp lý hiện tại.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 133 và khoản 1 Điều 167 của Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ sở hữu có quyền yêu cầu lấy lại động sản không cần đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu bất hợp pháp nếu động sản đó được chuyển nhượng qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt Trong trường hợp hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu vẫn có quyền đòi lại động sản nếu tài sản bị mất, bị đánh cắp hoặc bị chiếm hữu trái phép Giao dịch có đền bù được hiểu là giao dịch mà bên nhận tài sản phải trả một khoản tiền hoặc lợi ích vật chất nào đó để có được tài sản.
Pháp luật nước ngoài cho phép chủ sở hữu đòi lại tài sản trong trường hợp mất mát hoặc trộm cắp Bộ luật Dân sự Pháp không công nhận quyền sở hữu của người mua ngay tình đối với tài sản bị mất hoặc mua lại, cho phép chủ sở hữu ban đầu đòi lại tài sản từ bất kỳ ai giữ nó Tương tự, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 2008 quy định rằng trong trường hợp nhiều người tuyên bố sở hữu cùng một tài sản, người mua với thiện chí và đã trả giá trị cho tài sản sẽ được ưu tiên Tuy nhiên, quy định này không áp dụng cho tài sản bị mất hoặc tài sản có được thông qua hành vi phạm tội.
Tại Nga, chủ sở hữu có quyền yêu cầu lấy lại tài sản nếu người chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông qua giao dịch không có đền bù Đối với những người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng vẫn ngay tình, quy định cho phép họ giữ tài sản trong trường hợp tài sản bị mất bởi chủ sở hữu hoặc người mà chủ sở hữu đã chuyển giao tài sản, hoặc nếu tài sản bị đánh cắp từ bất kỳ ai.
87 Uchida (2013), “Tài liệu về vật quyền trong luận điểm về sửa đổi Bộ luật Dân sự Việt Nam”, Tài liệu
Vào ngày 11-12 tháng 3 năm 2013, tại Thành phố Hồ Chí Minh, chương trình tọa đàm đã được tổ chức nhằm góp ý cho dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, đặc biệt là phần liên quan đến vật quyền Theo Huỳnh Xuân Tình (2013), trong luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự vô hiệu là một vấn đề quan trọng trong pháp luật Việt Nam.
In his 2015 article, "The Conflict between the Legal Interests of the Original Owner and the Good Faith Acquirer of Movables," published in the Lex ET Scientia International Journal, volume 22, issue 1, page 99, Dimitar Stoyanov explores the legal challenges that arise when original owners and good faith acquirers of movable property have conflicting interests The article provides a comparative analysis of various solutions to this issue, highlighting the complexities of property rights and the implications for both parties involved.
Theo Điều 1303 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu tài sản từ người mua ngay tình Tương tự, tại Cuba, Điều 348 quy định rằng chủ sở hữu có quyền thu hồi đồ vật từ người đang chiếm giữ, trừ khi cá nhân đó có được tài sản một cách thiện chí Tuy nhiên, nếu tài sản bị mất hoặc bị tước đoạt một cách bất hợp pháp, chủ sở hữu vẫn có quyền yêu cầu đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, theo Điều 1464.
Pháp luật dân sự Ý bảo vệ người ngay tình, không yêu cầu họ phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, ngay cả khi giao dịch không có đền bù Theo Điều 1153 Bộ luật Dân sự Ý năm 1942, sửa đổi năm 2009, chủ sở hữu cũ không thể khởi kiện người mua thiện chí trong bất kỳ trường hợp nào, bao gồm cả khi tài sản bị mất hoặc bị đánh cắp Tương tự, tại Nhật Bản, nếu một cá nhân mua hàng hóa bị mất hoặc đánh cắp một cách thiện chí tại đấu giá hoặc thị trường công khai, thì chủ sở hữu thực sự không thể lấy lại tài sản trừ khi họ hoàn trả cho người chiếm hữu số tiền đã trả.