Tình hình kinh tế
Thực dân Pháp áp dụng chính sách kinh tế thực dân, đưa Việt Nam vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản và biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hóa cho Pháp.
- Giao thông buôn bán mở mang
- Phát triển nhiều nghề mới
- Tầng lớp thị dân ngày càng nhiều
Vấn đề tư tưởng, văn hóa, thẩm mĩ
- Ý thức thẩm mĩ của con người thay đổi: quan niệm về cái đẹp của cuộc sống, của con người khác trước
- Chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi
- Nhiều sách báo được xuất bản, được đón nhận nồng nhiệt
Mười thương Một thương tóc lệch đường ngôi Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san
Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ qua những hình ảnh tinh tế: từ việc điểm trang vào buổi sáng, đến nụ cười rạng rỡ với hàm răng trắng như ngọc Những chi tiết như lược Huế cài đầu và ô lục ngả màu thanh thiên tạo nên sự duyên dáng và thanh lịch Bên cạnh đó, hình ảnh về sự giàu có với bạc và tiền cũng được nhắc đến, cùng với nữ quyền được thể hiện qua những động thái nhẹ nhàng, khéo léo.
Chín thương cô vẫn ở nhà Mười thương thôi để mình ta thương mình.
Sự kế thừa và cách tân nghệ thuật ở giai đoạn phát triển tăng tốc, nhiều đột phá quan trọng (1930 – 1945)
nhiều đột phá quan trọng (1930 – 1945)
Khuynh hướng hiện đại hóa ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc lựa chọn đề tài, chủ đề, nhân vật, cấu trúc, ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm văn học.
- Văn học thể hiện đậm đà tinh thần dân tộc, mang tính khoa học, đại chúng
- Sự hình thành nên nhiều trào lưu văn học
- Sự phát triển của nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch,
Về khái niệm văn học hiện đại, hiện đại hóa văn học, thể loại văn học, bộ phận/trào lưu văn học,
bộ phận/trào lưu văn học, phong cách nghệ thuật (tác giả)
- Văn học hiện đại, hiện đại hóa văn học
Văn học trung đại Văn học hiện đại Quan niệm về văn học Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí
Nghệ thuật tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp luôn hướng về những giá trị trong quá khứ, tập trung vào sự tao nhã và các chuẩn mực thẩm mỹ Quan niệm về cái đẹp không chỉ đơn thuần là hình thức, mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa tinh tế và quy chuẩn, tạo nên một dấu ấn sâu sắc trong lòng người thưởng thức.
Thủ pháp ước lệ, tượng trưng.
Hướng về cuộc sống hiện tại, đề cao sự phong phú, phức tạp của con người trần thế.
Các thủ pháp tả thực hiện đại Đội ngũ sáng tác Nhà thơ Văn nghệ sĩ chuyên nghiệp, trí thức tiểu tư sản
Hình thức chữ viết Hán – Nôm Quốc ngữ
Thể loại Nghị luận: Cáo, hịch, Nghị luận: phóng sự chiếu, biểu, văn tế
Tự sự: kí trung đại, truyện, tiểu thuyết chương hồi
Trữ tình: thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn, hát nói
Các thể loại trữ tình chiếm ưu thế
Tự sự: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí
Trữ tình: các thể loại thơ hiện đại
Kịch Các thể loại tự sự chiếm ưu thế
- Quy phạm và ước lệ -> phá vỡ quy phạm, cá thể hóa
Văn học Việt Nam 1930 – 1945: quá trình hiện đại hóa một cách mạnh mẽ, toàn diện
Theo nhà nghiên cứu Phương Lựu, thể loại tác phẩm văn học được định nghĩa là quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó mỗi loại nội dung nhất định sẽ tương ứng với một hình thức cụ thể, từ đó tạo nên hình thức tồn tại riêng biệt cho tác phẩm.
Theo M.Bakhtin, thể loại được định nghĩa là những hình thức phát ngôn tương đối ổn định trong ngôn ngữ, và tác phẩm văn học chỉ có thể tồn tại trong một hình thức thể loại cụ thể Ông nhấn mạnh rằng nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử văn học chính là thể loại, và lịch sử văn học thực chất là cuộc đấu tranh giữa các thể loại, chứ không phải là sự phát triển của các trào lưu hay trường phái.
Theo nhà nghiên cứu Phương Lựu, trào lưu văn học là một phong trào hoàn chỉnh bao gồm sáng tác, tổ chức, lý luận, đấu tranh và phê bình Trong đó, sáng tác được xem là yếu tố quan trọng nhất.
Bài tập: Sự khác nhau trong quan niệm sáng tác của trào lưu văn học lãng mạn và hiện thực là gì? Cho ví dụ minh họa
Đời sống của chúng ta thường xoay quanh chữ "tôi", khi ta mất đi bề rộng lại tìm kiếm bề sâu, nhưng càng khám phá sâu sắc, ta càng cảm thấy lạnh lẽo Ta cùng Thế Lữ bay bổng trong thế giới tiên, trải nghiệm tình yêu cùng Lưu Trọng Lư, và sống cuồng nhiệt với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, đắm say trong cảm xúc của Xuân Diệu Thế nhưng, cánh cửa thiên đường đã khép lại, tình yêu không còn bền vững, sự điên cuồng rồi cũng sẽ qua đi, để lại trong ta cảm giác bơ vơ.
Ta trở về với nỗi buồn cùng Huy Cận, khi cả trời thực và mộng đều dao động theo tâm hồn Thơ Việt Nam chưa bao giờ mang nỗi buồn và sự xôn xao như hiện tại Trong lòng tự tôn, ta đã đánh mất cả sự bình yên của những ngày xưa.
- Thế Lữ từng tuyên bố:
“Không chuyên tâm, không chủ nghĩa nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ,
Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca ”
- Xuân Diệu cũng mơ màng, say đắm:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây ”
“Trăm năm theo dõi áng mây trôi”
Vẽ là một niềm vui tự thân, không cần lý do hay mục đích cụ thể Theo quan điểm của chàng, giá trị của một bức tranh chỉ tồn tại trong quá trình sáng tạo, còn khi hoàn thành, nó chỉ là một khung vải đã được bôi sơn.
“Ngừng một lúc, Tuyết lại nói: À, thế cụ via và bà cụ ở nhà thế nào?
Ngơ ngác mất vài phút để đủ thì giờ hiểu, Xuân mới nói một cách buồn rầu:
Anh chẳng may bồ côi sớm
Tuyết chớp hai con mắt lúc đó lóe những ánh sáng hạnh phúc, nói:
Cứ một điều đó cũng đủ để anh xứng đáng làm chồng tôi! Khi kết hôn với anh, tôi sẽ không phải lo lắng về mẹ chồng Thật may mắn khi anh là người mồ côi từ nhỏ, điều này cũng mang lại nhiều lợi ích cho chúng ta!
“Bà Phó Đoan cười như trong rạp hát mà rằng:
Việc mời đốc tờ là cần thiết, vì thà rằng cụ tôi chết do sự can thiệp của đốc tờ còn hơn là không có thuốc men mà chết Điều này cho thấy sự quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân, dù có thể không đảm bảo cứu sống hoàn toàn.
Văn Minh dõng dạc nói:
Như vậy thì không cần những vị bác sĩ có danh tiếng cho lắm Ông bố thêm:
Chính thế Ta chỉ cần một ông đốc tờ lang băm mà thôi Ta thử xem trong đám bạn hữu có anh nào mèng nhất, ít khách nhất không?
Cụ tổ nhà ta đã 80 tuổi, vì vậy chúng ta nên mời một bác sĩ chuyên chữa bệnh cho trẻ em để chăm sóc sức khỏe cho cụ Nếu cụ bị đau dạ dày, ta có thể mời bác sĩ chuyên về bệnh đau mắt, hoặc nếu cụ ho suyễn, thì nên tìm một bác sĩ chuyên trị bệnh giang mai.
Cụ Hồng nhăn mặt mà rằng: Ác một nỗi cụ tôi không đau ốm bệnh gì!
Vợ Văn Minh lễ phép thưa lên:
Thưa ba, điều này thật sự đáng lo ngại Nếu cụ gặp vấn đề về tim mà ta lại mời một thầy chuyên chữa bệnh dạ dày, hoặc ngược lại, thì sẽ rất nguy hiểm.
Sự bất hiếu, tàn nhẫn
Stylos (Hy Lạp): cái que đầu nhọn, đầu tù
Stylus (La Mã) cái que đầu nhọn dùng để viết, đầu tù dùng để xóa trên một tấm bảng nhỏ có xoa sáp
Style (Pháp): nét chữ, bút pháp, phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật là khái niệm thẩm mỹ thể hiện sự thống nhất ổn định trong hệ thống hình tượng và các phương diện biểu hiện nghệ thuật Nó phản ánh cái nhìn độc đáo của nhà văn trong từng tác phẩm, cũng như trong các trào lưu văn học và văn học dân tộc.
Phong cách nghệ thuật thể hiện ở cả nội dung và hình thức (nghệ thuật) của tác phẩm văn học
Lời kỹ nữ (Xuân Diệu): mượn lời kĩ nữ để biểu hiện cái tôi cô đơn lạnh lẽo trước cuộc sống đương thời
Đặc điểm, thành tựu nổi bật
Mấy đặc điểm chính
- Hiện đại hóa toàn diện, sâu sắc
- Phát triển với nhịp độ khẩn trương, mau lẹ
- Phân hóa phức tạp, đa dạng với nhiều trào lưu khác biệt
Các thành tựu quan trọng
- Mang lại nội dung dân chủ mới mẻ cho chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam
- Nhiều tác phẩm văn học phục vụ chính trị
- Sáng tác văn chương nhằm tuyên truyền vận động cứu nước
Nhà văn cần chú trọng đến đối tượng công chúng, bao gồm toàn thể nhân dân và quần chúng lao động Lực lượng công chúng này đang hình thành, chịu tác động từ văn hóa phương Tây và cuộc sống mới, với nhu cầu và thị hiếu đa dạng, đòi hỏi sự đổi mới trong văn học, chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị.
Nhân vật trong văn học mới phản ánh những con người bình thường, đại diện cho nhiều tầng lớp xã hội Tác phẩm "Giông tố" khắc họa bức tranh xã hội Việt Nam những năm 30, bao gồm cả thành phố và nông thôn Trong "Số đỏ", tác giả mô tả chi tiết không gian sống từ phố phường đến các địa điểm như sân bóng, chùa chiền và công viên Cảnh tượng trên hè phố với ông thầy số già ngồi trầm ngâm bên bộ đạo cụ tử vi, và Xuân Tóc Đô trò chuyện với chị hàng mía, không chỉ đơn thuần là thương mại mà còn là một cuộc tình duyên chân thành, mang đậm tính nhân văn.
- Mang lại một cuộc cách mạng về thể loại, ngôn từ
- Kết tinh được nhiều phong cách nghệ thuật đặc sắc: o Lãng mạn o Hiện thực o Cách mạng
Giai đoạn 1930 - 1945 văn học lãng mạn
Khái quát
- Lãng mạn tức là phóng túng không chịu một sự ràng buộc nào, không theo đường lối nào.
3.1.2 Đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn
- Cái nhìn chủ quan về các hiện tượng đời sống
- Gán cho đời sống cái mà chủ thể nghệ sĩ mơ ước được thấy
- Đề cao vai trò cá nhân trong lịch sử
- Đưa ra những giải pháp có tính chất không tưởng.
- Tình yêu của con người được khai thác ở mọi phương diện
- Người nghệ sĩ được tự do, thỏa sức sáng tạo và tưởng tượng -> các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng đạt phi thường
3.1.3 Lịch sử phong trào “thơ mới”
- Sự giao lưu văn hóa Đông Tây
- Những năm 1924-1930, chính sách chèn ép bóc lột của đế quốc Pháp -> khủng hoảng kinh tế -> đời sống của tiểu tư sản thành thị.
Vào tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, khởi xướng một phong trào cách mạng rộng khắp cả nước, với đỉnh cao là cuộc Xô Viết - Nghệ Tĩnh, dẫn đến sự đáp trả mạnh mẽ từ thực dân Pháp thông qua các hoạt động khủng bố.
- Nhiều gia đình chuyên chế
- thanh niên trí thức thất nghiệp
- Pháp hướng thanh niên vào con đường sa ngã, trụy lạc, ngày càng xa dần cách mạng.
- Đại bộ phận tiểu tư sản nhụt mất nhuệ khí cách mạng, hoang mang, buồn bã.
- Phong trào “thơ mới ra đời Nó là tiếng nói của giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận tiểu tư sản trí thức.
- Đối với họ, đó là một lối thoát li trong sạch để gửi gắm nỗi niềm tâm sự -> một cách để tỏ rõ lòng yêu nước.
3.1.3.2 Cuộc đấu tranh giữa “thơ cũ” và thơ mới”
- “Thơ cũ”: loại thơ Đường luật
- “Thơ mới” là phong trào thơ ca lãng mạn 1932-1945, mang ý thức hệ tư sản và quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”.
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
Ôi, tình yêu của chúng ta vẫn mãnh liệt, nhưng việc kết hôn lại không thể thực hiện Đến nỗi, tình cảm ban đầu trở nên phai nhạt, chi bằng chúng ta nên sớm tìm cách giải quyết vấn đề này.
“Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Biống nhau làm sao cho nỡ
Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy:
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung.
Hai mươi bốn năm sau, hai người tình cờ gặp lại nơi đất khách Dù đầu bạc, nếu không quen biết, chắc chắn khó mà nhận ra nhau Họ chỉ ôn lại chuyện cũ, ánh mắt lướt qua nhau, mang theo nhiều kỷ niệm.
Các thế hệ trước thường ưa chuộng màu đỏ rực rỡ, trong khi thế hệ hiện tại lại thích màu xanh nhạt dịu dàng Họ cảm thấy bâng khuâng trước tiếng trùng đêm khuya, còn chúng ta lại xao xuyến với tiếng gà gáy lúc trưa Một cô gái xinh đẹp và ngây thơ có thể bị coi là điều tội lỗi trong mắt các cụ, nhưng lại mang đến cảm giác tươi mát như cánh đồng xanh trong lòng chúng ta Tình yêu của các cụ chỉ gói gọn trong hôn nhân, trong khi chúng ta trải nghiệm tình yêu đa dạng với những sắc thái khác nhau: từ say đắm, thoáng qua, gần gũi đến xa xôi, từ khoảnh khắc đến muôn thuở.
3.1.4 Những thời kỳ phát triển và suy thoái của phong trào “thơ mới” *
Phong trào CM bị khủng bố dữ dội Đời sống của tầng lớp tiểu tư sản sa vào khó khăn, túng quân
Các nhà thơ lãng mạn: hoang mang, do dự, chờ thời, vùi vào trụy lạc -> “thơ mới” sa vào cảnh bế tắc cùng quẫn, kín mít, khó hiểu.
3.1.5 Quan điểm mĩ học của các nhà “thơ mới” lãng mạn
- Về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống: Quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”
Không cần phải chuyên tâm hay theo đuổi chủ nghĩa nào, tôi chỉ đơn giản là một người yêu cái đẹp đa dạng Với cây bút của nàng Ly Tao, tôi vẽ nên những hình ảnh tuyệt mỹ, và với cây đàn ngàn phím, tôi cất lên những giai điệu say đắm lòng người.
“Trăm năm theo dõi áng mây trôi”
“Là thi sĩ nghĩa là rụ với gió Mơ theo trăng và vợ vận cùng mây
- Quan niệm về thiên tài
Hàn Mặc Tử khẳng định rằng Đức Chúa Trời đã tạo ra những vẻ đẹp như trăng, hoa, nhạc, và hương để con người thưởng thức, nhưng nhiều người lại không biết cách tận hưởng một cách trọn vẹn Trong bối cảnh này, ngoài thiên thần và loài người, Đức Chúa Trời đã cho ra đời một loài thứ ba: thi sĩ Thi sĩ được coi là những bông hoa quý hiếm, mang trong mình sứ mệnh thiêng liêng, có khả năng cảm nhận và tận hưởng những tác phẩm tuyệt vời của Đức Chúa Trời, đồng thời truyền tải những nguồn cảm hứng tinh khiết và sâu sắc đến với tâm hồn con người.
Thi sĩ như là thứ châu báu thiêng liêng, kỳ diệu của nhân loại.
- Thi sĩ bơ vơ, ngỡ ngàng, không một ai hiểu, sống cô đơn, sầu tủi
Thơ là tiếng kêu rên thảm thiết của linh hồn khao khát trở về nơi đã từng sống, nơi tràn đầy hạnh phúc bất tuyệt Hàn Mặc Tử đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ và ước ao này trong tác phẩm "Chơi giữa mùa trăng".
Nghệ sĩ sáng tác thường rơi vào trạng thái mê sảng, như thể đang chiêm bao Trong tác phẩm "Thơ điên" năm 1938, tác giả diễn tả cảm giác của mình: "Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên" Sự sáng tạo nghệ thuật đôi khi gắn liền với những cảm xúc mãnh liệt và trạng thái tâm lý đặc biệt.
Con đường thoát li của các nhà thơ mới a Trốn vào tình yêu
- Là con đường phổ biến nhất, là lẽ sống duy nhất:
“Rồi một ngày mai tôi sẽ đi
Vì sao? Ai nỡ hỏi làm chi
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá,
Chỉ biết yêu thôi chẳng hiểu gì.”
“Tuyết sương mòn, băng giá phải trôi tan
Tôi là lửa chẳng bao giờ biết nguội
Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa vòng đời
Tôi đã yêu khi đã khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma
Trăng dầu sáng còn thua đôi mắt ngọc Trời tuy xa lòng thiếu nữ xa hơn Ái ân là hơi thở của van lơn
Và thứ thiệt cũng chưa thích bằng khóc
Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp Tiết trinh còn, em phúc hậu hơn thơ Hoa nín lặng là hoa giả đò mơ,
Tôi nín lặng là âu tôi mắc cỡ
Khi xa cách, nỗi nhớ trở nên sâu sắc Dù có nhiều tài sản, tình cảm vẫn không thể mua được Giấc ngủ đơn độc khiến chăn chiếu trở nên lộn xộn Nỗi buồn chỉ mình biết, không ai hay.
Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt, Mộng có thành là mộng ở đầu hôm
Hương không ngọt, xuân sớm lẽ nào thơm
Mật không đăng ân tình không thú vị
Không rên siết là thơ vô nghĩa lý
Em có chồng mà đành đoạn chia đôi
Xưa thứ gì dính dáng ở đầu môi
Nay trả lại để tôi làm dấu tích.
- Xuân Diệu chạy đua với thời gian, kêu gọi tận hưởng tình yêu, tận hưởng mọi thanh sắc của cuộc sống:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Hời xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
- Cảm thấy cảm thấy tình yêu mong manh, dễ vỡ:
Yêu là một cảm xúc sâu sắc, nhưng thường mang lại nỗi đau và sự thất vọng Dù ta dành trọn tình cảm và tâm huyết cho người mình yêu, nhưng không phải lúc nào cũng nhận được sự đáp lại xứng đáng Nhiều khi, tình yêu chỉ là sự thờ ơ hoặc sự phụ bạc từ phía đối phương, khiến trái tim ta chịu đựng những tổn thương âm thầm.
Tình chỉ đẹp khi hãy còn dang dở Đời hết vui khi đã trọn câu thề
Bể cạn sống mòn núi cũng tan
Tình ta sao giữ được muôn vàn.
(Anh biết em đi - Thái Can)
Ít có niềm vui trọn vẹn. b Trốn vào quá khứ:
Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vằng tiếng loa xưa (Vũ Đình Liên)
Ai có nhớ những thời hương phảng phất, Hạc theo trăng, tiên còn lẫn với người. (Xuân Diệu) Đi cùng anh tới Cô Tô thành cũ
Chờ trăng lên mơ những giấc mơ xưa(Huy Thông)
Quá khứ được thi vị hóa, tô vẽ thêm bằng tưởng tượng. c Trốn vào cõi mộng:
Trăm năm theo dõi áng mây trôi.
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
- Vì cuộc đời lúc bấy giờ không đáp ứng lại với khát vọng, với ước mơ:
Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian
(Chế Lan Viên) d Trốn vào trụy lạc:
- Thi vị hóa và thanh khiết hóa cái đẹp nhục thể, điên cuồng, ngất ngư trong khoái lạc:
"Tôi vồ người như một miếng mồi ngon
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc
Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc
Hai tay cào đôi vú trắng như bông"
Say sưa trụy lạc là một cách để quên lãng:
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn,
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt,
Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!
(Mời say) Đốt nữa đi em hỡi, đốt nữa đi!
Cho tim anh tan ra thành khói cả,
Cho đêm nay suốt đời anh sa ngã,
Gục bên đèn chết lặng trong mê ly!
(Phù dung nương - Thúc Tề)
Rượu, thuốc phiện được coi như tình nhân
- Thoát ly bằng nhiều cách, nhưng ở cuối con đường nào cũng là ngõ cụt, tối om -> bất lực, buông xuôi, chán nản, cô đơn:
Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đã một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin người thôi hãy hái!
Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đàng.
- Ở giữa cuộc đời nhưng các nhà thơ mới luôn cảm thấy trống trải, cô đơn
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới,
Không biết đi đâu, đừng sầu bóng tối
Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ
Thi sĩ cảm thấy cô đơn là vì còn thiết tha với cuộc đời ấm cúng
Các nhà thơ đã biến cái bơ vơ, cô đơn của mình thành một cái gì phổ biến, khách quan của xã hội, của con người nói chung.
3.1.6 Những mặt tích cực, tiến bộ của phong trào thơ mới
Tấm lòng yêu nước và tinh thần dân tộc luôn cháy bỏng trong mỗi người Việt Nam, thể hiện qua khát khao tự do và mong muốn xây dựng một cuộc sống mạnh mẽ Tình yêu dành cho tiếng Việt không chỉ là niềm tự hào văn hóa mà còn là sợi dây kết nối tâm hồn dân tộc Cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam, qua từng vần thơ, phản ánh vẻ đẹp hùng vĩ và sự đa dạng của đất nước, khơi dậy trong lòng mỗi người con đất Việt niềm tự hào và trách nhiệm gìn giữ bản sắc văn hóa.
- Phủ nhận thực tại đen tối
- Nhà thơ nào cũng tỏ thái độ đau xót hoặc muốn vươn ra khỏi cuộc đời tù hãm
Tình yêu cuộc sống của những người thợ mới luôn đầy nỗi buồn, nhưng trong sâu thẳm họ vẫn khao khát tự do và độc lập Họ không chỉ chăm lo cho bản thân mà còn quan tâm đến số phận của những người nghèo khổ bị chà đạp, thể hiện lòng trắc ẩn và tinh thần đấu tranh cho công lý.
3.1.7 Một số vấn đề về nghệ thuật của phong trào “thơ mới” lãng mạn: xây dựng một nền thơ ca mới dựa trên truyền thống thơ ca cũ
- Tiếp thu truyền thống: o Thể thơ lục bát o Thể thất ngôn, ngũ ngôn uyển chuyển, sáng tạo
- Ảnh hưởng phương Tây: o Cách hiệp vần phong phú
“Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm,
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng Đất thêu nắng bóng tre rồi bóng phượng”
(Luông Kha Van) o Vận dụng nhạc điệu để diễn tả tình cảm:
Buồn gieo theo gió ven hồ, Đèo cao quán chật bến đò lau thưa
Dặm liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Nỗi buồn heo hút o Sự phối hợp thanh bằng, trắc: Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương
Nỗi phẫn uất của một người bất đắc chí
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt
Nghe như tiếng nghẹn ngào nức nở. o Sử dụng nhiều thanh bằng: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
Tơ trăng buông rèm lên muôn cành
Tơ trăng vàng rung như âm thanh
Nỗi buồn o Cách ngắt nhịp: linh hoạt Thu lạnh /càng thêm nguyệt tỏ ngời Đàn ghế như nước lạnh/ trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận,
Trăng nhớ Tầm Dương/ nhạc nhớ người. (Xuân Diệu)
- Xây dựng ngôn ngữ dân tộc o Khả năng kết hợp từ rất mới Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận o Rất nhiều từ ngữ mới xuất hiện Còn đâu những giờ nhung lụa
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
Một chiều ong vàng đẹp sắc năm mây
- Sử dụng các biện pháp tu từ Ái ân bờ cỏ ôm chân trúc
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác,
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
Lá liễu dài như một nét mi
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
- Tự lực văn đoàn là một tổ chức sáng tạo văn chương ra đời vào ngày 2-3-1933
- Cơ quan ngôn luận: báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa năm 1936 thì có tờ Ngày nay thay thế
Những thành viên nổi bật của nhóm Tự Lực Văn Đoàn bao gồm Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Trần Tiêu và Xuân Diệu.
Những trí thức Tây học này mang trong mình tư tưởng cấp tiến và đầu óc dân chủ, với khát vọng xây dựng một nền văn chương mang đậm bản sắc dân tộc cho đất nước.
Họ là những nghệ sĩ hiện đại, mang trong mình tình cảm sâu sắc với dân tộc, khao khát về dân chủ và bình đẳng, đồng thời tôn vinh tự do cá nhân trong những ngày đầu hăng hái xây dựng nền văn hóa của dân tộc.
- Sáng tác theo tôn chỉ: 10 điều
Trào Lưu Văn Học Hiện Thực Chủ Nghĩa
Khái niệm
- Chủ nghĩa hiện thực (CNHT) là một khuynh hướng thẩm mĩ tiếp cận hiện thực một cách khách quan
- CNHT muốn miêu tả đời sống hiện thực như nó vốn có
- CNHT thường đi vào những đối tượng quen thuộc, phổ biến của đời sống.
Chủ nghĩa hiện thực sử dụng các điển hình để phản ánh bản chất và quy luật khách quan của đời sống, bao gồm nhân vật và tính cách điển hình, cũng như hoàn cảnh điển hình Những yếu tố này giúp thể hiện chân thực các khía cạnh của cuộc sống và con người, tạo nên sự kết nối sâu sắc với độc giả.
- Phân biệt o Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn o Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, CNHT phê phán, CNHT xã hội chủ nghĩa
Cơ sở xã hội, văn hóa, tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam 1930-
Đế quốc Pháp đã hai lần tiến hành khai thác thuộc địa, khiến nhân dân ta rơi vào cảnh nghèo đói cùng cực Ngoài ra, thực dân Pháp còn khuyến khích lối sống ăn chơi sa đọa, làm suy giảm giá trị văn hóa và tinh thần của người dân.
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách đàn áp, tiêu diệt các cuộc khởi nghĩa -Phong trào công nhân vẫn diễn ra
- Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản, chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác xít
- Văn học kế thừa và phát huy truyền thống phản ánh, phê phán hiện thực
4.3 Quá trình vận động, phát triển của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam 1930-1945
- Tác giả tiêu biểu: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan
- Các vấn đề tư tưởng chưa lớn, tính chiến đấu chưa cao, nền tảng nhân đạo chưa vững
- Chưa có các tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa với những điển hình có tầm vóc.
- Hàng trăm truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, phóng sự “Cơm thầy cơm cô” của
Vũ Trọng Phụng, “Tập án cái đình” của Ngô Tất Tó
- Nhiều tiểu thuyết ra đời như “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê” của Vũ Trọng Phụng;
“Tắt đèn”, “Lều chõng” của Ngô Tất Tố
- Văn học hiện thực phê phán bị kiểm duyệt gắt gao
- Tác giả tiêu biểu: Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển
- Nam Cao là đại biểu xuất sắc ở giai đoạn này.
Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu
4.4.1 Nhà văn Nguyễn Công Hoan và tác phẩm
- Vài nét về tiểu sử và ý thức sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan
- Ông sinh năm 1903 tại tỉnh Bắc Ninh (nay là Hưng Yên) trong một gia đình quan lại phong kiến
- Chịu ảnh hưởng của tư tưởng hệ phong kién
- Ông vừa dạy học, vừa viết văn từ năm 1926 đến 1945.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, ông đã có nhiều cuộc gặp gỡ với các chiến sĩ cách mạng, nhưng chính quyền thực dân đã cấm lưu hành nhiều tác phẩm của ông Ông cũng từng bị Nhật bắt giữ do tham gia các hoạt động chính trị.
- Đứng về phía dân nghèo
- Năm 1977, ông mất tại Hà Nội
4.4.2 Truyện ngắn - Quá trình sáng tác truyện ngắn
- Thời kì 1929-1935: Tập “Kép Tư Bền” (1935)
Tiếng cười trào phúng làm nổi bật “sự đụng chạm của cái giàu và cái nghèo trên đường đời”.
Hạn chế: Con người còn là những nạn nhân hèn kém, bất lực
Số lượng tác phẩm nhiều
Tác phẩm thể hiện rõ hơn bản chất của giai cấp thống trị (“Chính sách thân dân”, “Hé!Hé! Hé” )