Xây dựng nông thôn mới là nhằm tạo ra những giá trị mới của nông thôn Việt Nam. Để triển khai mục tiêu hiện đại hóa nông thôn Việt Nam vào cuối năm 2020 theo Nghị quyết số 26NQTW, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đã ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện như: Quyết định số 491QĐTTg ngày 1642009 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Bộ tiêu chí quốc gia NTM; Quyết định số 800QĐTTg, ngày 0462010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 2020, Thông tư số 072010TTBNNPTNT ngày 822010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp cấp xã theo Bộ tiêu chí quốc gia về NTM; Thông tư số 092010TTBXD ngày 0482010 của Bộ Xây dựng về Quy định việc lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch về quản lý quy hoạch xây dựng xã NTM;.... với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 50% số xã đạt được MTQG về xây dựng nông mới. Như vậy, quy hoạch NTM là nhiệm vụ lớn đặt ra cho các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân. Quy hoạch xây dựng NTM là một trong 11 nội dung của chương trình MTQG về xây dựng NTM, với mục tiêu đặt ra là đạt yêu cầu tiêu chí số 1 của Bộ tiêu chí quốc gia NTM....
Tổng quan nghiên cứu
Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái quát về nông thôn
Hiện nay, khái niệm về nông thôn vẫn chưa được định nghĩa một cách chính xác, với nhiều quan điểm khác nhau Một số ý kiến cho rằng nông thôn là khu vực địa lý nơi cộng đồng gắn bó với việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường cũng như tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Trong khi đó, một số quan điểm khác lại nhấn mạnh rằng nông thôn có mật độ dân số thấp hơn so với thành phố Vùng nông thôn chủ yếu là nơi cư dân sống dựa vào nông nghiệp, với sản xuất nông nghiệp là nguồn sinh kế chính Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng việc xác định vùng nông thôn nên dựa vào chỉ tiêu tiếp cận thị trường và phát triển hàng hóa, vì vùng nông thôn thường có trình độ sản xuất và tiếp cận thị trường thấp hơn so với đô thị Cuối cùng, một yếu tố khác để xác định nông thôn là trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, cho thấy rằng hạ tầng ở vùng nông thôn thường kém phát triển hơn so với khu vực đô thị.
Nông thôn là môi trường sống đặc trưng của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế và văn hóa xã hội với những nét đặc thù riêng Nó không phải là đô thị về không gian sống, cấu trúc tổ chức xã hội, và mối quan hệ con người, nhưng cũng không hoàn toàn trái ngược với đô thị, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa (Vũ Văn Phúc, 2012).
Nông thôn được hiểu là khu vực cư trú của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội đặc trưng, khác biệt hoàn toàn với đô thị.
Nông thôn truyền thống là nơi cư trú chủ yếu của người làm nông nghiệp, với đất đai là tư liệu sản xuất chính, trong khi một số ít người làm nghề phi nông nghiệp có trình độ chuyên môn thấp Dân cư nông thôn thường có mối quan hệ họ hàng chặt chẽ và tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên tình làng nghĩa xóm bền vững Trong xã hội nông thôn Việt Nam, vai trò của cộng đồng rất mạnh mẽ, khiến cá nhân trở nên nhỏ bé hơn Nông thôn còn là nơi bảo tồn di sản văn hóa quốc gia như lễ hội, nghề truyền thống và di tích lịch sử, đồng thời là khu vực giải trí và du lịch sinh thái phong phú, hấp dẫn.
Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ban hành ngày 21/8/2009, đã hướng dẫn việc thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới Theo đó, nông thôn được định nghĩa là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị, các thành phố, thị xã, thị trấn và được quản lý bởi các cấp hành chính cơ sở, cụ thể là Ủy ban Nhân dân xã (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2009).
Nông thôn là khu vực cư trú chủ yếu của dân cư làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là nông dân Cộng đồng này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường trong một khung chính trị nhất định, đồng thời chịu ảnh hưởng từ các tổ chức khác, khác biệt với khu vực đô thị.
Phát triển nông thôn là một khái niệm đa chiều, được hiểu khác nhau qua các thời kỳ tại Việt Nam Theo Ngân hàng Thế giới (1975), phát triển nông thôn là chiến lược cải thiện điều kiện sống của người nghèo ở vùng nông thôn, nhằm đảm bảo họ được hưởng lợi từ sự phát triển Bên cạnh đó, quan điểm khác nhấn mạnh rằng phát triển nông thôn còn nhằm nâng cao vị thế kinh tế và xã hội của người dân thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực địa phương như nhân lực, vật lực và tài lực (Lê Tâm, 2015).
Phát triển nông thôn là quá trình hiện đại hóa văn hóa nông thôn, giữ gìn giá trị truyền thống thông qua ứng dụng khoa học và công nghệ Quá trình này khuyến khích sự tham gia của người dân vào các chương trình phát triển, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân nông thôn.
Khái niệm phát triển nông thôn mới (PTNT) bao gồm các hoạt động nông nghiệp và liên kết phục vụ nông nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, các ngành nghề truyền thống PTNT cũng chú trọng đến việc cải thiện hạ tầng kinh tế - xã hội, tối ưu hóa nguồn lực nông thôn và xây dựng, cũng như tăng cường các dịch vụ và phương tiện phục vụ cộng đồng nông thôn.
Trong bối cảnh Việt Nam, phát triển nông thôn được định nghĩa là quá trình cải thiện bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn Quá trình này cần có sự hỗ trợ tích cực từ Nhà nước và các tổ chức khác.
2.1.1.3 Khái niệm nông thôn mới
Mô hình nông thôn mới là một hình thức tổ chức nông thôn hiện đại, khác biệt với nông thôn truyền thống, và không phải là thị xã, thị trấn hay thành phố Đây là mô hình cấp xã, thôn được phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ và văn minh Nông thôn mới đáp ứng yêu cầu phát triển với sự đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường, đồng thời đạt hiệu quả cao trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội Mô hình này tiến bộ hơn so với mô hình cũ và có thể áp dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ.
Xây dựng mô hình nông thôn mới là một quá trình đổi mới tư duy và nâng cao năng lực cho người dân, nhằm tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời thực hiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp, nông dân và nông thôn Quá trình này không chỉ thay đổi cơ sở vật chất và diện mạo đời sống văn hóa mà còn thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị Đây là một nhiệm vụ lâu dài và liên tục, cần được lãnh đạo và chỉ đạo tập trung trong các chủ trương phát triển đất nước và địa phương.
Nghị quyết 26/NQ - TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đặt ra chủ trương xây dựng nông thôn mới nhằm phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân, đồng thời nâng cao chất lượng nông nghiệp và nông thôn Mục tiêu của nghị quyết là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân ở khu vực nông thôn.
Xây dựng nông thôn mới cần có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại và cơ cấu kinh tế hợp lý, kết nối nông nghiệp với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, dịch vụ và đô thị theo quy hoạch Mục tiêu là tạo ra một xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái và củng cố hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.1.1.4 Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Trong những năm gần đây, kinh tế nông thôn đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - thương mại - dịch vụ do tác động của công nghiệp hóa và cơ chế thị trường Sự thay đổi trong tập quán lối sống của người dân, cùng với sự gia tăng hoạt động xây dựng, đã dẫn đến sự biến đổi trong cơ cấu tổ chức không gian làng xã truyền thống và kiến trúc cảnh quan Sự phát triển đa dạng của nhà ở, từ kiểu truyền thống đến các hình thức mới như nhà ở phục vụ sản xuất kinh tế hộ gia đình, nhà ở hợp tác xã và nhà ở sản xuất kinh tế tập trung, đã tạo ra nhu cầu kiểm soát kiến trúc CQNT để đảm bảo sự hài hòa và phát triển bền vững.
Cơ sơ phap ly về quy hoạch xây dưng nông thôn mơi
2.3.1 Xây dựng nông thôn mới ở Nhật Bản
Sau Chiến tranh thế giới II, kinh tế Nhật Bản chịu ảnh hưởng nặng nề, với sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở mức thấp, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu và lương thực trầm trọng Trong bối cảnh đất chật người đông, Nhật Bản đã xác định phát triển khoa học - kỹ thuật nông nghiệp là biện pháp hàng đầu để cải thiện sản xuất Quốc gia này tập trung vào các công nghệ tiết kiệm đất, bao gồm việc tăng cường sử dụng phân hóa học, cải thiện quản lý và kỹ thuật tưới tiêu cho ruộng lúa, lai tạo giống cây kháng bệnh và chịu rét, cũng như chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang kỹ thuật thâm canh nhằm tăng năng suất.
Từ thập niên 70, phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” đã được hình thành và phát triển tại tỉnh Oita, miền tây nam Nhật Bản, nhằm mục tiêu phát triển nông thôn tương xứng với sự phát triển chung của cả nước Sau gần 30 năm, phong trào này đã đạt được nhiều thành công rực rỡ, góp phần nâng cao đời sống người dân và phát triển kinh tế địa phương.
Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” đã thu hút sự quan tâm không chỉ từ nhiều địa phương tại Nhật Bản mà còn từ nhiều quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, nơi đã đạt được những thành công nhất định trong phát triển nông thôn Hiện nay, Nhật Bản đã phát triển 329 sản phẩm đặc sản địa phương có giá trị thương mại cao, như nấm hương Shitake, rượu Shochu lúa mạch, và cam Kabosu, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân địa phương (Tuấn Anh, 2012).
Vào những năm đầu thập niên 60, Hàn Quốc vẫn đang trong giai đoạn phát triển chậm, với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và 2/3 dân số sống ở khu vực nông thôn Trước tình hình này, chính phủ Hàn Quốc đã triển khai nhiều chính sách mới nhằm phát triển nông thôn, qua đó xây dựng niềm tin cho người nông dân Những chính sách này khuyến khích họ tích cực sản xuất, làm việc chăm chỉ, độc lập và có tinh thần cộng đồng cao Một trong những trọng tâm của chiến lược này là phong trào xây dựng "làng mới" (Seamoul Undong).
Nguyên tắc cơ bản của chương trình xây dựng nông thôn mới là sự kết hợp giữa hỗ trợ vật tư từ Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân Nhân dân có quyền quyết định các dự án thi công, nghiệm thu và chỉ đạo các công trình Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt chú trọng đến yếu tố con người trong quá trình này, nhận thấy rằng trình độ của người nông dân còn hạn chế, việc thực hiện chính sách gặp nhiều khó khăn Do đó, việc đào tạo cán bộ cấp làng và địa phương được ưu tiên hàng đầu Trong các lớp tập huấn, nội dung thảo luận xoay quanh cách thức giúp người dân hiểu và thực hiện các chính sách của Nhà nước, từ đó các lãnh đạo làng sẽ đưa ra ý kiến và tìm kiếm giải pháp tối ưu phù hợp với hoàn cảnh địa phương.
Dự án nông thôn mới của Hàn Quốc tập trung vào việc phát huy nội lực của cộng đồng để xây dựng và cải thiện hạ tầng nông thôn Các hoạt động bao gồm nâng cấp cơ sở hạ tầng cho từng hộ dân, hỗ trợ phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống sinh hoạt Bên cạnh đó, dự án còn thực hiện các biện pháp nhằm tăng thu nhập cho nông dân thông qua nâng cao năng suất cây trồng, xây dựng vùng chuyên canh, thúc đẩy hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cũng như phát triển chăn nuôi và trồng xen canh.
Sau 7 năm triển khai các dự án mở rộng đường nông thôn, thay mái nhà, xây dựng cống và máy bơm, cũng như sân chơi cho trẻ em, thu nhập bình quân của hộ dân đã tăng gấp 3 lần, từ 1.000 USD/người/năm lên 3.000 USD/người/năm vào năm 1978 Toàn bộ nhà ở nông thôn đã được ngói hóa và hệ thống giao thông nông thôn đã được xây dựng hoàn chỉnh.
Mô hình nông thôn mới đã mang lại sự cải thiện rõ rệt cho Hàn Quốc, với hạ tầng nông thôn được nâng cao, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị Trình độ tổ chức của nông dân cũng được cải thiện, xây dựng niềm tin và ý chí sản xuất trong phát triển kinh tế Đến đầu những năm 80, quá trình hiện đại hóa nông thôn đã hoàn tất, đánh dấu sự chuyển mình của Hàn Quốc sang một giai đoạn phát triển mới.
Thái Lan, với 80% dân số sống ở nông thôn, đã áp dụng nhiều chiến lược để phát triển bền vững nền nông nghiệp Những chiến lược này bao gồm tăng cường vai trò của cá nhân và tổ chức trong nông nghiệp, mở lớp học nâng cao trình độ cho nông dân, và cải thiện bảo hiểm xã hội cho họ để giải quyết nợ nần Nhà nước cũng hỗ trợ tăng cường sức cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp thông qua tổ chức hội chợ, tiếp thị hiệu quả, và quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học để ngăn chặn khai thác bừa bãi Đặc biệt, chính phủ đã đầu tư vào hệ thống thủy lợi lớn, đảm bảo tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác, từ đó nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác Chương trình điện khí hóa nông thôn cũng được triển khai với các trạm thủy điện vừa và nhỏ, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
Chính phủ Thái Lan đã chú trọng vào việc tái cấu trúc ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nhằm phát triển công nghiệp nông thôn Đồng thời, họ cũng xem xét các nguồn tài nguyên, kỹ năng truyền thống và tiềm năng trong sản xuất và tiếp thị, đồng nhất với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã chú trọng vào việc phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất nông nghiệp và thủy hải sản để phục vụ xuất khẩu, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là tới các nước công nghiệp phát triển Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tại Thái Lan đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào một số chính sách hiệu quả.
Chính sách phát triển nông nghiệp của Thái Lan giai đoạn 2000-2005 tập trung vào việc cơ cấu lại 12 mặt hàng nông sản chủ chốt như gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê, nhằm nâng cao chất lượng và sản lượng Chính phủ nhấn mạnh rằng việc tăng cường nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành này và gia tăng ngoại tệ cho đất nước Các sáng kiến nhằm gia tăng giá trị nông sản được khuyến khích thông qua chương trình "Mỗi làng một sản phẩm" và quỹ làng, góp phần vào sự phát triển bền vững của nông nghiệp.
- Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm Năm
Năm 2004, Thái Lan khởi động chương trình "Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp ăn của thế giới" nhằm khuyến khích nông dân và nhà chế biến kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng cả trong nước và xuất khẩu Chính phủ cũng thường xuyên hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm Nhờ đó, thực phẩm chế biến của Thái Lan hiện được thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU chấp nhận.
Chính phủ Thái Lan đã mở cửa thị trường để thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành chế biến thực phẩm thông qua liên doanh với các nhà sản xuất trong nước Họ đại diện thương lượng với các quốc gia nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trong xuất khẩu thực phẩm chế biến Chính phủ cũng cung cấp trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư vào cơ sở hạ tầng như cảng kho lạnh và nghiên cứu phát triển Nhiều cơ quan cùng tham gia vào việc xúc tiến và phát triển ngành chế biến thực phẩm, bao gồm Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, Cục Thủy sản, và Cơ quan Tiêu chuẩn sản phẩm công nghiệp, nhằm hỗ trợ nông dân và nâng cao chất lượng sản phẩm Bộ Đầu tư cũng thúc đẩy đầu tư vào vùng nông thôn để phát triển bền vững cho ngành này.
Quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở việt nam
2.4.1 Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới
2.4.1.1 Về tổ chức bộ máy, triển khai quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Ngay trong những năm đầu triển khai, chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã nhanh chóng trở thành phong trào của cả nước.
Nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đã được xác định rõ trong nghị quyết đại hội Đảng các cấp từ tỉnh đến huyện và xã Ban Bí thư Trung ương khóa X đã chỉ đạo trực tiếp Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới tại cấp xã.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được triển khai tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng miền, với bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương được hình thành Các Bộ, Ngành đã ban hành 25 loại văn bản hướng dẫn tổ chức bộ máy quản lý và quy hoạch nông thôn mới Hiện nay, 100% huyện và xã đã thành lập Ban chỉ đạo cấp huyện và cấp xã; hơn 80% xã còn thành lập Ban phát triển thôn, bản để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”, trong khi Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” vào ngày 08-6-2011.
Trong những năm qua, phong trào xây dựng nông thôn mới đã diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, thể hiện rõ đường lối của Đảng Phong trào này đã thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, phát huy sức mạnh xã hội trong việc cải thiện đời sống nông thôn.
2.4.1.2 Về nguồn vốn cho quy hoạch xây dựng nông thộn mới
Trong 3 năm 2011-2013, Chương trình đã huy động được 485 nghìn tỷ đồng, trong đó:
- Ngân sách Nhà nước các cấp bố trí 161.938 tỷ đồng chiếm 33,4%, trong đó:
+ Vốn hỗ trợ trực tiếp cho chương trình là 50.048 tỷ đồng (10,3%), gồm ngân sách Trung ương 5.469,16 tỷ đồng (1,1%) và ngân sách địa phương các cấp 44.579,15 tỷ đồng (9,2%);
+ Vốn lồng ghép 111.889,7 tỷ đồng (23,1%).
- Vốn tín dụng 231.378,1 tỷ đồng, chiếm 47,7%.
- Các doanh nghiệp hỗ trợ 29.900,91 tỷ đồng, chiếm 6,0%.
- Dân đóng góp 62.841,07 tỷ đồng, chiếm 13,0%.
Vào ngày 25/01/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 195/QĐ-TTg, phân bổ 15.000 tỷ đồng vốn trái phiếu cho giai đoạn 2014 - 2016, trong đó năm 2014 được bố trí 4.765 tỷ đồng Hiện tại, các địa phương đang khẩn trương hoàn thiện phương án phân bổ để triển khai thực hiện ngay từ Quý I/2014.
Mặc dù đã nỗ lực nhiều, ngân sách dành cho chương trình vẫn còn hạn chế so với yêu cầu; đầu tư từ doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vào khu vực nông thôn rất thấp; và còn thiếu các cơ chế lồng ghép hiệu quả cho các chương trình, dự án tại địa bàn nông thôn.
2.4.1.3 Về công tác lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Tính đến nay, 98,2% số xã trên toàn quốc đã được phê duyệt quy hoạch xây dựng xã NTM Tuy nhiên, chất lượng quy hoạch tại nhiều địa phương vẫn còn hạn chế, với nhiều xã chỉ dừng lại ở quy hoạch chung mà thiếu sự cụ thể hóa cần thiết Nhiều đề án tập trung quá nhiều vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trong khi chưa chú trọng đúng mức đến phát triển sản xuất, văn hóa và bảo vệ môi trường, cùng với việc thiếu các giải pháp thực hiện và tính toán huy động nguồn lực thực tiễn Dù vậy, những quy hoạch này vẫn đáp ứng yêu cầu cơ bản để xây dựng các Đề án NTM trong giai đoạn sắp tới, phục vụ cho công tác xây dựng NTM theo Chương trình MTQG giai đoạn 2010-2020 (Lê Nguyễn, 2016).
2.4.1.4 Về kết quả thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại các địa phương
Vào ngày 08/12/2015, Hội nghị toàn quốc tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình nông thôn mới giai đoạn 2010-2015 đã diễn ra, ghi nhận những kết quả to lớn trong việc cải thiện bộ mặt nông thôn Phong trào xây dựng nông thôn mới đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ người dân, trở thành một phong trào lan tỏa rộng khắp trên toàn quốc.
Từ việc trông chờ và ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước, người dân đã chuyển sang chủ động và tự tin tham gia tích cực vào quá trình xây dựng nông thôn mới (NTM).
Tính đến cuối tháng 11/2015, cả nước đã có 1.298 xã, chiếm 14,5%, được công nhận đạt chuẩn NTM, với số tiêu chí bình quân đạt 12,9 tiêu chí, tăng 8,2 tiêu chí so với năm 2010 Có 183 xã khó khăn, bắt đầu với dưới 3 tiêu chí, nhưng đã nỗ lực vươn lên đạt từ 10 tiêu chí trở lên Ở cấp huyện, 11 đơn vị đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM, bao gồm huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, thị xã Long Khánh (Đồng Nai), Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè (TPHCM), Đông Triều (Quảng Ninh), Hải Hậu (Nam Định), Đơn Dương (Lâm Đồng).
Phượng (TP Hà Nội), thị xã Ngã Bảy (Hậu Giang).
Mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đã đạt 24,4 triệu đồng/năm (tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010) (Lê Nguyễn, 2016)
Các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quy hoạch nông thôn mới:
Năng lực của các chủ thể tham gia quy hoạch từ cấp xã đến các công ty tư vấn và cấp huyện còn hạn chế, với 0,1% cán bộ cấp xã không biết chữ, 48% chưa qua đào tạo và 80% không biết sử dụng máy tính Việc một đơn vị tư vấn đảm nhận quy hoạch nhiều xã dẫn đến khảo sát hiện trạng và định hướng phát triển không đầy đủ, gây ra sự dập khuôn và không phù hợp với quy hoạch vùng, hệ thống giao thông, thủy lợi, và xử lý môi trường Điều này tạo ra sự thiếu thống nhất giữa các xã, ảnh hưởng đến quá trình ra đề bài, thẩm định, xét duyệt và quản lý sau quy hoạch, từ đó làm giảm chất lượng và hiệu quả của quy hoạch.
Chi phí cho công tác quy hoạch xây dựng nông thôn rất cao, bao gồm các giai đoạn khảo sát, thu thập số liệu, lập nhiệm vụ, lập quy hoạch và duyệt quy hoạch Tuy nhiên, định mức chi phí thực hiện lại thấp và không có hệ số điều chỉnh cho các vùng khác nhau, như xã vùng đồng bằng so với xã vùng núi cao hoặc ven biển Điều này tạo ra khó khăn trong việc lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, dự án do vướng mắc trong thủ tục giải ngân.
Các tiêu chí về kiến trúc nhà ở nông thôn, công trình công cộng và bảo tồn di tích văn hóa dân tộc hiện còn thiếu tính cụ thể, gây khó khăn trong công tác lập quy hoạch Điều này đặc biệt rõ ràng ở các xã có đặc điểm khác nhau như xã ven đô, xã có làng nghề phát triển, xã thuần nông, và các xã vùng đồng bằng, ven biển, trung du, và núi cao Sự đa dạng này đặt ra yêu cầu quy hoạch khác nhau, góp phần quan trọng vào việc hạn chế chất lượng quy hoạch nông thôn.
Quá trình triển khai quy hoạch nông thôn mới gặp nhiều khó khăn do sự chồng chéo và mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật, không phù hợp với thực tế về chuyên môn, nhân lực và kinh phí Việc bổ sung và sửa đổi các quy định này diễn ra chậm chạp Chẳng hạn, tiêu chí giao thông có đến ba hướng dẫn khác nhau: Quyết định 315/QĐ-BGTVT quy định đường AH rộng 3,5 m lề đường và đường liên xã rộng 3 m; trong khi Sổ tay hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn yêu cầu đường trục xã rộng tối thiểu 5-6 m và đường trục nông thôn lòng đường tối thiểu 4-5 m.
Quy hoạch xây dựng nông thôn mới (NTM) là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp xã, liên kết với các tiêu chí quốc gia về nông thôn mới Để đạt tính khả thi cao, sự tham gia của người dân trong việc xác định mục tiêu, quy hoạch và kế hoạch là rất quan trọng Tuy nhiên, nhiều đơn vị tư vấn hiện nay thiếu kinh nghiệm và nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất và phát triển sản xuất, dẫn đến những bất cập trong chương trình xây dựng nông thôn mới, đặc biệt khi 70% dân số Việt Nam phụ thuộc vào nông nghiệp (Hoàng Tuấn Hiệp, Nguyễn Quang Dũng, 2012).
Báo cáo tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 cho biết, đến cuối năm 2019, tổng nguồn lực huy động đạt gần 1.567,1 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương chiếm 37.900 tỷ đồng (2,4%), với 27.960 tỷ đồng dành cho đầu tư phát triển và 9.940 tỷ đồng cho vốn sự nghiệp Ngân sách đối ứng của địa phương đạt trên 182,7 nghìn tỷ đồng (11,7%), cùng với vốn lồng ghép từ Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và các chương trình khác cũng là 182,7 nghìn tỷ đồng (11,7%) Vốn tín dụng chiếm 958,9 nghìn tỷ đồng (61,2%), vốn doanh nghiệp đạt 76,4 nghìn tỷ đồng (4,9%), và vốn huy động từ người dân và cộng đồng là 128,5 nghìn tỷ đồng (6,2%) Dự kiến trong giai đoạn 2011-2020, tổng nguồn lực huy động sẽ gần 3 triệu tỷ đồng (khoảng 134,8 tỷ USD), trung bình đạt khoảng 13,46 tỷ USD mỗi năm.