NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Virus SARS-CoV-2 xâm nhập vào tế bào, biến tế bào thành máy nhân bản để nhân lên nhiều lần Khi đạt đủ số lượng, virus sẽ gây suy yếu hệ miễn dịch, khiến cơ thể không đủ sức đề kháng và dẫn đến nhiễm bệnh.
Virus SARS-CoV-2, xuất phát từ một chợ hải sản ở Hồ Nam, Vũ Hán vào cuối tháng 12/2019, đã được xác nhận là nguyên nhân gây ra bệnh "viêm phổi lạ" Chỉ sau 100 ngày, đại dịch viêm đường hô hấp cấp đã nhanh chóng ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội và thị trường tài chính toàn cầu, dẫn đến suy thoái kinh tế với tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói tăng cao Đến nay, đã có 215 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm 2 tàu du lịch, ghi nhận các ca mắc COVID-19.
Triệu chứng của COVID-19 rất đa dạng, từ nhẹ hoặc không có triệu chứng rõ rệt đến những trường hợp nghiêm trọng Các triệu chứng phổ biến bao gồm sốt, ho, khó thở, mệt mỏi và mất khứu giác Trong một số trường hợp, virus Corona có thể tồn tại trong cơ thể mà không gây ra triệu chứng sốt hay cảm lạnh thông thường.
Virus SARS-CoV-2 lây lan chủ yếu qua việc tiếp xúc với giọt dịch hô hấp từ người nhiễm bệnh khi họ hắt hơi, ho hoặc thở ra Các chuyên gia đã xác định ba phương thức lây truyền chính: lây truyền trực tiếp, lây truyền qua tiếp xúc và lây truyền qua không khí.
1.1.4) covid 19 tác động đến sức khỏe con người:
Covid-19 đang gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng, khiến hàng triệu người trên toàn thế giới mất mạng Bệnh có diễn biến phức tạp và không lường trước được; trong giai đoạn đầu, triệu chứng thường âm thầm và chậm rãi, nhưng nhiều trường hợp đột ngột chuyển nặng, cần can thiệp thở oxy, thở máy hoặc hỗ trợ tuần hoàn hô hấp.
Theo báo cáo từ tạp chí Y khoa Hoa Kỳ về 138 bệnh nhân Covid-19, 16,7% bệnh nhân gặp rối loạn nhịp tim và 7,2% bị tổn thương tim cấp tính, cùng với nhiều biến chứng khác Covid-19 làm gia tăng gánh nặng về tim mạch và chuyển hóa, đồng thời gây tổn thương cho các cơ quan nội tạng khác do độc tố virus, dẫn đến các vấn đề như tổn thương gan, thận cấp tính, sốc nhiễm trùng, đông máu rải rác nội mạch và hội chứng viêm đa hệ ở trẻ em.
1.2) Tình hình dịch covid 19 hiện nay
Hình 1.1 Biểu đồ theo dõi số ca nhiễm covid -19 trong thang 9-10/2021
1.2.1) Thông tin các ca nhiễm mới:
Từ 17h ngày 21/10 đến 17h ngày 22/10, Hệ thống Quốc gia quản lý ca bệnh COVID-19 đã ghi nhận 3.985 ca nhiễm mới, bao gồm 8 ca nhập cảnh và 3.977 ca trong nước, tăng 359 ca so với ngày trước đó, với 1.782 ca trong cộng đồng và phân bố tại 50 tỉnh, thành phố.
Các tỉnh, thành phố ghi nhận số ca bệnh như sau: TP Hồ Chí Minh có 1.205 ca, Bình Dương 471 ca, Đồng Nai 417 ca, Đắk Lắk 266 ca, An Giang 220 ca, Sóc Trăng 148 ca, Tây Ninh 147 ca, Bạc Liêu 83 ca, Kiên Giang 80 ca, Trà Vinh 76 ca, Bình Thuận 74 ca, và Long An.
Trong danh sách các tỉnh, Gia Lai đứng đầu với 72, theo sau là Tiền Giang với 61 và Nghệ An với 57 Các tỉnh khác như Phú Thọ (54), Cà Mau (52), và Khánh Hòa (43) cũng có số lượng đáng kể Thanh Hóa (37) và Quảng Bình (34) tiếp tục góp mặt trong top, trong khi Đồng Tháp (33) và Thừa Thiên Huế (26) cũng không kém phần quan trọng Một số tỉnh như Hà Nam (21), Hà Giang (18), và Hậu Giang (17) có số liệu tương đối thấp hơn Cần Thơ, Nam Định, Vĩnh Long và Bến Tre đều ghi nhận 17 và 14, trong khi Lâm Đồng (13) và Bà Rịa - Vũng Tàu (12) cũng có vị trí đáng chú ý Các tỉnh còn lại như Bình Định (11), Quảng Ngãi (10), và Hà Nội (8) có số liệu khiêm tốn hơn, cùng với Ninh Thuận (7) và Thái Bình (7) Bắc Ninh và Bình Phước đều ghi nhận 5, trong khi Hưng Yên và Hà Tĩnh chỉ có 4 Cuối cùng, Bắc Giang, Quảng Ninh, Đắk Nông và Lào Cai đều có 3, và một số tỉnh như Yên Bái (2), Sơn La (1), Ninh Bình (1), Tuyên Quang (1) có số lượng rất thấp.
- Các địa phương ghi nhận số ca nhiễm giảm nhiều nhất so với ngày trước đó: TP Hồ Chí Minh (-50), Tây Ninh (-38), Cà Mau (-28).
- Các địa phương ghi nhận số ca nhiễm tăng cao nhất so với ngày trước đó: Đắk Lắk (+266), An Giang (+46), Sóc Trăng (+39).
- Trung bình số ca nhiễm mới trong nước ghi nhận trong 07 ngày qua: 3.400 ca/ngày.
1.2.2.) Tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam:
Tính đến nay, Việt Nam ghi nhận 881.522 ca nhiễm COVID-19, xếp thứ 40 trong tổng số 223 quốc gia và vùng lãnh thổ Tuy nhiên, khi xét theo tỷ lệ ca nhiễm trên 1 triệu dân, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 154, với bình quân 8.951 ca nhiễm trên mỗi triệu người.
- Đợt dịch thứ 4 (từ ngày 27/4/2021 đến nay):
+ Số ca nhiễm mới ghi nhận trong nước là 876.788 ca, trong đó có 800.509 bệnh nhân đã được công bố khỏi bệnh.
+ Có 01/62 tỉnh, thành phố đã qua 14 ngày không ghi nhận trường hợp nhiễm mới trong nước: Bắc Kạn.
Trong 14 ngày qua, có 17 tỉnh, thành phố không ghi nhận ca lây nhiễm thứ phát, bao gồm: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Ninh Bình, Lạng Sơn, Sơn La, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu, Hải Phòng, Tuyên Quang, Thái Bình, Kon Tum, Hưng Yên, Điện Biên, Thái Nguyên và Hòa Bình.
+ Các địa phương ghi nhận số nhiễm tích lũy cao trong đợt dịch này: TP Hồ Chí Minh (423.406), Bình Dương (227.799), Đồng Nai (60.498), Long An (34.071), Tiền Giang (15.392).
Số liệu về tình hình COVID-19 được các Sở Y tế tỉnh, thành phố báo cáo hàng ngày thông qua Hệ thống quản lý của Cục Quản lý Khám chữa bệnh thuộc Bộ Y tế, có thể truy cập tại cdc.kcb.vn.
- Số bệnh nhân khỏi bệnh:
+ Bệnh nhân được công bố khỏi bệnh trong ngày: 5.202
+ Tổng số ca được điều trị khỏi: 803.326
- Số bệnh nhân nặng đang điều trị là 3.073 ca, trong đó:
+ Thở ôxy qua mặt nạ: 2.131
+ Thở ôxy dòng cao HFNC: 430
+ Thở máy không xâm lấn: 113
- Số bệnh nhân tử vong:
+ Trong ngày ghi nhận 56 ca tử vong tại TP Hồ Chí Minh (33), Bình Dương (7), An Giang (7), Long An (3), Kiên Giang (2), Đồng Nai (1), Bình Thuận (1), Bình Phước
+ Trung bình số tử vong ghi nhận trong 07 ngày qua: 71 ca.
+ Tổng số ca tử vong do COVID-19 tại Việt Nam tính đến nay là 21.543 ca, chiếm tỷ lệ 2,5% so với tổng số ca nhiễm.
Việt Nam hiện xếp thứ 34/223 quốc gia và vùng lãnh thổ về tổng số ca tử vong, trong khi số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 133/223 Trong khu vực Châu Á, tổng số ca tử vong của Việt Nam đứng thứ 10/49 quốc gia và vùng lãnh thổ, và số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 28/49.
- Trong 24 giờ qua đã thực hiện 109.941 xét nghiệm cho 232.134 lượt người.
- Số lượng xét nghiệm từ 27/4/2021 đến nay đã thực hiện 21.459.257 mẫu cho 58.792.283 lượt người.
Vào ngày 21/10, tổng cộng có 1.440.566 liều vắc xin phòng COVID-19 được tiêm, nâng tổng số liều đã tiêm lên 70.488.694 Trong đó, số liều tiêm mũi 1 đạt 50.334.724 và mũi 2 là 20.153.970.
1.3.) Các biện pháp cần biết để phòng chống COVID-19:
Để phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả, Bộ Y tế khuyến nghị người dân Việt Nam thực hiện nghiêm túc thông điệp “5K+Vắc xin”, bao gồm các biện pháp: đeo Khẩu trang, Khử khuẩn, giữ Khoảng cách, Không tụ tập, thực hiện Khai báo y tế và tiêm Vắc xin.
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH COVID-19 ĐẾN XÃ HỘI
2.1) Ảnh hưởng của dịch Covid 19 đến nền kinh tế
Theo dự báo của WTO vào tháng 4 năm 2020, thương mại toàn cầu sẽ trải qua sự sụt giảm nghiêm trọng, với giá trị nhập khẩu của Hoa Kỳ và Châu Âu dự kiến sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ.
Các báo cáo ngành gần đây dự đoán sự sụt giảm nghiêm trọng trong tiêu dùng giày dép, may mặc và thiết bị điện tử tiêu dùng vào năm 2020 Dự kiến, hai ngành này sẽ tiếp tục giảm trong Quý 2 và Quý 3 năm 2020, trước khi phục hồi dần về mức nhu cầu trước khủng hoảng COVID-19 vào cuối năm 2020 và Quý 1 năm 2021.
Mặc dù tác động của Quý 1 năm 2020 đối với nền kinh tế Việt Nam còn hạn chế, nhưng dự báo tình hình có thể xấu đi trong Quý 2 và Quý 3.
Nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chính dự kiến sẽ giảm mạnh, trong khi Trung Quốc sẽ gia tăng cạnh tranh khi trở lại hoạt động bình thường vào quý 2 Hai yếu tố này tạo ra những thách thức nghiêm trọng đối với cán cân và thặng dư thương mại của Việt Nam trong năm 2020, khi quốc gia này đang nỗ lực phục hồi sau ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Hình 1.2.khối lượng thương mại hàng hóa quốc tế 2000-2022
Hình 1.3 Tỷ lệ tăng trưởng thương mại hàng hóa thế giới so với tằn trưởng GDP thế giới 1990-2020
- Theo tạp chí Việt Nam ngày 06/09/2021:
Tổng cục Thống kê Việt Nam dự báo GDP quý 2 năm 2021 sẽ tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2020 Tuy nhiên, ngân hàng DBS của Singapore đã điều chỉnh mức dự báo này xuống còn 5%, thay vì 6,7% như dự kiến ban đầu, theo báo cáo ngày 30/08 vừa qua.
Theo báo Business Times của Singapore ngày 31/08/2021, hai nhà kinh tế của ngân hàng Maybank, Kim Linda Liu và Chua Hak Bin, dự báo mức tăng trưởng của Việt Nam trong quý 2 sẽ giữ nguyên ở mức 5,4%, nhưng sẽ giảm xuống còn 3% trong quý 3.
Theo báo cáo ngày 01/09/2021 của IHS Markit, chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) đã giảm xuống 40,2% trong tháng 8, từ mức 45,1% trong tháng 7 Sự sụt giảm này chủ yếu do sản lượng giảm mạnh khi nhiều nhà sản xuất phải tạm ngưng hoạt động, trong khi các doanh nghiệp khác gặp khó khăn về nhân công và hạn chế khả năng sản xuất.
Trong tháng thứ ba liên tiếp, số đơn đặt hàng mới đã giảm nhanh chóng, đạt mức sụt giảm mạnh nhất trong 16 tháng qua do các biện pháp hạn chế phòng chống dịch Theo báo cáo của IHS Markit, tâm lý doanh nghiệp trong tháng 8 cũng rơi xuống mức thấp nhất trong 15 tháng qua, khi nhiều doanh nghiệp lo ngại rằng hoạt động của họ sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đợt dịch này.
+ Vị thế trung tâm sản xuất bị lung lay:
Theo bài báo ngày 31/08 của Financial Times, đợt dịch Covid-19 mới đang tác động nghiêm trọng đến vị thế của Việt Nam, quốc gia được coi là một trong những trung tâm sản xuất hàng đầu tại châu Á Nikkei Asia đã xếp Việt Nam ở vị trí 120 trong chỉ số hồi phục Covid-19, phản ánh sự yếu kém trong quản lý dịch bệnh và tỷ lệ tiêm chủng.
Theo Financial Times ngày 31/08, chiến lược phòng chống Covid-19 trước đây của Hà Nội đã không còn hiệu quả, buộc chính quyền phải tập trung vào việc kiểm soát lây nhiễm và duy trì sản xuất Một số doanh nghiệp đã áp dụng mô hình “3 tại chỗ” (công nhân làm việc, ăn, ngủ tại nơi sản xuất), nhưng mô hình này khó duy trì lâu dài và tốn kém cho doanh nghiệp.
Một số công ty đa quốc gia phải thuê phòng khách sạn cho lãnh đạo gần trụ sở, nhưng VinaCapital cảnh báo rằng các công ty lớn có thể chịu được chi phí này, trong khi những công ty sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng thấp như giày da và quần áo gặp khó khăn trong việc duy trì sản xuất VinaCapital cũng ghi nhận rằng xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam đã giảm trong tháng 8, điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Bà Nguyễn Phương Linh, Phó Giám đốc công ty tư vấn Control Risks, cho biết rằng các biện pháp hạn chế đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sản xuất của Việt Nam, khiến nhiều doanh nghiệp ngần ngại nhận đơn hàng mới vì lo ngại không đủ nhân lực để đáp ứng Tuy nhiên, bà cũng cho rằng tình trạng ngưng trệ sản xuất có thể chỉ là tạm thời, vì Việt Nam vẫn duy trì sức hấp dẫn so với nhiều quốc gia khác trong khu vực châu Á.
+ Ảnh hưởng đến nguồn cung thế giới:
Theo Financial Times, nhiều thương hiệu quốc tế lớn như Nike và Adidas đã ngưng hoạt động, gây ra sự xáo trộn nghiêm trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, dẫn đến khả năng khan hiếm giày trong mùa Noel năm nay Đồng thời, Toyota cũng phải đình chỉ sản xuất tại 27 dây chuyền ở 14 nhà máy tại Nhật Bản do thiếu hụt phụ tùng, chủ yếu xuất xứ từ Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam.
Các biện pháp hạn chế phòng chống dịch Covid-19 tại Việt Nam đang làm dấy lên lo ngại về chuỗi cung ứng cà phê toàn cầu, do Việt Nam hiện là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới.
Nhật báo Anh Independent đã thông tin vào ngày 1/9 rằng việc hạn chế đi lại tại Sài Gòn, trung tâm xuất khẩu chính của Việt Nam, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc vận chuyển cà phê robusta, loại cà phê chủ yếu được sử dụng để sản xuất cà phê hòa tan và một số nhãn hiệu espresso Sự giảm sút số lượng tàu container đã dẫn đến việc tăng chi phí vận chuyển, trong khi một số vùng trồng cà phê cũng đang chịu tác động từ các biện pháp phòng chống dịch.
ẢNH HƯỞNG DỊCH COVID 19 ĐẾN DỜI SỐNG LAO ĐỘNG TỰ DO
3.1) Mất việc và thiếu việc làm
Theo ước tính ban đầu của ILO, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đã gia tăng đáng kể sau sự bùng phát của vi-rút COVID-19 Các kịch bản khác nhau về tác động của đại dịch đối với tăng trưởng GDP toàn cầu cho thấy tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu có thể tăng từ 5,3 triệu (kịch bản thấp) đến 24,7 triệu (kịch bản cao), từ mức 188 triệu vào năm 2019 Kịch bản trung bình dự đoán sẽ có thêm 13 triệu người thất nghiệp, trong đó 7,4 triệu ở các nước thu nhập cao Mặc dù các ước tính này chưa hoàn toàn chắc chắn, nhưng tất cả đều chỉ ra sự gia tăng đáng kể trong tình trạng thất nghiệp toàn cầu, so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã khiến 22 triệu người thất nghiệp.
Biểu đồ 1.4 minh họa tác động của suy giảm tăng trưởng toàn cầu đến tình trạng thất nghiệp, được phân tích qua ba kịch bản khác nhau Dữ liệu cho thấy sự ảnh hưởng này không chỉ mang tính toàn cầu mà còn có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm thu nhập, với hàng triệu người có thể bị ảnh hưởng.
Tình trạng thiếu việc làm dự kiến sẽ gia tăng đáng kể, tương tự như những gì đã xảy ra trong các cuộc khủng hoảng trước đây Sự sụt giảm trong nhu cầu lao động có thể dẫn đến việc giảm lương và thời gian làm việc của người lao động.
Mức tăng thất nghiệp (triệu người)/việc cho thấy rằng lao động tự làm thường không bị ảnh hưởng ngay lập tức bởi suy thoái kinh tế, mà trở thành phương án mặc định giúp người dân duy trì thu nhập, đặc biệt trong nền kinh tế phi chính thức Trong các cuộc khủng hoảng, việc làm phi chính thức có xu hướng gia tăng Tuy nhiên, việc hạn chế di chuyển của con người và vận tải hàng hóa có thể làm giảm hiệu quả của cơ chế đối phó này.
Theo Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban IV cho biết:
Khảo sát toàn quốc cho thấy, Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 46% người tham gia, Hà Nội chiếm 25%, Bình Dương khoảng 3,5%, Đồng Nai 2,6% và Đà Nẵng 2% Những tỉnh, thành phố này đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ đợt dịch, khiến nhiều lao động quan tâm đến khảo sát để bày tỏ ý kiến và phản ánh thực tiễn, đồng thời đưa ra các kiến nghị mong muốn.
Theo khảo sát, 62% trong tổng số hơn 69 nghìn người tham gia cho biết họ đang mất việc, tương đương với hơn 42.700 người Nhóm tuổi từ 31 đến 45 chiếm tỷ lệ cao nhất trong số những người mất việc, với 69,4%, trong khi nhóm từ 16 đến 30 tuổi chiếm 16,3% Nhóm tuổi từ 46 đến 60 chiếm khoảng 13,2%, và nhóm trên 60 tuổi chỉ chiếm 1,2%.
Tỷ lệ mất việc làm tăng theo độ tuổi, với 56,3% ở nhóm tuổi 16 đến 30, và trên 60% cho nhóm tuổi 31 đến 45 và 46 đến 60 Đặc biệt, nhóm tuổi trên 60, trước đây được xem là ngoài lực lượng lao động, hiện vẫn có nhu cầu tìm việc, chủ yếu là lao động tự do, do không có lương hưu đảm bảo cuộc sống tối thiểu Tỷ lệ mất việc trong nhóm này lên đến 76%.
3.2) thu nhập sụt giảm và gánh nặng về chi phí
Nguồn cung lao động đang giảm do biện pháp kiểm dịch và sụt giảm hoạt động kinh tế, dẫn đến mất thu nhập cho những người lao động không được bảo vệ Tình hình việc làm hiện tại gây ra tổn thất thu nhập lớn, ước tính từ 860 đến 3.440 tỷ đô la Mỹ Sự mất mát này sẽ làm giảm chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng duy trì hoạt động của doanh nghiệp và khả năng phục hồi của nền kinh tế.
Suy giảm các hoạt động kinh tế do tác động tiêu cực của vi-rút sẽ ảnh hưởng nặng nề đến những người lao động gần hoặc dưới chuẩn nghèo, với ước tính tăng thêm 8,8 triệu lao động nghèo trên toàn cầu So với dự đoán ban đầu, tổng số lao động nghèo chỉ giảm 5,2 triệu trong năm 2020, thay vì 14 triệu như trước khi có COVID-19 Dự báo trong các kịch bản trung bình và cao, số lao động nghèo có thể tăng thêm từ 20,1 triệu đến 35 triệu người so với ước tính trước đại dịch.
3.2.2) Người lao động gánh thêm nhiều chi phí phát sinh
Theo bà Phạm Thị Ngọc Thủy cho biết:
Trong bối cảnh giãn cách xã hội, trẻ em ở nhiều tỉnh thành phải ở nhà, các trường dân lập đã tổ chức học online theo chương trình của mình, trong khi các trường công lập tuân theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục - Đào tạo để hoàn thành chương trình học Nhiều gia đình ở thành phố đã phải đầu tư thêm thiết bị học trực tuyến, dẫn đến gia tăng chi phí điện, internet và kết nối 3G, 4G Đây là một khoản chi phát sinh do dịch COVID-19 mà 41,2% người lao động tham gia khảo sát đã lựa chọn.
Chi phí nuôi dưỡng người thân do cách ly giữa các vùng là một trong những gánh nặng tài chính lớn, với hơn 28% người tham gia khảo sát phải chi trả Việc cách ly giữa các vùng và trong các khu vực phong tỏa đã dẫn đến nhiều khoản chi phí phát sinh, bao gồm tiền thuê nhà, chi phí ăn uống cho người thân bị mắc kẹt, cùng với chi phí hỗ trợ cho những người ở các thành phố khác do mất việc làm vì COVID-19.
Trong đợt bùng phát dịch COVID-19 đầu tiên, nhà nước đã chi trả 100% chi phí xét nghiệm và chi phí trong khu cách ly Tuy nhiên, khi dịch kéo dài, nhiều người lao động phải tự chi trả chi phí xét nghiệm COVID-19 khi di chuyển giữa các tỉnh/thành phố, dẫn đến 22,9% người tham gia khảo sát phải gánh khoản chi phí này Ngoài ra, 13,3% người lao động phải chi trả cho bản thân hoặc người thân trong khu cách ly, bao gồm chi phí tự trả khi chọn cơ sở cách ly có thu phí và chi phí gửi đồ ăn vào khu vực cách ly của nhà nước.
Gần 15% người tham gia khảo sát cho biết họ phải đối mặt với các chi phí phát sinh như lương thực, thực phẩm, điện, nước, tiền thuê nhà và lãi vay ngân hàng Tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, cũng như ở những thành phố thực hiện giãn cách như Hà Nội và Đà Nẵng, người lao động phản ánh rằng chi phí cho lương thực, thực phẩm đã tăng mạnh, với mức tăng gấp đôi, gấp ba so với trước đây Mặc dù có thông tin từ chính phủ và chính quyền địa phương về việc đảm bảo nguồn lương thực thiết yếu và bình ổn giá cả, nhưng thực tế, người lao động không được hưởng lợi từ sự bình ổn này.
Người lao động tự do đang phải đối mặt với tình trạng chi phí điện, nước tăng cao do con cái học online tại nhà và họ cũng làm việc từ xa Mặc dù chi phí thuê nhà và lãi vay ngân hàng không tăng, nhưng đây vẫn là gánh nặng lớn đối với những lao động tự do không có việc làm, vì họ không có nguồn thu nhập ổn định để trang trải các khoản chi này.
3.3) Cần sự hỗ trợ từ nhiều phía
Nhà nước đã thông báo về các gói hỗ trợ qua phương tiện truyền thông, nhưng số tiền thực tế đến tay người lao động tự do và người nghèo vẫn còn quá ít Nhiều lao động tự do, người kinh doanh và bán hàng đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh nhưng vẫn chưa nhận được khoản hỗ trợ nào.
Các gói hỗ trợ đối với công nhân nên thông qua các công ty để lên danh sách người được thụ hưởng do mất việc.