1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN đề tài ĐÁNH GIÁ cơ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP về đầu tư QUY ĐỊNH tại HIỆP ĐỊNH EVIPA

33 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 33
Dung lượng 350,79 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN GIỮA VIỆT NAM – EU VÀ HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – EU (EVIPA) (6)
    • 1.1 Định nghĩa tranh chấp đầu tư và hiệp định bảo hộ đầu tư (6)
    • 1.2. Tình hình thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU (7)
    • 1.3. Một số vụ việc tranh chấp thực tế giữa Việt Nam và EU (8)
    • 1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp (10)
    • 1.5. Nội dung khởi kiện, các lĩnh vực có thể diễn ra tranh chấp chủ yếu (11)
    • 1.6. Sự cấp thiết của việc ra đời hiệp định (11)
    • 1.7. Bối cảnh ra đời EVIPA (12)
    • 1.8. Các mốc thời gian chính (15)
  • CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHÍNH CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA EVIPA (15)
    • 2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp (15)
      • 2.1.1. Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa chính phủ – chính phủ (15)
      • 2.1.2. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (16)
    • 2.2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp (16)
      • 2.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal) (16)
      • 2.2.2. Hội đồng xét xử sơ thẩm (instance tribunal) (17)
      • 2.2.3. Hội đồng xét xử phúc thẩm (appeal tribunal) (18)
    • 2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp (18)
      • 2.3.1. Trình tự giải quyết tranh chấp của phương thức hoà giải và tham vấn (18)
      • 2.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài (19)
      • 2.3.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo phương thức toà án (19)
  • CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ MẶT LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP (20)
    • 3.1. Đối với EU (20)
    • 3.2. Đối với Việt Nam (22)
      • 3.2.1. Những điểm đặc biệt cần lưu ý của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA (23)
      • 3.2.2. So sánh giữa tranh chấp đầu tư EVIPA và truyền thống (25)
      • 3.3.3. Đánh giá tác động của cơ chế đối với Việt Nam (25)
  • CHƯƠNG 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM (0)
  • CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRƯỚC KHI THỰC THI HIỆP ĐỊNH. .28 TỔNG KẾT (28)

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN GIỮA VIỆT NAM – EU VÀ HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – EU (EVIPA)

Định nghĩa tranh chấp đầu tư và hiệp định bảo hộ đầu tư

Về tranh chấp đầu tư:

Cho đến nay, chưa có văn bản nào định nghĩa cụ thể về tranh chấp đầu tư quốc tế Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư, Hội đồng trọng tài của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã áp dụng khái niệm tranh chấp tương tự và dựa vào định nghĩa của Toà án Thường trực Công lý quốc tế cùng Toà án Công lý quốc tế Theo Toà án Thường trực Công lý quốc tế, tranh chấp được định nghĩa như sau:

Tranh chấp là sự bất đồng về mặt pháp lý hoặc thực tế, thể hiện qua xung đột quan điểm pháp lý hoặc lợi ích giữa hai hoặc nhiều bên.

Theo công lý quốc tế, tranh chấp được định nghĩa là tình huống mà hai bên có quan điểm đối lập về việc thực hiện một nghĩa vụ trong hiệp ước Tương tự, Từ điển Luật học Black cũng mô tả tranh chấp là sự mâu thuẫn hay bất đồng về yêu cầu hoặc quyền lợi giữa các bên, trong đó yêu cầu của một bên bị đối kháng bởi lập luận trái ngược từ bên kia.

Tranh chấp đầu tư quốc tế là những mâu thuẫn và bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đầu tư quốc tế, phát sinh từ các Hiệp định đầu tư, Hiệp định bảo hộ đầu tư, hoặc hợp đồng giữa các bên Những tranh chấp này có thể xảy ra giữa các nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, cũng như giữa các nhà đầu tư nước ngoài về việc thực hiện các cam kết đầu tư quốc tế Hơn nữa, còn có tranh chấp giữa các Chính phủ thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng các Hiệp định đầu tư quốc tế, cả song phương và đa phương.

Về cơ chế giải quyết tranh chấp:

Từ "cơ chế" có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau Theo Từ điển phương Tây "Le Petit Larousse" (1999), cơ chế được định nghĩa là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau" Trong khi đó, từ điển tiếng Việt mô tả cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình thực hiện" Ngoài ra, giải quyết tranh chấp là quá trình đưa ra các vấn đề cần xem xét và xử lý để giải quyết những mâu thuẫn giữa các bên.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia đóng vai trò quan trọng Theo ThS Nguyễn Thị Anh Thơ từ Khoa Pháp luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, việc hiểu rõ các quy định và cơ chế này sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và nâng cao tính cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Nghiên cứu Lập Pháp (Viện nghiên cứu Lập Pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội) ngày 26/02/2020.

Cơ chế giải quyết tranh chấp là phương thức tổ chức và xử lý các vấn đề liên quan đến yêu cầu hoặc quyền lợi giữa các bên, nhằm đưa ra quyết định chính xác và khách quan Với tính minh bạch cao, cơ chế này giúp giảm thiểu các mâu thuẫn và tranh chấp, đảm bảo sự công bằng trong quá trình giải quyết.

Về hiệp định bảo hộ đầu tư:

Trên cơ sở quy định về điều ước quốc tế trong Công ước viên về Luật điều ước quốc tế

Hiệp định bảo hộ đầu tư, theo Luật điều ước quốc tế 2016 của Việt Nam, là thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia, được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế Hiệp định này đóng vai trò như một rào chắn, bảo vệ và giải quyết các tranh chấp đầu tư, tạo ra điều kiện thuận lợi, công bằng và thỏa đáng giữa các bên ký kết Đồng thời, nó khuyến khích đầu tư nguồn vốn, công nghệ và phát triển nhờ vào sự an tâm mà hiệp định mang lại.

Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu chứa nhiều nội dung mới mẻ, thiết lập cơ chế tiên phong cho việc phòng ngừa và giải quyết tranh chấp đầu tư, mang lại giá trị cao hơn bao giờ hết.

Tình hình thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU

Mối quan hệ giữa Việt Nam và EU thể hiện sự tin cậy và hữu nghị, với tầm nhìn dài hạn trong việc nâng cao quan hệ song phương Hai bên cùng nhau nỗ lực đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển không chỉ ở khu vực mà còn trên toàn cầu Hiệp định khung về Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) được ký kết vào ngày 27 tháng 6 năm 2012, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ hai bên.

Kể từ năm 2012, với hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 2016, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc phát triển hợp tác toàn diện với EU Đến năm 2019, EU đã có 2.375 dự án tại Việt Nam, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 25,49 tỉ USD, chiếm 7,70% số dự án và 7,03% tổng vốn đầu tư của cả nước Hà Lan dẫn đầu với 344 dự án và 10,05 tỉ USD, chiếm 39,43% tổng vốn đầu tư của EU Vương quốc Anh đứng thứ hai với 380 dự án và 3,72 tỉ USD, trong khi Pháp đứng thứ ba với 563 dự án và 3,60 tỉ USD Hiện nay, EU là đối tác thương mại lớn hàng đầu của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai, chỉ sau Hoa Kỳ.

2 Xem: Thời báo kinh tế Sài Gòn (ngày 19/03/2020) Số 12.2020(1.527)

Một số vụ việc tranh chấp thực tế giữa Việt Nam và EU

Tranh chấp đầu tư là điều khó tránh khỏi trong bối cảnh EU là một thị trường lớn và đa dạng Một số vụ kiện tiêu biểu về tranh chấp đầu tư quốc tế giữa Việt Nam và EU cần được nhắc đến.

Vào năm 2015, Việt Nam đã thắng kiện trong vụ tranh chấp đầu tư quốc tế thứ hai với nhà đầu tư Pháp (DialAsie) tại Tòa án Hà Lan, liên quan đến dự án Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận, diễn ra từ năm 2011.

Bệnh viện DialAsie đã ký hợp đồng thuê tòa nhà của Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP.HCM với giá 23.000 USD/tháng tại Quận 3, nhưng không thể chi trả tiền thuê, dẫn đến việc Sài Gòn Co.op kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam Kết quả, DialAsie thua kiện và phải thanh toán hơn 571.000 USD Bộ Y tế cũng yêu cầu bệnh viện ngừng tiếp nhận bệnh nhân và chuyển họ đến cơ sở y tế khác Tuy nhiên, DialAsie không thanh toán được khoản tiền này, khiến Sài Gòn Co.op tiếp tục khởi kiện DialAsie cho rằng mình bị đối xử không công bằng và đã kiện Chính phủ Việt Nam tại Toà trọng tài Quốc tế vào năm 2011 Hội đồng trọng tài tại La Haye đã thụ lý và ban hành phán quyết sau một thời gian dài xem xét.

Chính phủ Việt Nam hoàn toàn không vi phạm Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt - Pháp, cũng như không có hành vi sai trái nào Tất cả các hoạt động của Sài Gòn Co.op đều tuân thủ pháp luật Việt Nam và không thể coi là hành động của Chính phủ.

Hội đồng trọng tài quốc tế La Haye đã bác bỏ toàn bộ khởi kiện của DialAsie đối với Chính phủ Việt Nam Do đó, Chính phủ Việt Nam không có nghĩa vụ bồi thường bất kỳ chi phí nào cho nguyên đơn theo yêu cầu khởi kiện.

Kể từ vụ tranh chấp đầu tư quốc tế đầu tiên vào năm 2010, số lượng các vụ tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài đã gia tăng đáng kể Đến tháng 9/2019, theo thống kê sơ bộ của Bộ Tư pháp, có 10 vụ tranh chấp đang được giải quyết tại trọng tài quốc tế và 22 vụ nhà đầu tư đã thông báo ý định khởi kiện trong năm 2019.

Hiện tại, có 19 vụ việc đang được giải quyết tại các cơ quan tố tụng Việt Nam, cùng với 129 vụ việc khác đang được xử lý tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Các quốc gia đang phát triển, bao gồm Việt Nam, đang nỗ lực tìm kiếm mô hình hiệu quả để phòng ngừa và giải quyết tranh chấp, đặc biệt trong bối cảnh gặp khó khăn về tổ chức, nguồn nhân lực và tài chính cho việc giải quyết tranh chấp Một trong những giải pháp mà họ theo đuổi là ký kết các hiệp định thương mại tự do và hiệp định khuyến khích, bảo hộ đầu tư Hiệp định EVIPA là một ví dụ điển hình cho những cải cách trong cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư, thể hiện những tiến bộ trong nỗ lực nâng cao khả năng tự bảo vệ của các quốc gia này trong tranh chấp đầu tư quốc tế.

Vụ kiện giữa nhà đầu tư Hà Lan Trịnh Vĩnh Bình và Chính phủ Việt Nam đã thu hút sự chú ý lớn từ dư luận Ông Trịnh Vĩnh Bình, một triệu phú nổi tiếng nhờ kinh doanh chả giò, đã đầu tư hơn 3 triệu đô la Mỹ vào Việt Nam vào cuối năm Vụ tranh chấp này đã gây ra nhiều tranh cãi và trở thành tâm điểm của các cuộc thảo luận.

Vào năm 1998, ông Bình bị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt giữ với cáo buộc hối lộ và vi phạm quy định quản lý đất đai Ông bị giam 18 tháng và quản chế 1 năm 6 tháng, sau đó bị tịch thu toàn bộ tài sản và nhận án 11 năm tù vào năm 1999 Trong thời gian tại ngoại, ông đã trốn khỏi Việt Nam.

Vụ kiện đầu tiên được Trung tâm Trọng tài Quốc tế Stockholm xử lý vào tháng 12 năm 2006 đã dẫn đến một thỏa thuận ngoài tòa giữa nhà nước Việt Nam và ông Trịnh Vĩnh Bình Theo thỏa thuận này, Chính phủ Việt Nam đồng ý xóa án cho ông Bình, bồi thường 15 triệu đô la Mỹ và trả lại toàn bộ tài sản đã tịch thu Đổi lại, ông Bình phải rút đơn kiện khỏi Tòa án Trọng tài Quốc tế và cam kết không tiết lộ nội dung thỏa thuận.

Vào tháng 1 năm 2015, ông Bình đã đệ đơn kiện Chính phủ Việt Nam lần thứ hai, cáo buộc rằng Chính phủ không thực hiện đúng các cam kết đã thỏa thuận trước đó Ông yêu cầu bồi thường 1,25 tỷ đô la do Việt Nam vi phạm luật đầu tư theo Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương giữa Hà Lan và Việt Nam Thêm vào đó, ông cũng chỉ ra rằng việc chính quyền bắt giữ ông là trái pháp luật, vi phạm nhân quyền.

Theo phán quyết của Toà Trọng tài Quốc tế tại Paris vào tháng 4 năm 2019, Chính phủ Việt Nam phải bồi thường 37.581.596 đô la và gần 7,9 triệu đô la án phí cho Trịnh Vĩnh Bình, được biết đến là "vua chả giò" Tuy nhiên, Việt Nam đã từ chối trả lại những tài sản còn lại của ông tại Việt Nam.

Ông Bình xác nhận rằng Chính phủ Việt Nam đã thanh toán một phần tiền phán quyết, nhưng số tiền này chỉ là một phần rất nhỏ so với tổng thiệt hại ước tính lên đến 2,5 tỷ đô la mà ông yêu cầu Ông cũng tiết lộ rằng mặc dù vẫn còn một số tài sản tại Việt Nam, nhưng ông không công khai chi tiết về chúng Trong khi tiếp tục theo đuổi ít nhất hai vụ kiện mới, ông khẳng định rằng khoản đền bù từ Việt Nam là không đủ và ông sẽ tiếp tục yêu cầu bồi thường cho những khoản đầu tư lâu dài của mình Mặc dù nhận thấy Việt Nam đang mở cửa về mặt pháp lý, ông vẫn lo ngại về việc thực thi luật pháp không đúng cách, điều này khiến ông không tin tưởng vào môi trường đầu tư tại Việt Nam, tạo ra rào cản lớn cho quyết định đầu tư của ông trong tương lai.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam Mai Tiến Dũng đã nhấn mạnh rằng Chính phủ và Thủ tướng cam kết tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng và hợp pháp cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam Ông cũng cho biết rằng Tòa án quốc tế đang xem xét vụ kiện của ông Bình, liên quan đến việc liệu có vi phạm điều luật trong tranh chấp này hay không Khi một địa phương hoặc cơ quan vi phạm thỏa thuận hoặc cam kết, nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiện Chính phủ Việt Nam về vấn đề bảo hộ đầu tư.

Một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp

Đa số các vụ tranh chấp về bảo hộ đầu tư theo hiệp định EVIPA phát sinh khi nhà đầu tư cho rằng nước tiếp nhận đầu tư không thực hiện đầy đủ các cam kết bảo hộ Tranh chấp này thường xảy ra giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ nước tiếp nhận, liên quan đến việc thực thi các cam kết trong Hiệp định Bảo hộ đầu tư Ngoài ra, cũng có tranh chấp giữa các chính phủ thành viên về việc giải thích và áp dụng hiệp định, cũng như tranh chấp giữa các thương nhân trong thương mại quốc tế có nguồn gốc từ tranh chấp đầu tư quốc tế.

Hiệp định EVIPA nhằm khuyến khích các nhà đầu tư cam kết lâu dài về vốn và tài chính, đảm bảo sự đối xử công bằng và thỏa đáng từ quốc gia tiếp nhận đầu tư Nó cũng giải quyết các tranh chấp và đảm bảo bồi thường hợp lý cho nhà đầu tư bị thiệt hại, đồng thời ngăn chặn hành vi đối xử bất công của Chính phủ nước chủ nhà Hiệp định này mang lại lợi ích cho công dân và doanh nghiệp của các nước ký kết thông qua sự bảo hộ theo pháp luật quốc tế Theo báo cáo của Hội nghị Liên hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCATD), các cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư được xem là “sự bảo đảm cuối cùng để bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài”.

Nội dung khởi kiện, các lĩnh vực có thể diễn ra tranh chấp chủ yếu

Khoản đầu tư được bảo hộ bao gồm vốn, nợ, hoạt động kinh doanh, tài sản và quyền tài sản, liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và điều ước quốc tế Các dự án từ nhà đầu tư EU sẽ được chọn lọc và tập trung vào các lĩnh vực như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, dịch vụ chất lượng cao, ngân hàng và tài chính, cũng như các dự án có giá trị gia tăng cao và tác động lan tỏa trong chuỗi sản xuất toàn cầu Những lĩnh vực này không chỉ thể hiện tiềm năng và thế mạnh của EU mà còn có thể dẫn đến tranh chấp giữa các bên.

Sự cấp thiết của việc ra đời hiệp định

Một sự kiện quan trọng đã đánh dấu mốc lịch sử trong quan hệ giữa hai bên là việc ký kết và phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam, chính thức có hiệu lực.

Hiệp định Thương mại Tự do EU - Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực từ ngày 01/08/2020, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU Với phạm vi cam kết sâu rộng và nhiều đột phá, hiệp định này không chỉ thúc đẩy thương mại mà còn tạo cơ hội mới cho đầu tư Đặc biệt, nội dung bảo hộ đầu tư đã được tách ra thành một hiệp định riêng, mang tên Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU.

Bài viết của Bùi Hồng Hạnh tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (2020) phân tích mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, từ Hiệp định khung về hợp tác đến Hiệp định Thương mại tự do Nội dung bài viết có thể được tìm thấy tại địa chỉ https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/819660/quan-he-viet-nam -lien-minh-chau-au tu-hiep-dinh-khung-ve-hop-tac-den-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do.aspx, với ngày truy cập là 3/6/2021.

Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) đánh dấu một bước tiến quan trọng, giúp Việt Nam từ vị thế nước đi sau vươn lên nhóm các quốc gia dẫn đầu trong khu vực về hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) được thông qua thể hiện cam kết của hai bên trong việc tăng cường và phát triển mối quan hệ đối tác toàn diện, đánh dấu bước tiến mới sau 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà còn trong pháp luật quốc tế.

Sự bận tâm về tài sản và vấn đề pháp lý khi đầu tư vào doanh nghiệp nước ngoài luôn là rào cản lớn đối với các nhà đầu tư trong nước, không chỉ vì ngôn ngữ mà còn do các tranh chấp ngoài thỏa thuận và vấn đề bảo hộ doanh nghiệp Hiệp định EVIPA đã giúp các nhà đầu tư cảm thấy an toàn hơn về quyền bảo hộ tài sản, cam kết bồi thường nếu tài sản bị phá hoại hoặc không bị “trưng mua quốc hữu hóa”, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường quốc tế.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, việc thực hiện cam kết theo Hiệp định EVIPA sẽ thúc đẩy Việt Nam hoàn thiện hệ thống thể chế và chính sách, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh Mục tiêu là tạo ra một môi trường ngày càng thuận lợi, bình đẳng, an toàn, minh bạch và thân thiện cho tất cả các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.

Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển, đang nỗ lực không ngừng để nâng cao nền kinh tế đầu tư và giảm thiểu sự phụ thuộc vào các quốc gia lớn Hiệp định EVIPA, khi được phê duyệt và thực hiện, đã mang lại những chuyển biến tích cực trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế giữa Việt Nam và các nước khác Nội dung của hiệp định này đảm bảo tính minh bạch trong việc xử lý các vấn đề tranh chấp, giúp các nhà đầu tư trong nước cảm thấy tự tin hơn và khuyến khích họ hoàn thiện doanh nghiệp mà không bị hạn chế quyền lợi trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Bối cảnh ra đời EVIPA

Lại Thị Vân Anh đã nghiên cứu về pháp luật quốc tế và thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế Tài liệu này cung cấp kiến thức và kỹ năng pháp luật quốc tế cần thiết cho công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp tại Hà Nội, giúp nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

5 Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh (2021), EVIPA: Cân bằng cho cả Việt Nam và EU, Trung tâm WTO và hội nhập,

Hà Nội truy cập ngày 13/6/2021.

6 Phạm Sỹ Chung (2020), Vấn đề bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam,truy cập ngày 13/6/2021.

Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã làm suy giảm mạnh mẽ mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu, một hiện tượng chưa từng xảy ra trong nhiều thập kỷ Tình hình kinh tế chính trị hiện tại đang diễn biến phức tạp và khó lường, khiến các nhà đầu tư lo ngại Sự đầu tư từ các quốc gia và liên minh lớn vào các nước nhỏ đang dần giảm sút Xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương dự kiến sẽ khó có thể thay đổi trong 5 đến 7 năm tới.

Đầu tư bảo hộ của các quốc gia vẫn là một thách thức lớn đối với nhà đầu tư, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển Năm 2021 và những năm tiếp theo dự báo sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn cho nền kinh tế toàn cầu Tuy nhiên, trong bốn tháng đầu năm 2021, nền kinh tế thế giới đã có dấu hiệu phục hồi, mặc dù vốn đầu tư trực tiếp toàn cầu vẫn còn yếu Toàn cầu hóa đang chuyển hướng sang khu vực hóa thương mại và đầu tư, với nhiều sáng kiến mới ở cấp độ khu vực, dẫn đến sự kết hợp giữa bảo hộ và khu vực hóa chuỗi giá trị Hậu quả của đại dịch COVID-19 vẫn còn kéo dài, làm cho các vấn đề đầu tư trở nên khó khăn hơn, trong khi nguồn vốn và thị trường ngày càng khan hiếm Các vấn đề về bảo hộ đầu tư vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, chưa tìm ra giải pháp cho nhà đầu tư và các quốc gia trong khu vực.

Bối cảnh Liên minh châu Âu

Năm 2020 chính là một năm đầu biến động đối với Liên minh châu Âu

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, Liên minh Châu Âu đã công bố "Hiệp ước mới về di cư" nhằm giải quyết những hậu quả kéo dài từ cuộc khủng hoảng di cư diễn ra năm năm trước, đồng thời tìm cách hạn chế các vấn đề liên quan.

Vào tháng 11, trước Hội nghị thượng đỉnh, Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp đã đạt được thỏa thuận giảm căng thẳng và tránh xung đột trên biển và trên không, góp phần hóa giải những mâu thuẫn liên quan đến Đông Địa Trung Hải Đặc biệt, vào ngày 01/12, tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao trực tuyến ASEAN - EU, mối quan hệ đối tác giữa hai khu vực đã được nâng cấp thành đối tác chiến lược, thể hiện sự phát triển toàn diện trên nhiều lĩnh vực.

Mặc dù EU đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong năm 2020, nhưng tổ chức này cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, bao gồm Brexit, nợ công và nợ doanh nghiệp gia tăng, đầu tư và sản xuất đình trệ, cùng với sự gia tăng rạn nứt nội khối Tuy nhiên, vấn đề nghiêm trọng nhất chính là đại dịch COVID-19, với nhiều đợt tái bùng phát đã khiến tăng trưởng kinh tế của EU sụt giảm mạnh mẽ, rơi vào suy thoái kinh tế chưa từng có và chậm phục hồi, làm cho "lục địa già" luôn trong tình trạng bất ổn.

Theo Tô Trung Thành (2020), xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương dự kiến sẽ khó có thể đảo ngược trong vòng 5 đến 7 năm tới Bài viết phân tích tình hình kinh tế thế giới năm 2020 và những xu hướng mới nổi bật trong bối cảnh này.

Năm 2021, EU đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội, với mục tiêu khắc phục hậu quả của đại dịch, phục hồi kinh tế - xã hội, và xây dựng sức mạnh độc lập về kinh tế cũng như quốc phòng Đồng thời, các nước thành viên cần tiếp tục nỗ lực chống lại sự nóng lên toàn cầu, biến năm 2021 thành một bản lề quan trọng cho khu vực EU.

Nền kinh tế các nước thành viên EU đang đối mặt với khủng hoảng do nhiều khoản đầu tư chưa được giải ngân kịp thời, khiến chính phủ ngần ngại trong việc đầu tư vào các thị trường đang phát triển Vấn đề bảo hộ đầu tư trở thành thách thức lớn, dẫn đến sự thiếu thống nhất giữa các nhà đầu tư và chính phủ về các vấn đề này Hệ quả là các vấn đề liên quan đến bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp vẫn đang gặp khó khăn, chưa tìm ra giải pháp cho các nhà đầu tư và các quốc gia trong khu vực.

Bối cảnh trong nước cho thấy bức tranh hòa bình, hợp tác và hữu nghị đang nổi bật trong xu thế phát triển không chỉ của Việt Nam mà còn của toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục khẳng định vị thế là khu vực phát triển kinh tế năng động, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu, đồng thời có ảnh hưởng chính trị ngày càng gia tăng Với phương châm “Của dân – do dân – vì dân”, Việt Nam tiếp tục đặt người dân làm trung tâm trong mọi hoạt động, hướng tới tầm nhìn năm 2025 theo “Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2016.

Trong bối cảnh môi trường quốc tế biến động, Việt Nam không chỉ nỗ lực duy trì và củng cố quan hệ song phương và đa phương với các quốc gia trong và ngoài khu vực, mà còn linh hoạt trong ngoại giao, thúc đẩy mối quan hệ và hỗ trợ y tế, cung cấp khẩu trang cho các đối tác quan trọng Đặc biệt, Việt Nam đã tận dụng sự ủng hộ tài chính từ các quốc gia và tổ chức quốc tế nhằm kiểm soát dịch bệnh Những dấu ấn nổi bật trong năm 2020 đã được nêu rõ trong báo cáo của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh.

Việt Nam đã đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế quan trọng như Chủ tịch ASEAN 2020 và AIPA 41, cũng như là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trong năm 2020-2021 Qua đó, Việt Nam đã phối hợp và dẫn dắt, ký kết nhiều văn kiện quan trọng tại các hội nghị, giúp ASEAN vượt qua nhiều thử thách Đồng thời, tại Hội đồng Bảo an, Việt Nam đã thể hiện hình ảnh một quốc gia có trách nhiệm, tôn trọng luật pháp quốc tế và nỗ lực tìm kiếm giải pháp thỏa đáng cho các cuộc tranh chấp và xung đột.

Trong bài viết "Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới" của Phạm Bình Minh, được đăng trên Báo điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, tác giả đã nêu bật những thay đổi và thách thức trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong năm 2020 Bài viết nhấn mạnh sự kiên định và linh hoạt của Việt Nam trong việc xây dựng mối quan hệ quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế Tác giả cũng đề cập đến những thành tựu nổi bật trong công tác đối ngoại, phản ánh bản lĩnh và tâm thế mới của đất nước trong bối cảnh toàn cầu đầy biến động.

Công tác biên giới lãnh thổ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong quan hệ với Campuchia và Trung Quốc, với 84% công tác phân giới cắm mốc hoàn thành và kỷ niệm hiệp ước biên giới trên biển Việt Nam kiên quyết giữ vững lập trường và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển Đông dựa trên thượng tôn pháp luật, đồng thời giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình.

Công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian dịch COVID-19 được thực hiện kịp thời, cho thấy sự quan tâm của chính phủ đối với kiều bào Dù gặp nhiều khó khăn, cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn hướng về quê hương, tích cực đóng góp và ủng hộ đất nước vượt qua những ảnh hưởng do dịch bệnh gây ra.

Các mốc thời gian chính

Tháng 8 năm 2018: Hoàn tất rà soát pháp lý Hiệp định EVIPA Ngày 17 tháng 10 năm 2018: Ủy ban châu Âu đã chính thức thông qua EVFTA và EVIPA

Ngày 25 tháng 6 năm 2019: Hội đồng châu Âu đã phê duyệt cho phép ký Hiệp định. Ngày 30 tháng năm 2019: Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và EVIPA.

Ngày 08 tháng 6 năm 2020: Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp định EVFTA và EVIPA.

Toàn bộ nội dung liên quan đến bảo hộ và giải quyết tranh chấp đầu tư đã được tách ra khỏi Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) và trở thành Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA), nhưng vẫn chưa được Liên minh Châu Âu phê chuẩn Sự chậm trễ này xuất phát từ những mâu thuẫn và quy trình phức tạp trong nội bộ của EU.

EU, Việt Nam cũng nên có sự chuẩn bị phù hợp và tận dụng tối đa lợi thế từ vấn đề này.

NỘI DUNG CHÍNH CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA EVIPA

Phương thức giải quyết tranh chấp

2.1.1 Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa chính phủ – chính phủ:

Theo Hiệp định EVIPA, các bên sẽ nỗ lực giải quyết bất đồng thông qua tham vấn, nhằm đạt được giải pháp chung Nếu tham vấn không thành công, các bên sẽ tìm kiếm hình thức hòa giải để xử lý tranh chấp.

2.1.2 Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư: a) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế thông qua các phương thức tham vấn và thương lượng

Một trong những nội dung quan trọng của EVIPA là việc hòa giải như một phương thức giải quyết tranh chấp Bên tranh chấp có quyền yêu cầu hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình tranh chấp bằng cách gửi yêu cầu bằng văn bản đến bên đối lập Trong yêu cầu hòa giải, bên yêu cầu có thể đề xuất một giải pháp thỏa đáng hoặc yêu cầu bên còn lại tiến hành hòa giải nếu không có thỏa thuận nào Ngoài ra, tranh chấp đầu tư quốc tế cũng có thể được giải quyết tại tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư.

Giải quyết tranh chấp của Tòa án đầu tư là một phương thức mới được nhiều quốc gia áp dụng như một sự thay thế cho trọng tài Hệ thống Tòa án đầu tư tại EVIPA bao gồm tòa sơ thẩm với 9 thành viên (3 công dân EU, 3 công dân Việt Nam và 3 công dân từ các nước thứ ba) và tòa phúc thẩm với 6 thành viên (2 công dân EU, 2 công dân Việt Nam và 2 công dân từ các nước thứ ba) Các thành viên được ủy ban chỉ định nhiệm kỳ 4 năm và có thể được bổ nhiệm lại một lần Ngoài ra, EVIPA cũng quy định về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế qua trọng tài quốc tế, cho phép nguyên đơn yêu cầu theo Quy tắc phụ của ICSID hoặc Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL.

Các cơ quan giải quyết tranh chấp

2.2.1 Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal):

Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO là một cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền đưa ra những quyết định ràng buộc về mặt pháp lý cho các bên tranh chấp Cơ quan này bao gồm hai cấp: Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp lý trong thương mại quốc tế.

Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn (2020) nhấn mạnh rằng EVIPA đánh dấu bước triển khai quan trọng trong chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam Để đánh giá các khía cạnh pháp lý của tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp được tổ chức tương tự như mô hình của WTO, bao gồm Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm Mô hình này kết hợp giữa toà án và trọng tài, với các thành viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ và đưa ra phán quyết tương tự như phán quyết của trọng tài theo Công ước ICSID và Công ước New York 1958, đánh dấu sự thay đổi lớn trong hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư.

Mỗi vụ tranh chấp sẽ được xem xét bởi một Hội đồng ba thành viên, bao gồm một thành viên mang quốc tịch của một quốc gia thành viên EU, một thành viên mang quốc tịch Việt Nam và một thành viên đến từ quốc gia thứ ba.

Theo Gaukrodger và Gordon (2012), trọng tài được các bên bổ nhiệm theo các mô hình trọng tài vụ việc trước đây có xu hướng thiên vị và phục vụ lợi ích của các bên để tạo thuận lợi cho công việc sau này Việc bổ nhiệm thành viên và áp dụng mô hình hội đồng xét xử thường trực sẽ giải quyết mối quan ngại về tính độc lập của trọng tài, từ đó đảm bảo chất lượng xét xử, cũng như nâng cao kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng của trọng tài.

Một số học giả bày tỏ lo ngại về tính linh hoạt của mô hình hội đồng xét xử thường trực và việc chỉ định trọng tài trong các tranh chấp đầu tư quốc tế, vốn thường diễn ra giữa nhà đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư Theo Ruth Marie Mosch và August Reinisch, quy định về hội đồng xét xử thường trực có thể hạn chế quyền chỉ định trọng tài của nhà đầu tư, cho thấy các hiệp định thương mại tự do (FTAs) thường thiên về bảo vệ lợi ích của quốc gia Hơn nữa, trọng tài và thành viên hội đồng xét xử cần có chuyên môn cao trong lĩnh vực công pháp quốc tế và phải có các chứng chỉ phù hợp để làm việc tại các văn phòng tư pháp hoặc trở thành luật gia được công nhận Kinh nghiệm trong luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và quy trình giải quyết tranh chấp liên quan đến thỏa thuận đầu tư cũng chỉ là một lợi thế, điều này có thể xem là bất lợi cho nhà đầu tư.

2.2.2 Hội đồng xét xử sơ thẩm (instance tribunal)

Ban thư ký của WTO sẽ duy trì danh sách các thành viên của Ban hội thẩm, từ đó cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ lựa chọn hội thẩm viên khi cần thành lập Ban hội thẩm.

11 Tham khảo: J A VanDuzer, Institut C.D HOWE, “Investor-state Dispute Settlement in CETA: Is it the Gold Standard?”,Commentary No 459

Tòa sơ thẩm gồm chín thành viên, bao gồm ba công dân EU, ba công dân Việt Nam và ba công dân từ các nước thứ ba Theo quy định tại khoản 7 Điều 3.38 Chương III EVIPA, các thành viên này phải có bằng cấp chuyên môn phù hợp với yêu cầu của quốc gia chỉ định, hoặc là luật gia được công nhận, và phải chứng minh chuyên môn trong công pháp quốc tế Cụ thể, họ cần có kiến thức chuyên sâu về luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và giải quyết tranh chấp liên quan đến các hiệp định đầu tư và thương mại quốc tế.

2.2.3 Hội đồng xét xử phúc thẩm (appeal tribunal):

Việc thiếu cơ chế rà soát tư pháp trong cơ chế ISDS truyền thống đã trở thành vấn đề gây tranh luận Khác với các FTA trước đây, EVIPA thiết lập một Hội đồng xét xử phúc thẩm thường trực để giải quyết kháng cáo đối với quyết định của hội đồng xét xử Các thành viên của Hội đồng phúc thẩm phải có chuyên môn trong công pháp quốc tế và bằng cấp phù hợp theo yêu cầu của quốc gia họ đại diện, nhằm đảm bảo năng lực trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hiệp định đầu tư hoặc thương mại quốc tế.

Trình tự giải quyết tranh chấp

2.3.1 Trình tự giải quyết tranh chấp của phương thức hoà giải và tham vấn:

Trong quá trình tranh chấp, một bên có quyền yêu cầu giải quyết thông qua hòa giải bằng cách gửi văn bản yêu cầu cho bên kia Yêu cầu này có thể dựa trên thỏa thuận hòa giải đã có hoặc đề nghị bên còn lại tiến hành hòa giải nếu chưa có thỏa thuận Bên nhận yêu cầu phải phản hồi trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Nếu các bên không đạt được sự đồng thuận trong việc hòa giải, vụ việc sẽ được giải quyết thông qua tố tụng Quá trình hòa giải bắt đầu khi hòa giải viên được chỉ định, và các bên sẽ cố gắng hoàn tất trong vòng 60 ngày Hòa giải có thể kết thúc khi các bên đạt được thỏa thuận, khi hòa giải viên thông báo rằng không thể tiếp tục, hoặc khi một bên yêu cầu chấm dứt quá trình hòa giải.

12 Tham khảo: United Nations Conference on Trade and Development, World Investment Report 2015: Reforming

Theo quy định của EVIPA, tố tụng tại tòa án đầu tư sẽ tạm ngưng khi các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận hòa giải cho đến khi quá trình hòa giải kết thúc Để khởi kiện tại tòa án đầu tư, nhà đầu tư cần gửi yêu cầu tham vấn đến bên kia Nếu có nhiều nguyên đơn hoặc đại diện cho nhiều công ty thành lập trong nước, mỗi nguyên đơn hoặc công ty phải nộp riêng thông tin theo quy định tại điểm 1(a) và 1(e) Điều 3.30 Chương III của EVIPA.

Yêu cầu tham vấn phải được gửi trong vòng ba năm kể từ khi nhà đầu tư nhận thức về vi phạm hoặc thiệt hại, hoặc trong hai năm kể từ khi ngừng khởi kiện theo luật quốc gia, nhưng không vượt quá bảy năm kể từ khi nhà đầu tư biết về vấn đề đó Nếu tranh chấp không được giải quyết trong 90 ngày sau khi gửi yêu cầu, nhà đầu tư có quyền thông báo về ý định khởi kiện cho bên đối diện.

Nhà đầu tư chỉ có quyền khởi kiện sơ thẩm nếu tranh chấp chưa được giải quyết sau sáu tháng kể từ khi gửi đơn yêu cầu tư vấn và còn ít nhất ba tháng kể từ ngày thông báo ý định khởi kiện Nếu không thực hiện trong khoảng thời gian này, quyền khởi kiện sẽ không còn hiệu lực.

18 tháng kể từ khi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư sẽ được coi là đã rút đơn kiện và không có quyền khởi kiện theo cơ chế này

Trong trường hợp khẩn cấp, quá trình tham vấn sẽ được tiến hành trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận yêu cầu Tham vấn sẽ được coi là kết thúc sau 20 ngày, trừ khi các bên có thỏa thuận tiếp tục tham vấn.

2.3.2 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài:

Trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu thành lập hội đồng trọng tài, các bên sẽ tiến hành tham vấn để thống nhất về thành phần của hội đồng Nếu không có thỏa thuận khác, các bên phải họp với hội đồng trọng tài trong 10 ngày sau khi hội đồng được thành lập để xác định các vấn đề tranh chấp cần thiết Trong thời hạn 14 ngày kể từ khi nhận thông báo, một bên có quyền gửi yêu cầu bằng văn bản đến hội đồng trọng tài, kèm theo ý kiến để xem xét các phần của báo cáo sơ bộ.

Hội đồng trọng tài có quyền cập nhật báo cáo và xem xét thêm dựa trên yêu cầu bằng văn bản từ các bên, bao gồm ý kiến về báo cáo sơ bộ Cuối cùng, hội đồng phải hoàn thành báo cáo cuối cùng trong vòng 120 ngày kể từ khi thành lập Bị đơn cần thực hiện các biện pháp cần thiết để tuân thủ báo cáo cuối cùng một cách kịp thời và thiện chí.

2.3.3 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo phương thức toà án:

Nếu các bên không thể giải quyết tranh chấp qua tham vấn và hòa giải, nguyên đơn có thể khởi kiện tại tòa án trong vòng 90 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ Chánh án tòa án cấp Sơ thẩm sẽ chỉ định hội đồng xét xử để giải quyết vụ án Hội đồng xét xử sẽ đưa ra quyết định tạm thời trong vòng 18 tháng kể từ khi khởi kiện, và các bên có quyền kháng cáo trong vòng 90 ngày kể từ ngày quyết định được ban hành Nếu không kháng cáo trong thời gian quy định, phán quyết tạm thời sẽ trở thành phán quyết cuối cùng và chính thức có hiệu lực.

Kháng cáo sẽ được giải quyết bởi hội đồng xét xử của toà án cấp Phúc thẩm Các bên tranh chấp có quyền kháng cáo trong vòng 90 ngày kể từ ngày phán quyết được ban hành, và thủ tục kháng cáo không được kéo dài quá 180 ngày từ khi thông báo quyết định kháng cáo Nếu phán quyết tạm thời bị kháng cáo, phán quyết cuối cùng của cấp Phúc thẩm sẽ sửa đổi hoặc hủy bỏ phán quyết tạm thời và trở thành phán quyết cuối cùng từ ngày cấp Phúc thẩm ban hành.

ĐÁNH GIÁ MẶT LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

Đối với EU

EVIPA thiết lập một nền tảng vững chắc cho quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU, giúp phát triển hiệu quả và tăng cường niềm tin Điều này cũng góp phần nâng cao sự an toàn cho các nhà đầu tư EU, đảm bảo quyền lợi của họ được bảo vệ trong trường hợp xảy ra tranh chấp khi đầu tư tại Việt Nam.

Cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA đã cải thiện đáng kể sự an toàn cho các doanh nghiệp EU khi đầu tư vào Việt Nam Trước đây, việc giải quyết tranh chấp thường dựa vào phương pháp trọng tài trong các Hiệp định bảo hộ đầu tư, nhưng phương pháp này đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến tính khách quan và minh bạch của phán quyết Điều này đã khiến các nhà đầu tư EU ngần ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam do lo ngại về an toàn Tuy nhiên, với cơ chế giải quyết tranh chấp mới mẻ trong EVIPA, các nhà đầu tư EU giờ đây cảm thấy yên tâm hơn và dễ dàng tiếp cận các nguồn lực cần thiết từ EU.

Các công ty EU đã đầu tư vào 2.375 dự án tại Việt Nam, với tổng vốn đầu tư đăng ký vượt qua 25 tỷ USD, gấp gần 80 lần so với lượng đầu tư từ Việt Nam sang EU.

EU hiện đang có 78 dự án đầu tư trị giá 320 triệu USD, trong đó 13 dự án chưa được bảo hộ bởi các nhà đầu tư từ 6 quốc gia Việc tận dụng các tiêu chuẩn cao trong Hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư và cơ chế Toà Đầu tư là rất quan trọng đối với EU, nhằm củng cố vị thế kinh tế và chính trị của liên minh này trên trường quốc tế.

EU phải tuân thủ các quy định và quy trình của cơ chế giải quyết tranh chấp trong hiệp định, điều này ngăn cản họ lạm dụng sức mạnh để áp đảo Việt Nam Tuy nhiên, điều này có thể khiến một số nhà đầu tư cảm thấy không hài lòng.

Hiệp định EVIPA vẫn chưa được thực thi và đang chờ sự phê chuẩn từ các nghị viện của các quốc gia thành viên EU Việc đạt được sự đồng ý từ 27 nghị viện không phải là điều dễ dàng do áp lực chính trị mà các nghị viện này thường phải đối mặt Hơn nữa, quá trình phê chuẩn có thể bị trì hoãn bởi các thủ tục phức tạp tại từng quốc gia EVIPA cũng bao gồm cơ chế ISDS tại Tòa Đầu tư, điều này làm dấy lên lo ngại về khả năng xảy ra các vụ kiện tương tự như Vattenfall v Germany lần thứ ba.

Vụ kiện "Vanttenfall v Germany" (Vanttenfall v Germany 2) đã thu hút sự chú ý lớn từ giới báo chí, liên quan đến tranh chấp giữa công ty năng lượng Thụy Điển Vanttenfall và Cộng hòa Liên bang Đức.

Công ty năng lượng Thụy Điển Vattenfall đã kiện Cộng hòa Liên bang Đức, cho rằng việc Đức sửa đổi Đạo luật sử dụng năng lượng nguyên tử để từ bỏ năng lượng hạt nhân và ngừng hoạt động của các nhà máy mà không bồi thường đã vi phạm quyền lợi của họ theo Hiệp ước hiến chương năng lượng Do đó, Vattenfall đã khởi kiện Đức qua phương thức trọng tài đầu tư và đồng thời đệ đơn kháng nghị lên Toà án Hiến pháp Liên bang Đức để phản đối những thay đổi này.

Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đã bác bỏ hầu hết các yêu cầu của Vattenfall, không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại và thay đổi chính sách năng lượng Việc thay đổi chính sách được coi là hợp lý nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, bao gồm tính mạng và sức khỏe, do đó không thể yêu cầu bồi thường cho việc bán năng lượng Quyết định này sẽ tạo ra một tiền lệ quan trọng cho các nhà đầu tư khác đối mặt với lệnh cấm năng lượng mà không nhận được bồi thường từ chính phủ.

13 Đào Trọng Khôi “Đừng quên EVIPA”, Tạp chí tài chính, tapchitaichinh.vn, truy cập ngày 16/10/2020.

Bài viết của Đào Trọng Khôi trên Tạp chí Công Thương đề cập đến mối lo ngại về việc Hiệp định EVIPA có thể bị lãng quên Tác giả phân tích các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ liên quan đến hiệp định này, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của EVIPA trong việc thúc đẩy hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu Bài viết cũng kêu gọi sự chú ý từ các bên liên quan để đảm bảo rằng EVIPA không chỉ là một văn bản pháp lý mà còn là động lực thực sự cho sự phát triển kinh tế.

Các nhà đầu tư EU đang lo lắng về cơ chế bảo hộ của EVIPA và ISDS tại Toà đầu tư, đặc biệt là do những mâu thuẫn nội bộ trong EU Những mâu thuẫn này xuất phát từ nguyên tắc trao quyền, dẫn đến lo ngại về sự chồng chéo giữa phạm vi điều chỉnh và quyền phê chuẩn các hiệp định thương mại, đầu tư, bao gồm cả EVIPA Tất cả các yếu tố này, riêng lẻ hoặc kết hợp, có thể khiến EVIPA chưa thể có hiệu lực sau EVFTA.

Mặc dù CETA đã được phê chuẩn ở cấp EU từ tháng 9 năm 2017, chỉ có 14 trong số 27 thành viên EU phê chuẩn, với nhiều khó khăn từ các quốc gia như Hà Lan, Pháp, Ý và Đức Bỉ cũng đã bác bỏ thỏa thuận này và thách thức tính hợp pháp của cơ chế giải quyết tranh chấp tại Toà tư pháp Châu Âu, khiến việc thông qua Hiệp định mất thêm vài năm Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức về bảo hộ đầu tư, tạo rào cản cho các nhà đầu tư EU trong việc ký kết hành lang pháp lý Thời gian chờ phê chuẩn có thể phản ánh quá trình EU đánh giá "vị thế" tư pháp quốc tế của Việt Nam, liệu Việt Nam có thể cải thiện môi trường đầu tư, củng cố hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư và doanh nghiệp, cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ công và an toàn trong doanh nghiệp hay không.

Mặc dù việc thực thi Hiệp định EVIPA vẫn đang chờ đợi, chúng ta có thể đánh giá các khía cạnh lý luận của cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định này đối với EU Hiệp định đảm bảo rằng nhà đầu tư sẽ được đối xử công bằng và bảo vệ an toàn, đồng thời cam kết không tiến hành trưng thu hay quốc hữu hóa tài sản mà không có bồi thường thỏa đáng Ngoài ra, trong trường hợp xảy ra thiệt hại do chiến tranh hay bạo loạn, nhà đầu tư cũng sẽ nhận được bồi thường phù hợp Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý các tranh chấp phát sinh.

EVIPA nhấn mạnh tầm quan trọng của thỏa thuận, hòa giải và tham vấn trong việc giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư hoặc giữa nhà đầu tư và Chính phủ nước sở tại Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, các bên ưu tiên giải quyết một cách thiện chí thông qua đàm phán và hòa giải Nếu không thể đạt được thỏa thuận qua hai phương thức này, sẽ áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định cụ thể trong EVIPA Những nội dung này tạo ra khung pháp lý nhằm tăng cường hợp tác, thấu hiểu và chia sẻ giữa Việt Nam và EU.

Đối với Việt Nam

15 Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

Hiệp định EVIPA đã thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo Việt Nam phát triển quan hệ với EU, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việc thực thi Hiệp định này sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, nâng cao chức năng bảo hộ đầu tư Điều này không chỉ hỗ trợ EVFTA mà còn tăng cường kết nối về kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU, đồng thời làm sâu sắc thêm mối quan hệ hợp tác giữa hai bên.

3.2.1 Những điểm đặc biệt cần lưu ý của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA

Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA đã được tách ra từ Hiệp định thương mại tự do EVFTA, mang đến cả cơ hội và thách thức trong việc thực thi Một số nội dung mới về cơ chế trọng tài ISDS trong EVIPA cần được chú trọng.

(i) Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal)

Theo EVIPA, Hội đồng xét xử bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm, tạo thành một mô hình hỗn hợp giữa toà án và trọng tài Các thành viên của hội đồng xét xử được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ và có quyền đưa ra phán quyết, đánh dấu một sự thay đổi lớn trong hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư.

(ii) Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 3.39 IPA)

Khác với các thiết chế trọng tài truyền thống, EVIPA thiết lập một Hội đồng xét xử phúc thẩm thường trực để xử lý các kháng cáo đối với quyết định của hội đồng xét xử Mô hình xét xử phúc thẩm này là mới mẻ không chỉ với Việt Nam mà còn với nhiều quốc gia khác trên thế giới Việc giải quyết kháng cáo và áp dụng hội đồng xét xử phúc thẩm cho thấy khả năng thay đổi hoặc đảo ngược phán quyết ban đầu khi cần thiết, điều này sẽ tác động đến thẩm quyền hạn chế trong quy trình hủy bỏ phán quyết trọng tài.

Mô hình này đã được tích hợp vào các hiệp định gần đây như CETA giữa Canada và EU, cũng như TTIP, nhưng vẫn chưa được triển khai thực tế, do đó chưa thể đánh giá hiệu quả của nó.

Nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp, theo Điều 3.46 của Hiệp định EVIPA, bao gồm 08 khoản quy định cụ thể về quy trình tố tụng Nguyên tắc này đảm bảo rằng tất cả tài liệu do các bên đệ trình và quyết định của hội đồng trọng tài đều được công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi và giám sát quá trình giải quyết tranh chấp.

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU mang đến những động lực và kỳ vọng mới trong quan hệ thương mại Theo đó, các tài liệu sẽ được công khai, ngoại trừ thông tin mật, và các phiên điều trần sẽ được tổ chức công khai, cho phép sự tham gia của các bên liên quan Điều này tạo ra sự khác biệt rõ rệt so với phương thức trọng tài thương mại tư nhân, vốn thường tuân theo nguyên tắc bí mật, đồng thời phản ánh xu hướng tiến bộ trong thập kỷ qua.

EVIPA đã áp dụng quy tắc minh bạch của UNCITRAL, trong khi CPTPP chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 của Hiệp định này.

Phán quyết của hội đồng xét xử được công nhận có giá trị pháp lý tương đương với phán quyết của toà án trong nước, và không thể bị rà soát, xem xét lại hoặc huỷ bỏ theo quy định tại Điều 3.57 của IPA.

Quy định của EVIPA khác biệt so với Công ước ICSID và CPTPP, cho phép Việt Nam gia hạn 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực Trong thời gian này, nếu Việt Nam là bị đơn, việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958, cho phép Tòa án Việt Nam xem xét hủy phán quyết EVIPA cũng quy định rõ rằng biện pháp bảo hộ ngoại giao chỉ được áp dụng khi một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58).

IPA) Quy định này cũng tương tự như Công ước ICSID và các cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư khác.

(v) Quy định về bên thứ ba tài trợ trong vụ kiện(Điều 3.37 IPA)

Tài trợ của bên thứ ba ngày càng trở nên quan trọng trong trọng tài thương mại và đầu tư, được quy định rõ trong Công ước ICSID, UNCITRAL và các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia Quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư mà còn cho phép họ nhận hỗ trợ tài chính từ bên thứ ba để theo đuổi hoặc bảo vệ thủ tục tố tụng Việc công khai thông tin về tài trợ này giúp ngăn ngừa xung đột lợi ích và nâng cao tính minh bạch, công bằng trong quá trình trọng tài.

(vi) Quy định về bảo đảm chi phí cho vụ kiện (Điều 3.48, Điều 3.54 IPA)

Trong trường hợp nguyên đơn không đủ năng lực tài chính, EVIPA quy định nguyên đơn (nhà đầu tư) phải đảm bảo toàn bộ hoặc một phần chi phí nếu có lý do hợp lý để tin rằng họ sẽ không tuân thủ quyết định về chi phí Nếu nguyên đơn không đảm bảo chi phí, Hội đồng xét xử có quyền trì hoãn hoặc đình chỉ thủ tục tố tụng Biện pháp bảo đảm chi phí cũng được áp dụng khi nộp đơn kháng cáo theo Điều 3.54 sau khi tòa Phúc thẩm xem xét.

Tất cả quy định trên nhằm hướng đến sự đảm bảo tính nghiêm ngặt, chặt chẽ của luật pháp quốc tế.

3.2.2 So sánh giữa tranh chấp đầu tư EVIPA và truyền thống:

Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp truyền thống, EVIPA thiết lập một cơ chế cố định để giải quyết tranh chấp đầu tư, nhằm đảm bảo quy trình tố tụng nhanh chóng và kịp thời Điều này bao gồm việc xây dựng khung thời gian cụ thể, quy định về tính minh bạch, và nâng cao hiệu quả thi hành phán quyết EVIPA cũng giới hạn khiếu kiện, quản lý bên thứ ba tài trợ cho vụ kiện và đảm bảo chi phí tố tụng Ngoài ra, EVIPA còn chú trọng đến hiệu quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng như đàm phán và hòa giải.

EVIPA thiết lập một hệ thống Tòa án đầu tư với hai cấp xét xử: Hội đồng tài phán sơ thẩm và phúc thẩm, mỗi vụ tranh chấp được xét xử bởi ba thành viên, gồm một người mang quốc tịch EU, một người Việt Nam và một người từ quốc gia thứ ba, đảm bảo tính công bằng trong xét xử Thời gian tố tụng tối đa là 02 năm, không thể trì hoãn, và nếu không giải quyết được tranh chấp qua đàm phán trong 06 tháng, Hội đồng tài phán sẽ được thành lập trong vòng 90 ngày từ khi nộp hồ sơ Phán quyết tạm thời sẽ được ban hành trong 18 tháng, với thời hạn giải quyết khiếu nại không vượt quá 06 tháng.

3.3.3 Đánh giá tác động của cơ chế đối với Việt Nam:

Hiệp định EVIPA được xây dựng với các quy định chi tiết và tiêu chí rõ ràng, ghi nhận quyền ban hành và thực hiện chính sách của mỗi bên Điều này giúp đảm bảo rằng các quy định được hiểu và áp dụng nhất quán, giảm thiểu khả năng tranh chấp Kết quả là tạo ra một hành lang pháp lý hoàn thiện, môi trường đầu tư thuận lợi, bình đẳng, an toàn, minh bạch và thân thiện, khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng thị trường quốc tế và thúc đẩy đầu tư đa dạng.

Ngày đăng: 23/04/2022, 07:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Ngô Văn Hiệp, Phạm Thùy Dung (2021), “ Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong EVIPA”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong EVIPA (lsvn.vn) , truy cập ngày 03/6/2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủvà nhà đầu tư trong EVIPA
Tác giả: Ngô Văn Hiệp, Phạm Thùy Dung
Năm: 2021
5. Đào Trọng Khôi “Đừng quên EVIPA”, Tạp chí tài chính, tapchitaichinh.vn, truy cập ngày 16/10/2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đừng quên EVIPA
6. Đào Trọng Khôi “EVIPA có chìm vào quên lãng”, Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ,tapchicongthuong.vn/bai-viet/evipa-co-chim-vao-quen-lang-74787.htm, Số 19, tháng 8/2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: EVIPA có chìm vào quên lãng
7. Nguyễn Minh Phong - Nguyễn Trần Minh Trí, “Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU: Những động lực và kỳ vọng mới”. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06(406)/2020.Tài liệu nước ngoài Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam –EU và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU: Những động lực và kỳ vọng mới”. "Tạpchí Nghiên cứu Lập pháp
2. Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.Sách, tạp chí Khác
1. Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh (2021), EVIPA: Cân bằng cho cả Việt Nam và EU, Trung tâm WTO và hội nhập, Hà Nội truy cập ngày 13/6/2021 Khác
3. Phạm Sỹ Chung (2020), Vấn đề bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, truy cập ngày 13/6/2021 Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w