1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa cam kết quốc tế và quy định pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

86 30 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 618 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU NHỰA TẠI VIỆT NAM (9)
    • 1.1. Sơ lƣợc chung về phế liệu nhựa (9)
      • 1.1.1. Khái niệm về phế liệu nhựa (9)
      • 1.1.2. Tác hại của phế liệu nhựa (11)
    • 1.2. Nội dung và vai trò của cơ chế quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa (13)
      • 1.2.1. Nội dung của cơ chế quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa (13)
      • 1.2.2. Vai trò của quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa (15)
    • 1.3. Thách thức đối với ngành nhựa và hoạt động quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa tại Việt Nam (17)
      • 1.3.1. Thách thức đối với ngành nhựa tại Việt Nam (17)
      • 1.3.2. Thách thức đối với hoạt động quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa tại Việt Nam (19)
    • 1.4. Nội dung và vai trò của các nguyên tắc liên quan đến bảo vệ môi trường (21)
  • CHƯƠNG 2. NGUYÊN TẮC TRONG LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU NHỰA (32)
    • 2.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử (32)
      • 2.1.1. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (32)
      • 2.1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (34)
      • 2.1.3. Ngoại lệ chung về môi trường (36)
    • 2.2. Nguyên tắc tự do hoá thương mại (38)
      • 2.2.1. Giảm biện pháp thuế quan (38)
      • 2.2.2. Xoá bỏ hàng rào phi thuế quan (39)
    • 2.3. Nguyên tắc minh bạch (48)
    • 3.1. Quy định pháp luật Việt Nam về quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa (52)
      • 3.1.1. Biện pháp thuế quan (52)
      • 3.1.2. Biện pháp phi thuế quan (53)
      • 3.1.3. Chế tài các hành vi vi phạm pháp luật (61)
    • 3.2. Đánh giá quy định pháp luật Việt Nam về quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa trong sự tương quan với các cam kết quốc tế (64)
    • 3.3. Một số giải pháp kiến nghị cho quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa tại Việt Nam (70)
      • 3.3.1. Học tập kinh nghiệm về quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa tại một số quốc gia (71)
      • 3.3.2. Xây dựng nền kinh tế tuần hoàn hướng đến mục tiêu phát triển bền vững 71 3.3.3. Đầu tư công đoạn thu gom, phân loại cho tái chế - Nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu (73)

Nội dung

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU NHỰA TẠI VIỆT NAM

Sơ lƣợc chung về phế liệu nhựa

1.1.1 Khái niệm về phế liệu nhựa Đối với các ngành công nghiệp sản xuất, phế liệu, nhất là phế liệu nhựa được xem là nguồn nguyên liệu chính yếu mang lại giá trị kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường Song, khái niệm về phế liệu trong mối tương quan phân biệt với chất thải luôn là vấn đề còn nhiều tranh luận bởi cách hiểu thông thường và thuật ngữ pháp lý có sự khác biệt.

Việc phân biệt giữa phế liệu và chất thải là rất quan trọng trong thương mại quốc tế, ảnh hưởng đến tiêu chí và điều kiện nhập khẩu cũng như trách nhiệm pháp lý liên quan đến vi phạm Chẳng hạn, tại Việt Nam, chính phủ cấm nhập khẩu tất cả các loại chất thải dưới mọi hình thức, chỉ cho phép nhập khẩu phế liệu đáp ứng các tiêu chuẩn quy định phục vụ sản xuất.

Chất thải có nhiều khái niệm khác nhau, mỗi khái niệm lại mang đến những phân tích riêng về ngữ nghĩa và chỉ khai thác một số khía cạnh, chứ không phản ánh một cách toàn diện.

Chất thải được định nghĩa trong Từ điển Môi trường và Phát triển bền vững là mọi chất rắn, lỏng hoặc khí không còn sử dụng được và cần phải được thải bỏ Tuy nhiên, khái niệm này không hoàn toàn chính xác, vì giá trị sử dụng của một vật liệu có thể khác nhau đối với từng người Một vật có thể không còn hữu ích với người này nhưng lại có thể được tận dụng và mang lại lợi ích kinh tế cho người khác.

Chất thải, theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, được hiểu là "rác và những đồ vật bị bỏ đi nói chung" Định nghĩa này cho thấy chất thải bao gồm một phạm vi rộng lớn các đồ vật không còn giá trị sử dụng.

1 Đặng Mộng Lân, Lê Mạnh Chiến, Nguyễn Ngọc Hải, Nguyễn Quang Anh, Đặng Văn Sử (2001), Từ điển

Môi trường và Phát triển bền vững Anh – Việt và Việt Anh, NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr.387.

Theo Hoàng Phê (2003), giá trị của một vật có thể khác nhau giữa chủ sở hữu và xã hội, dẫn đến sự không thống nhất trong quan điểm về chất thải Một vật có thể được xem là chất thải khi bị bỏ đi bởi một người, nhưng lại không bị coi là chất thải bởi người khác Dưới góc độ pháp lý, pháp luật Việt Nam định nghĩa chất thải là vật chất được thải ra từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác, tức là chất được thải bỏ.

Chất thải có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung, nó là những sản phẩm đã bị loại bỏ và không còn khả năng sử dụng cho bất kỳ hoạt động nào của con người.

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, phế liệu được định nghĩa là vật bỏ đi từ nguyên liệu đã qua chế biến Điều này có nghĩa là mọi vật sau khi sử dụng và không còn giá trị sử dụng sẽ trở thành phế liệu, và từ góc độ này, phế liệu được coi là chất thải.

Phế liệu được định nghĩa là vật liệu thu hồi từ sản phẩm đã bị loại bỏ trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng, nhằm tái sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình sản xuất khác Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, chỉ những chất thải được phân loại và có khả năng tái sử dụng mới được xem là phế liệu, trong khi Bộ Tài chính coi phế liệu là hàng hóa mua bán quốc tế Do đó, phế liệu trong nghiên cứu cần tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường và phải được quản lý, giám sát thông qua các thủ tục hải quan.

Phế liệu nhựa là vật liệu thu hồi từ các sản phẩm nhựa đã bị loại bỏ, được sử dụng làm nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất khác Với bản chất là nhựa, phế liệu này mang tất cả các đặc tính vốn có của vật liệu nhựa.

Phế liệu nhựa mang lại nhiều ưu điểm vượt trội so với các nguyên liệu truyền thống như kim loại, gỗ, thủy tinh và da, nhờ vào khả năng chống ăn mòn và chống thấm Tuy nhiên, những đặc tính này cũng làm cho việc xử lý phế liệu nhựa trở nên phức tạp và tốn kém hơn.

3Khoản 12, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014.

Khoản 16, Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường 2014 nêu rõ rằng việc tiêu huỷ chất thải có thể gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường do khí độc hại Tuy nhiên, phế liệu nhựa lại có ưu điểm nổi bật như dễ tạo hình, khả năng tái sinh và sự đa dạng trong sản xuất Chính vì vậy, việc tận dụng phế liệu nhựa không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giữ gìn sự trong sạch cho hệ sinh thái.

Phế liệu nhựa, chủ yếu từ nhựa nhiệt dẻo, được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất do khả năng tái sinh tốt và chi phí sản xuất thấp hơn so với nhựa nhiệt rắn Khi được nung nóng, nhựa nhiệt dẻo dễ dàng biến đổi hình dạng và có tính linh hoạt cao Tại Việt Nam, các loại phế liệu nhựa được phép nhập khẩu chủ yếu là nhựa nhiệt dẻo như PP, PE và PVC.

1.1.2 Tác hại của phế liệu nhựa

Phế liệu nhựa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, nhưng nếu không được quản lý đúng cách hoặc cho phép nhập khẩu tràn lan, nó sẽ gây hại nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người Rác thải nhựa không đạt quy chuẩn môi trường có thể xâm nhập vào lãnh thổ quốc gia, dẫn đến những tác động tiêu cực Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam và một số quốc gia khác đã ban hành lệnh cấm hoặc hạn chế nhập khẩu phế liệu nhựa nhằm giảm thiểu những rủi ro này.

Thứ nhất, phế liệu nhựa chứa các chất nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người

Phế liệu nhựa từ các sản phẩm hàng ngày chứa nhiều hợp chất hóa học gọi là "chất gây rối loạn nội tiết" (EDC), bao gồm các chất như PFAS, phthalates, bisphenol A (BPA), và các kim loại độc hại như chì và cadmium Những hợp chất này được thêm vào nhựa để cải thiện độ bền, nhưng sau đó chúng bị thải ra bãi rác và phân hủy thành vi nhựa.

Nội dung và vai trò của cơ chế quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa

1.2.1 Nội dung của cơ chế quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa

Quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa là việc áp dụng các công cụ và chính sách cần thiết để kiểm soát hoạt động này, nhằm hạn chế tác hại của phế liệu nhựa đối với môi trường và sức khỏe con người Mục tiêu chính của việc kiểm soát này là bảo vệ môi trường sống và cải thiện chất lượng cuộc sống.

9Alessio D’Amato (SEEDS), Susanna Paleari (IRcRES-CNR), Maija Pohjakallio (VTT), Ive Vanderreydt (VITO), Roberto Zoboli (SEEDS) (2019), tlđd (7), pp.25 – 26.

In 2019, Alessio D’Amato, Susanna Paleari, Maija Pohjakallio, Ive Vanderreydt, and Roberto Zoboli emphasized that territories must adhere to technical standards and customs procedures, ensuring they are exclusively utilized for production activities.

Các rào cản môi trường trong quản lý nhập khẩu nhằm đảm bảo chất lượng nguyên liệu, ngăn chặn rác thải nước ngoài, bảo vệ môi trường và đồng thời thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp nhựa Các biện pháp này thường bao gồm thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia.

Thuế quan, hay thuế hải quan, là công cụ quan trọng trong thương mại quốc tế, giúp nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua việc thu phí đối với hàng hóa nhập khẩu Khoản thuế này bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi cạnh tranh từ hàng hóa nước ngoài bằng cách làm tăng giá sản phẩm nhập khẩu Điều này ảnh hưởng đến quyết định mua sắm của người tiêu dùng và cho phép nhà nước điều tiết thị trường theo chính sách phát triển kinh tế Ngoài ra, thuế quan cũng là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước và có thể được sử dụng để đạt được các mục tiêu phi kinh tế, như bảo vệ môi trường.

Biện pháp phi thuế quan, khác với biện pháp thuế quan, bao gồm các quy định về thủ tục hải quan, tiêu chuẩn kỹ thuật và các điều kiện khác mà sản phẩm nhập khẩu phải đáp ứng để được phép nhập khẩu Những biện pháp này có thể liên quan đến môi trường và được áp dụng theo ý chí của quốc gia, nhằm bảo vệ sức khỏe con người và môi trường Tuy nhiên, khi các biện pháp phi thuế quan này vượt quá quy định của WTO và các hiệp định thương mại, chúng trở thành "hàng rào phi thuế quan", cản trở tự do lưu thông hàng hóa nhập khẩu, và đây là mục tiêu mà các cam kết thương mại quốc tế hướng đến để xóa bỏ.

11 Xem Điều XI, XX GATT, Hiệp định TBT, Chương 5 EVFTA.

Để quản lý hiệu quả hoạt động nhập khẩu phế liệu nhựa, chính phủ cần phối hợp và áp dụng đồng bộ các biện pháp hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt khi thuế quan không thể ngăn chặn nguồn phế liệu nhựa độc hại Trong quá trình xây dựng các biện pháp, các quốc gia cần xem xét nhiều yếu tố như nhu cầu nhập khẩu phế liệu nhựa, chất lượng môi trường hiện tại và các cam kết quốc tế liên quan Việc này giúp tạo ra cơ chế quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa hài hòa và hợp lý, đồng thời giải quyết bài toán cân bằng giữa thương mại và môi trường.

1.2.2 Vai trò của quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa

Mặc dù phế liệu nhựa chứa một số chất hóa học độc hại, nhưng nó vẫn được giao dịch quốc tế do khả năng giảm tải rác thải ở các quốc gia phát triển và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ở các quốc gia đang phát triển Chính vì vậy, chính sách quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết hoạt động giao thương này Các biện pháp quản lý nhập khẩu cần được thực hiện để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong quá trình tái chế và sử dụng phế liệu.

“Hàng rào xanh” được thiết lập nhằm sàng lọc phế liệu nhựa đạt quy chuẩn, ngăn chặn rác thải và tạp chất có hại Cơ chế quản lý nhập khẩu này được thực hiện phối hợp giữa cơ quan hải quan, Bộ/Sở Tài nguyên – Môi trường và các tổ chức giám định, nhằm kiểm soát chặt chẽ phế liệu nhựa, được xem là tác nhân gây suy thoái môi trường Phế liệu nhựa nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện của Bộ Tài nguyên – Môi trường, bao gồm quy chuẩn kỹ thuật môi trường và danh mục cho phép nhập khẩu Cơ quan hải quan sẽ kiểm tra tính hợp pháp và giám sát hàng hóa, trong khi các tổ chức giám định đánh giá sự phù hợp của phế liệu Nhờ vào các lớp “rào chắn” này, phế liệu nhựa đạt yêu cầu không chỉ giảm thiểu tác hại mà còn cung cấp nguyên liệu chất lượng cho ngành sản xuất và tái chế.

Hoạt động nhập khẩu phế liệu nhựa tại Việt Nam được quản lý bởi Bộ Công thương như một hàng hoá thương mại thông qua các chính sách nhập khẩu Việc nhập khẩu phế liệu phải phù hợp với nhu cầu nguyên liệu thực tế cho sản xuất Bộ Công thương có thể tạm ngừng hoạt động nhập khẩu phế liệu nếu cần thiết, đồng thời công bố danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu Cơ chế quản lý này đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết hoạt động nhập khẩu phế liệu, hạn chế tình trạng nhập khẩu ồ ạt và dư thừa phế liệu nhựa, qua đó góp phần bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng.

Các biện pháp chế tài hỗ trợ quản lý nâng cao trách nhiệm của nhà xuất khẩu và doanh nghiệp nội địa, ngăn chặn tình trạng buôn lậu rác nhựa vào Việt Nam Buôn lậu phế liệu nhựa mang lại lợi nhuận lớn cho tổ chức tội phạm, và nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng kẽ hở pháp luật để vận chuyển phế liệu cấm Chính phủ không chỉ kiểm soát phế liệu nhựa nhập khẩu mà còn xây dựng hình phạt nghiêm khắc cho các vi phạm, tạo ra hiệu quả răn đe cao Nhờ đó, doanh nghiệp trở nên thận trọng hơn và tuân thủ tốt hơn quy định về quản lý nhập khẩu phế liệu, giảm tỷ lệ buôn bán lậu.

Công cụ quản lý nhập khẩu có thể được các quốc gia sử dụng như rào cản thương mại để bảo vệ sản xuất nội địa Các chính sách thuế quan, cấm hoặc hạn chế nhập khẩu có thể làm khó khăn cho việc giao thương phế liệu nhựa, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của các nước đối tác Đối với những quốc gia có ngành sản xuất non trẻ, việc áp dụng "hàng rào" quản lý với lý do bảo vệ môi trường và sức khỏe con người có thể là một biện pháp, nhưng thực chất lại nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa, từ đó tạo lợi thế cho sản phẩm trong nước trên thị trường.

Theo Điểm c, g, Khoản 3 Chỉ thị 27/CT – TTg ngày 17/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ, cần thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất Việc này không chỉ đảm bảo an toàn môi trường mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất trong ngành công nghiệp.

13 Alessio D’Amato (SEEDS), Susanna Paleari (IRcRES-CNR), Maija Pohjakallio (VTT), Ive Vanderreydt (VITO), Roberto Zoboli (SEEDS) (2019), tlđd (7), p.15.

Thách thức đối với ngành nhựa và hoạt động quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa tại Việt Nam

1.3.1 Thách thức đối với ngành nhựa tại Việt Nam

Nhựa, với những đặc tính ưu việt và khả năng ứng dụng đa dạng, đã trở thành vật liệu thiết yếu trong cuộc sống hiện đại Mặc dù ngành công nghiệp nhựa tại Việt Nam còn non trẻ so với các ngành truyền thống như cơ khí, hóa chất và dệt may, nhưng lại có sự phát triển vượt bậc Năm 2018, ngành nhựa đạt doanh thu 15,6 tỷ USD, đứng thứ hai cả nước về mức độ tăng trưởng.

Ngành nhựa Việt Nam bao gồm hai phân khúc chính: thượng nguồn và hạ nguồn Thượng nguồn gồm các doanh nghiệp lọc hóa dầu và hóa chất, cung cấp hạt nhựa nguyên liệu từ nguyên liệu hóa thạch và tái sinh từ phế liệu Hạ nguồn là nơi các nhà sản xuất biến đổi hạt nhựa thành sản phẩm như nhựa bao bì, nhựa xây dựng, nhựa dân dụng và nhựa kỹ thuật.

Mặc dù ngành nhựa Việt Nam có tiềm năng lớn, nhưng thượng nguồn vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của hạ nguồn về số lượng và đa dạng sản phẩm Theo Tổng cục Hải quan, tính đến năm 2018, cả nước có 153 doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất Việt Nam hàng năm sử dụng khoảng 30 loại nguyên liệu nhựa khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu Trong số đó, PE là nguyên liệu phổ biến nhất, chủ yếu dùng cho sản phẩm bao bì mà Việt Nam chưa thể sản xuất Điều này dẫn đến mâu thuẫn khi Việt Nam đứng thứ 4 trong 20 quốc gia có lượng rác thải nhựa nhiều nhất thế giới.

Năm 2017, sản lượng đạt từ 0,28 đến 0,73 triệu tấn, tuy nhiên ngành công nghiệp này vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào Điều này dẫn đến việc phụ thuộc chủ yếu vào thị trường nhập khẩu, đặc biệt là nguyên liệu nhựa tái sinh từ phế liệu.

Mâu thuẫn giữa sự thừa rác thải nhựa và sự thiếu hụt nguyên liệu nhựa xuất phát từ ba nguyên nhân sau:

14 Hiệp hội Nhựa Việt Nam, “Tổng quan ngành nhựa Việt Nam”, http://vpas.vn/gioi-thieu/tong- quan-nganh.htm, truy cập 28/4/2021

Bài viết "Bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài" trên trang tnmtvinhphuc.gov.vn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý và kiểm soát quy trình nhập khẩu phế liệu nhằm bảo vệ môi trường Các biện pháp cần thiết được đề xuất để giảm thiểu tác động tiêu cực từ phế liệu, đồng thời khuyến khích việc tái chế và sử dụng tài nguyên hiệu quả Việc tuân thủ quy định pháp luật và nâng cao nhận thức cộng đồng cũng là yếu tố then chốt trong việc bảo vệ môi trường trong lĩnh vực này.

16 Tạ Việt Phương (2019), tlđd (6), tr.28.

Việt Nam hiện đang đứng thứ 4 trong số 20 quốc gia có lượng rác thải nhựa cao nhất, theo báo cáo của Lê Tâm Thông tin này được công bố trên trang Baovephapluat.vn, cho thấy mức độ ô nhiễm môi trường do rác thải nhựa đang trở thành vấn đề nghiêm trọng tại đất nước Việc xử lý và giảm thiểu rác thải nhựa là một thách thức lớn mà Việt Nam cần đối mặt để bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Ngành nhựa đang đối mặt với thách thức lớn từ thượng nguồn do thiếu hụt vốn, cơ sở vật chất và hạ tầng để sản xuất hạt nguyên liệu nguyên sinh Vốn không chỉ quyết định hoạt động của các cơ sở sản xuất mà còn ảnh hưởng đến khả năng mở rộng quy mô Các dự án hóa dầu cần nguồn vốn khổng lồ, bao gồm cả vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho quá trình vận hành Hiện tại, các nhà máy hóa dầu chủ yếu tập trung ở phía Nam, với chỉ một vài nhà máy ở miền Trung và miền Bắc Mặc dù chính phủ đang nỗ lực thu hút đầu tư cho các nhà máy sản xuất nguyên liệu, nhưng việc xây dựng và chuyển giao công nghệ hiện đại cần thời gian để hoàn thiện và thích ứng Do đó, việc đáp ứng nhanh chóng nhu cầu phát triển của hạ nguồn ngành nhựa trở nên rất khó khăn.

Việc sử dụng nguyên liệu nhựa tái sinh từ phế liệu tại Việt Nam vẫn còn hạn chế do thiếu đầu tư cho quy trình xử lý và tái chế sau thu gom Hiện nay, phần lớn rác thải nhựa được xử lý bằng phương pháp thiêu huỷ hoặc chôn lấp, gây tác động xấu đến môi trường, trong khi chỉ khoảng 1% được tái chế bằng công nghệ hoá học hiện đại Quá trình thu gom và phân loại nhựa phế liệu còn thô sơ, chủ yếu diễn ra tại các cơ sở nhỏ lẻ, thiếu đầu tư cho công nghệ xử lý và phân loại Điều này dẫn đến việc lãng phí nguồn tài nguyên quý giá từ hydrocacbon có trong nhựa phế thải, vốn có thể được sử dụng để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy hoá chất và lọc dầu.

Doanh nghiệp nhập khẩu thường ưu tiên phế liệu từ nước ngoài hơn phế liệu nội địa, cho thấy năng lực tái chế trong nước chưa được khai thác hiệu quả Tại Việt Nam, rác thải nhựa chủ yếu được tái chế cơ học từ các nguồn thu gom nhỏ lẻ, dẫn đến chất lượng và số lượng phế liệu nhựa không đạt yêu cầu của doanh nghiệp Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích kinh tế của các cơ sở sản xuất, khiến phế liệu nhựa Việt Nam mất nhiều lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu toàn cầu.

18 Thomas Degnan, Subhash L Shine (2019), “Waste-plastic processing provides global challenges and opportunities”, MRS Bulletin, 44(6), pp.436 - 437.

Bài viết "Siết chặt nhập nguồn phế thải nhựa vô tội vạ" của Xuân Long, Trần Vũ Nghi và Lê Thanh nhấn mạnh sự cần thiết phải kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế thải nhựa để bảo vệ môi trường Tác giả chỉ ra rằng việc nhập khẩu phế thải nhựa không được kiểm soát đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng Để giải quyết vấn đề này, cần có các biện pháp quản lý và quy định nghiêm ngặt hơn nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm do rác thải nhựa.

Bài viết của Xuân Long, Trần Vũ Nghi và Lê Thanh nhấn mạnh sự cần thiết phải siết chặt việc nhập khẩu phế thải nhựa để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường Việc kiểm soát nguồn phế thải nhựa không chỉ bảo vệ sức khỏe cộng đồng mà còn góp phần vào việc phát triển bền vững Các tác giả kêu gọi chính phủ và các cơ quan chức năng cần có biện pháp mạnh mẽ hơn trong việc quản lý và xử lý chất thải nhựa nhập khẩu.

Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), ngành nhựa Việt Nam cần khoảng 10 triệu tấn nhựa cho sản xuất và xuất khẩu vào năm 2023, trong khi sản lượng hạt nhựa trong nước chỉ đáp ứng 7,4 triệu tấn (26%) Để khắc phục tình trạng thiếu hụt nguyên liệu, Việt Nam đã áp dụng giải pháp nhập khẩu phế liệu nhựa Hiện tại, Hàn Quốc và Trung Quốc là hai nguồn cung cấp nguyên liệu nhựa lớn nhất, chiếm lần lượt 18,8% và 16,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, trong khi Singapore, Malaysia và Nhật Bản đóng góp 12%.

Việc nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài giúp giải quyết nhu cầu sản xuất, nhưng với mức thuế nhập khẩu thấp và cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, Việt Nam đang đối mặt với thách thức trong việc cân bằng phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường Sự tràn ngập phế liệu bẩn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng và môi trường tự nhiên.

1.3.2 Thách thức đối với hoạt động quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa tại Việt Nam

Kiểm soát phế liệu nhựa nhập khẩu từ thị trường quốc tế là vấn đề gây tranh cãi do sự phức tạp về chủng loại và khả năng phân biệt với chất thải thông thường Ngành nhựa Việt Nam phụ thuộc vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu, nhưng điều này có thể dẫn đến việc lách luật và buôn bán rác thải trái phép Việt Nam cần xây dựng cơ chế quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa nhằm giảm thiểu rủi ro về môi trường và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững Để phế liệu nhựa được thông quan vào lãnh thổ, cần tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật và yêu cầu thủ tục hải quan, đồng thời chỉ được sử dụng cho hoạt động sản xuất.

Các biện pháp quản lý nhập khẩu của Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ vi phạm các cam kết quốc tế Điều này cho thấy sự cần thiết phải nhấn mạnh mục tiêu quan trọng nhất trong việc bảo đảm tuân thủ các quy định quốc tế.

21 “Hướng đi cho ngành nhựa tái chế”, https://nhandan.com.vn/baothoinay-kinhte/huong-di-cho- nganh-nhua- tai-che-333584, truy cập 27/2/2021.

22 “Thị trường nhập khẩu nguyên liệu nhựa 2 tháng đầu năm 2021”,https://vinanet.vn/thuong-mai-cha/thi- truong -nhap-khau-nguyen-lieu-nhua-2-thang-dau-nam-2021-740522.html truy cập 2/3/2021.

Nội dung và vai trò của các nguyên tắc liên quan đến bảo vệ môi trường

Phế liệu nhựa đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp tái chế, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế tuần hoàn Tuy nhiên, việc nhập khẩu phế liệu nhựa từ nước ngoài, cùng với rào cản thương mại lỏng lẻo, đang tạo ra nguy cơ xâm nhập của các loại rác thải độc hại vào Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của cộng đồng.

Trước bối cảnh hiện nay, việc phân tích các nguyên tắc và hệ thống tư tưởng pháp luật trong bảo vệ môi trường trở nên cần thiết Mục đích chính của việc này là nâng cao nhận thức và đảm bảo hiệu quả trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Hơn 1.000 container phế liệu đang bị buộc phải tái xuất do nguy cơ ô nhiễm môi trường Việc này nhằm đảm bảo an toàn cho môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời ngăn chặn tình trạng chất thải độc hại tích tụ Chính quyền địa phương đang tăng cường kiểm tra và giám sát các lô hàng phế liệu nhập khẩu để xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm.

Quản lý nhập khẩu phế liệu cần tập trung vào việc ngăn chặn nguồn phế liệu ô nhiễm để bảo vệ sức khỏe con người, bên cạnh việc khai thác lợi ích thương mại Các nguyên tắc bảo vệ môi trường nên được coi là những "nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo", là cơ sở cho các nhà làm luật Việt Nam trong việc xây dựng quy định về quản lý nhập khẩu phế liệu nhựa.

Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của con người

Môi trường tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người Chỉ khi sống trong môi trường sạch, con người mới có thể đảm bảo chất lượng cuộc sống, sức khỏe và sự phát triển bền vững Sự liên kết chặt chẽ giữa môi trường và con người đã dẫn đến việc pháp luật Việt Nam công nhận quyền sống trong môi trường lành mạnh như một quyền tự nhiên và cơ bản của mỗi người.

Theo Điều 43 Hiến pháp 2013, mọi người đều có quyền sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường Nguyên tắc này không chỉ khẳng định quyền sống mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với việc gìn giữ môi trường, liên quan chặt chẽ đến quyền sống được quy định tại Điều 19 của Hiến pháp.

Theo Hiến pháp 2013, công dân có quyền tiếp cận thông tin về môi trường (Điều 25), quyền về sức khỏe (Điều 20, 38), quyền an sinh xã hội (Điều 34) và quyền sử dụng các biện pháp khắc phục, bồi thường khi quyền lợi của họ bị vi phạm Những quyền này không chỉ bao gồm các quyền nội dung mà còn cả các quyền thủ tục để thực thi các quyền đó.

Trong hoạt động nhập khẩu phế liệu nhựa, cần đảm bảo quyền sống trong môi trường trong lành thông qua việc cân bằng lợi ích thương mại và chất lượng môi trường Các quy định của luật môi trường có thể hạn chế tự do kinh doanh nhằm bảo vệ môi trường khỏi ô nhiễm do rác thải Nhà nước cần ban hành các biện pháp kiểm soát điều kiện nhập khẩu phế liệu, xác định quyền và trách nhiệm của các chủ thể nhập khẩu, cũng như quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến tạp chất.

Theo Nguyễn Văn Phương (2007), trong bối cảnh Việt Nam, kho bãi được xem là cơ sở vật chất tiếp nhận phế liệu, và rào cản thương mại có thể được coi là công cụ để đạt được mục tiêu môi trường bền vững Việt Nam có thể viện dẫn quyền con người được sống trong môi trường trong lành để biện minh cho các biện pháp bảo vệ môi trường ảnh hưởng đến thương mại, điều này phù hợp với tinh thần luật quốc tế Quyền sống trong môi trường trong lành được coi là quyền con người cơ bản, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường con người năm 1972 khẳng định rằng quyền này là nguyên tắc trọng tâm trong quan hệ giữa các quốc gia, nhấn mạnh rằng con người có quyền sống trong môi trường chất lượng, đồng thời có trách nhiệm bảo vệ và cải thiện môi trường cho các thế hệ tương lai.

Tuyên bố Rio 1992 nhấn mạnh rằng con người là trung tâm của các vấn đề phát triển bền vững Nó khẳng định quyền lợi của con người trong việc tận hưởng một cuộc sống có ý nghĩa, khỏe mạnh và hòa hợp với thiên nhiên.

Trong nguyên tắc bảo vệ môi trường sống, trách nhiệm không chỉ thuộc về cá nhân mà còn bao gồm các quốc gia, cộng đồng và toàn thể nhân loại Sự phân chia trách nhiệm này làm cho việc xác định nghĩa vụ và bảo đảm quyền trở nên phức tạp Khi chủ thể quyền cũng là chủ thể có trách nhiệm, việc phân định trách nhiệm có thể trở nên mờ nhạt, đặc biệt trong bối cảnh pháp luật quốc tế.

Theo Khoản 2 Điều 76 của Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các quy định tại Điều 55, Điều 56 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu, đã được sửa đổi bổ sung tại Khoản 28, Khoản 29 Điều 3 Nghị định 40/2019/NĐ-CP ngày 13/05/2019, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện và cụ thể hóa các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường và quản lý chất thải.

31 Alan Boyle (2006), “Human Rights and the Environment: A Reassessment”, Fordham

Environmental Law Review, Vol 18, pp 471 – 511.

32 Đặng Công Cường (2020), “Pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam”,

Theo Tạp chí Công thương, số 8, trang 30 – 37, nước đóng vai trò chủ thể đại diện quốc gia trong việc thực thi nghĩa vụ bảo đảm quyền môi trường Trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước được ghi nhận trong các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, bao gồm Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị và Công ước quốc tế về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966.

Việc khẳng định "con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài" và "con người được sống trong môi trường trong lành là một trong những nguyên tắc trọng tâm của các quan hệ giữa các quốc gia" nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường tự nhiên trong nhận thức của cộng đồng quốc tế Điều này khuyến khích các quốc gia tích hợp vấn đề "bảo đảm con người được sống trong môi trường trong lành" vào hệ thống pháp luật của mình, cả trong chính sách nội bộ và đối ngoại, nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của hành tinh xanh.

Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu nhờ vào các chính sách ưu đãi từ WTO và các hiệp định thương mại khu vực Tuy nhiên, việc giảm thiểu rào cản thương mại cũng đồng nghĩa với nguy cơ xâm nhập hàng hóa chứa chất thải nguy hại, đe dọa đến môi trường Do đó, việc cân bằng giữa thương mại và bảo vệ môi trường là thách thức lớn mà Việt Nam phải đối mặt Việt Nam cần ưu tiên phát triển bền vững trong các mục tiêu và kế hoạch dài hạn, đảm bảo nguyên tắc này được áp dụng xuyên suốt trong hệ thống pháp luật.

Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển (United Nations

Conference on Environment and Development, UNCED) tổ chức ở Rio de Janeiro

NGUYÊN TẮC TRONG LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU NHỰA

Ngày đăng: 21/04/2022, 21:24

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
25. Dương Thị Phương Anh (Chủ nhiệm đề tài), Trương Thúy Mai, Nguyễn Ngọc Tú, Nguyễn Thị Thu Hà, Vũ Thị Thanh Nga, Nguyễn Liên Hương, Hoàng Thị Hiền (2017), Nghiên cứu cơ sở lý luận - kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển, Cấp cơ sở, Vụ Khoa học và Công nghệ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu cơ sở lý luận - kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển
Tác giả: Dương Thị Phương Anh (Chủ nhiệm đề tài), Trương Thúy Mai, Nguyễn Ngọc Tú, Nguyễn Thị Thu Hà, Vũ Thị Thanh Nga, Nguyễn Liên Hương, Hoàng Thị Hiền
Năm: 2017
26. Vũ Hải Anh (2020), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 6, tr.25 – 30 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội đưachất thải vào lãnh thổ Việt Nam”, "Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: Vũ Hải Anh
Năm: 2020
27. Đặng Công Cường (2020), “Pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam”, Tạp chí Công thương, số 8, tr.30 – 37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam”, "Tạp chí Công thương
Tác giả: Đặng Công Cường
Năm: 2020
28. Nguyễn Quỳnh Dung (2017), Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại qua biên giới và tiêu huỷ chúng – Vấn đề thực hiện tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thảinguy hại qua biên giới và tiêu huỷ chúng – Vấn đề thực hiện tại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Quỳnh Dung
Năm: 2017
29. Lê Thị Anh Đào (2013), “Mối quan hệ giữa chủ quyền Quốc gia với thực hiện các nghĩa vụ, cam kết quốc tế về môi trường”, Nghiên cứu lập pháp, Số 13(245), tr.19 – 28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa chủ quyền Quốc gia với thực hiệncác nghĩa vụ, cam kết quốc tế về môi trường”, "Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Lê Thị Anh Đào
Năm: 2013
30. Nguyễn Ngọc Anh Đào (2012), “Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại”, Nghiên cứu lập pháp, Số 20, tr. 51 – 56 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại”, "Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Nguyễn Ngọc Anh Đào
Năm: 2012
31. Phạm Thị Gấm (2020), “Kinh nghiệm một số quốc gia trong việc bảo vệ môi trường biển do nguồn ô nhiễm từ đất liền”, Tạp chí Môi trường, Số 6, tr.32-36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh nghiệm một số quốc gia trong việc bảo vệ môi trường biển do nguồn ô nhiễm từ đất liền”, "Tạp chí Môi trường
Tác giả: Phạm Thị Gấm
Năm: 2020
32. Phan Thị Hương Giang (2020), “Công ước Basel về xử lý, kiểm soát vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và kiến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 10, tr.49 – 59 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công ước Basel về xử lý, kiểm soát vận chuyểnqua biên giới chất thải nguy hại và kiến nghị cho Việt Nam”, "Tạp chí Nhà nướcvà Pháp luật
Tác giả: Phan Thị Hương Giang
Năm: 2020
20. Hàn Quốc – Các biện pháp ảnh hưởng tới sản phẩm thịt bò tươi, sấy khô và đông lạnh nhập, WT/DS169, 13/04/1999 Khác
23. Vụ kiện Tây Ban Nha – Quy chế thuế đánh trên cả phê chưa rang, BISD 28S/102, 11/6/1981 Khác
24. Vụ kiện Úc – Trợ cấp đối với ammonium sulphate, BISD II/188, 3/4/1950.C. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w