1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật lao động về quan hệ lao động đối với công việc không tiêu chuẩn (luận văn thạc sỹ luật)

121 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Lao Động Về Quan Hệ Lao Động Đối Với Công Việc Không Tiêu Chuẩn
Trường học Trường Đại Học Luật Hà Nội
Chuyên ngành Luật
Thể loại luận văn thạc sỹ
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 121
Dung lượng 2,32 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG VIỆC KHÔNG TIÊU CHUẨN (14)
    • 1.1. Cơ sở lý luận về công việc không tiêu chuẩn (14)
      • 1.1.1. Khái niệm công việc không tiêu chuẩn (14)
      • 1.1.2. Đặc điểm của công việc không tiêu chuẩn (19)
      • 1.1.3. Nhu cầu của xã hội đối với các công việc không tiêu chuẩn (22)
      • 1.1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật đối với các công việc không tiêu chuẩn (30)
    • 1.2. Công việc không tiêu chuẩn theo pháp luật một số nước (32)
      • 1.2.1. Tổng quan quy định pháp luật các nước trong việc điều chỉnh quan hệ (32)
      • 1.2.2. Công việc không tiêu chuẩn tại Nhật Bản (35)
      • 1.2.3. Công việc không tiêu chuẩn ở Vương quốc Anh (38)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ CÔNG VIỆC KHÔNG TIÊU CHUẨN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ (41)
    • 2.1. Tình hình sử dụng lao động làm công việc không tiêu chuẩn (41)
    • 2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về công việc không tiêu chuẩn và kiến nghị hoàn thiện (44)
      • 2.2.1. Quy định về công việc không tiêu chuẩn trước Bộ Luật Lao động năm 2019 ..... 42 2.2.2. Quy định về công việc không tiêu chuẩn sau Bộ Luật Lao động năm 2019 . 43 2.2.3. Mối quan hệ giữa người làm việc không có quan hệ lao động và người làm công việc không tiêu chuẩn (44)
      • 2.3.4. Hạn chế về các quy định trong Bộ Luật Lao động điều chỉnh công việc không tiêu chuẩn và kiến nghị hoàn thiện (49)

Nội dung

KHÁI QUÁT VỀ CÔNG VIỆC KHÔNG TIÊU CHUẨN

Cơ sở lý luận về công việc không tiêu chuẩn

1.1.1 Khái niệm công việc không tiêu chuẩn

Sự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của người sử dụng lao động đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể về số lượng và chất lượng các công việc không tiêu chuẩn Tuy nhiên, khái niệm công việc không tiêu chuẩn vẫn chưa được ghi nhận trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào tại Việt Nam hiện nay.

Tiêu chuẩn là căn cứ, chuẩn mực để đánh giá, được định nghĩa qua nhiều từ điển Theo từ điển Tiếng Việt, tiêu chuẩn có thể là điều quy định để phân loại đánh giá, như tiêu chuẩn khen thưởng hay tiêu chuẩn đạo đức, hoặc mức hưởng theo chế độ như tiêu chuẩn ăn hàng ngày và nghỉ phép hàng năm Nó cũng được hiểu là căn cứ để đánh giá sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc gia Khái niệm "công việc không tiêu chuẩn" chỉ những công việc thiếu điều kiện hoặc quy chuẩn cụ thể so với các quy định chung.

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý toàn cầu, có nhiều định nghĩa đa dạng về công việc không tiêu chuẩn Một số định nghĩa được công nhận và sử dụng phổ biến bao gồm các khái niệm về tính chất và đặc điểm của loại hình công việc này.

Theo tác giả Gary Slater cho rằng: “Để xác định việc làm không tiêu chuẩn, cần xác định việc làm thường xuyên và không thường xuyên Trong bối cảnh ở

1Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, tr 1640.

2 Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr 1254.

3 Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr 1205.

Công việc thường xuyên được định nghĩa là công việc toàn thời gian theo hợp đồng với doanh nghiệp hoặc tổ chức, trong khi công việc không thường xuyên bao gồm những sự sai lệch so với tiêu chuẩn này Theo tác giả Gary Slater, các hình thức việc làm không thường xuyên bao gồm công việc tạm thời, công việc bán thời gian và công việc tự làm chủ Để phân loại một loại hình công việc là không tiêu chuẩn, cần so sánh với các tiêu chuẩn của công việc thường xuyên; nếu có sự khác biệt, nó sẽ được xem là công việc không tiêu chuẩn.

Theo quan điểm của đại diện Phòng ban Liên hiệp Công đoàn Nhật Bản (JTUC-RENGO), công việc không tiêu chuẩn được định nghĩa thông qua khái niệm "người lao động không tiêu chuẩn" Điều này nhấn mạnh rằng những người lao động này có những đặc điểm và điều kiện làm việc khác biệt so với lao động tiêu chuẩn.

Công việc "không tiêu chuẩn" đề cập đến những người lao động làm việc không thường xuyên và không liên tục, thường là làm việc bán thời gian hoặc theo hợp đồng đại lý Những lao động này không chỉ có thời gian làm việc khác biệt so với lao động tiêu chuẩn mà còn thiếu các quyền lợi như phúc lợi về nhà ở, tiền lương, thưởng, bảo hiểm và đào tạo nghề Họ chỉ nhận được khoảng 40% mức lương so với những người làm công việc tiêu chuẩn và không được hưởng các chế độ trợ cấp hay bảo hiểm thất nghiệp Theo nghiên cứu của Úc, công việc tiêu chuẩn được xác định là công việc toàn thời gian, ổn định và có khả năng đảm bảo mức sống tối thiểu, trong khi công việc không tiêu chuẩn thiếu một hoặc nhiều điều kiện này.

6Gary Slater, “Non-Regular Employment in the United Kingdom”, Bradford University, tr 3.

7 Yoji Tatsui, “Situation of Non-Regular Workers in Japan-Toward a Recommendation on Non-Regular

Công việc không tiêu chuẩn, theo định nghĩa của Diane Lim, bao gồm công việc tạm thời, bán thời gian và tự làm Đạo luật chăm sóc năm 2010 của Hoa Kỳ xác định nhân viên toàn thời gian là những người làm việc ít nhất 30 giờ mỗi tuần hoặc 130 giờ mỗi tháng, trong khi những người làm ít hơn được coi là lao động không tiêu chuẩn Khái niệm này cũng được đề cập trong Đạo luật cải tiến về quản lý việc làm cho nhân viên bán thời gian của Nhật Bản, nơi công việc không tiêu chuẩn được hiểu là thiếu một trong các đặc điểm cơ bản so với công việc thông thường Nhân viên làm công việc không tiêu chuẩn thường có thời gian làm việc ngắn hơn, chế độ phúc lợi ít hơn và không cố định.

Tại cuộc họp do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tổ chức vào tháng 2 năm

Năm 2015, nhiều chuyên gia lao động từ các quốc gia khác nhau đã thảo luận về khái niệm “công việc không tiêu chuẩn”, bao gồm việc làm tạm thời, bán thời gian và tự làm chủ Việc xác định và phân biệt các loại hình công việc này đã trở nên dễ dàng hơn, giúp các quốc gia thiết lập tiêu chí cụ thể cho quản lý công việc không tiêu chuẩn.

8 Nii Lante Wallace-Bruce (1997), “Non-Standard and Precarious Employment: A New Dawn”, PhD University of Sydney, tr 44.

Diane Lim's 2015 article examines the advantages and disadvantages of part-time work for the economy It highlights how part-time employment can offer flexibility and a better work-life balance for individuals, while also providing businesses with a cost-effective labor option However, the article also addresses potential downsides, such as reduced benefits for workers and the impact on full-time job availability Overall, Lim encourages a nuanced understanding of part-time work's role in the economic landscape.

10 “Non-standard employment around the world: Understanding challenges”, Website International Labour

Organization (ILO), https://www.ilo.org/global/publications/books/WCMS_534326/lang en/index.htm, tr.

11 Điều 2 Đạo luật về cải tiến về quản lý việc làm cho nhân viên bán thời gian Nhật Bản.

12 International Labour Organization (ILO), tlđd (10), tr 5.

Tại Việt Nam, nghiên cứu về công việc không tiêu chuẩn trong lĩnh vực khoa học pháp lý còn hạn chế Bộ luật Lao động năm 2012 và Bộ luật Lao động năm 2019 đã đề cập đến khái niệm liên quan đến công việc không tiêu chuẩn, tuy nhiên, vẫn cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để làm rõ nội dung và ý nghĩa của khái niệm này.

Theo Điều 34 BLLĐ năm 2012, “NLĐ làm việc không trọn thời gian” được định nghĩa là người lao động có thời gian làm việc ngắn hơn so với thời gian làm việc bình thường theo quy định pháp luật hoặc thỏa ước lao động Cơ sở pháp lý để xác định làm việc không trọn thời gian bao gồm quy định trong Bộ luật Lao động, thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, và quy định nội bộ của người sử dụng lao động Ví dụ, nếu thời gian làm việc bình thường là 8 giờ/ngày mà NLĐ chỉ làm 5 giờ/ngày, thì được coi là làm việc không trọn thời gian BLLĐ năm 2019 đã thay đổi khái niệm này thành “làm việc không trọn thời gian” và bỏ đi một số cơ sở xác định từ BLLĐ năm 2012, chỉ giữ lại quy định về thời gian làm việc bình thường trong ngày, tuần hoặc tháng cho từng loại công việc.

Theo Khoản 1 Điều 34 BLLĐ năm 2012 và Khoản 1 Điều 32 BLLĐ năm 2019, công việc không trọn thời gian được xác định dựa trên thời gian làm việc trong một ngày và một tuần cho từng loại công việc BLLĐ năm 2019 đã bổ sung tiêu chí về “thời gian làm việc” ngắn hơn so với thời gian làm việc bình thường, tạo ra sự rõ ràng hơn về định nghĩa công việc không trọn thời gian.

Cả BLLĐ năm 2012 và BLLĐ năm 2019 đều quy định rằng "thời gian làm việc ngắn hơn so với thời gian làm việc bình thường theo ngày hoặc theo tuần", giúp giải quyết sự không nhất quán trong khái niệm làm việc bán thời gian Mặc dù đã có cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng lao động bán thời gian, nhưng vẫn thiếu quy định về mức lương và điều kiện lao động cho loại hình này Theo nguyên tắc chung, NLĐ làm việc bán thời gian được hưởng lương và các quyền lợi tương tự như NLĐ làm việc toàn thời gian, bao gồm quyền bình đẳng và đảm bảo an toàn lao động.

Ngoài ra, một vài báo cáo lao động qua các năm có đề cập đến khái niệm có

Công việc không tiêu chuẩn bao gồm lao động trong khu vực phi chính thức và một số nhóm cụ thể như: lao động gia đình không lương, chủ cơ sở tự làm, lao động không có hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng ngắn hạn nhưng không được đóng bảo hiểm xã hội, và xã viên hợp tác xã không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc Mặc dù báo cáo không định nghĩa rõ ràng công việc không tiêu chuẩn, nhưng việc phân loại này dựa trên các tiêu chí như sự hiện diện của hợp đồng lao động và quyền lợi bảo hiểm xã hội.

Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa đưa ra khái niệm chính thức về công việc không tiêu chuẩn Tuy nhiên, khái niệm này đã được nhiều tác giả và nhà nghiên cứu quốc tế thảo luận dựa trên các tiêu chí khác nhau Mỗi tác giả có cách nhận diện và diễn đạt riêng về công việc không tiêu chuẩn.

14 Khoản 3 Điều 34 BLLĐ năm 2012; Khoản 3 Điều 32 BLLĐ năm 2019.

Công việc không tiêu chuẩn theo pháp luật một số nước

1.2.1 Tổng quan quy định pháp luật các nước trong việc điều chỉnh quan hệ lao động không tiêu chuẩn

Công việc không tiêu chuẩn đã xuất hiện và phát triển từ sớm ở nhiều quốc gia, với Nhật Bản là một ví dụ tiêu biểu Tính đến năm 1993, 20,8% lao động Nhật Bản là không thường xuyên, con số này đã tăng lên khoảng 1/5 tổng lực lượng lao động hiện nay Chính phủ Nhật Bản đã ban hành các đạo luật như Đạo luật cải tiến quản lý việc làm cho nhân viên bán thời gian từ năm 1993, nhằm đảm bảo quyền lợi và phúc lợi cho NLĐ bán thời gian, đồng thời tăng cường sự bình đẳng với công nhân thường Các quy định của Luật lao động Nhật Bản cũng áp dụng cho NLĐ không thường xuyên, mặc dù với phạm vi bảo hiểm hạn chế hơn, nhưng vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn tối thiểu về lao động, an toàn và sức khỏe Nhật Bản còn có các đạo luật như Luật Tiêu chuẩn Lao động và Luật Bảo hiểm Việc làm để cải thiện điều kiện làm việc cho NLĐ không tiêu chuẩn Ngoài ra, tổ chức liên đoàn ngành UA Zensen được thành lập vào năm 2014, với 1,45 triệu thành viên, trong đó 51% là công nhân phi tiêu chuẩn, đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ bán thời gian.

27 Vai Io Lo, “Atypical employment: A comparison of japan and the United States”, tr 493.

28 Vai Io Lo, tlđd (27), tr 503.

29 Vai Io Lo, tlđd (27), tr 510.

30 International Labour Organization (ILO), tlđd (10), tr.284.

Tại Hoa Kỳ, các biện pháp pháp lý cho nhân viên thường xuyên theo luật liên bang cũng áp dụng cho nhân viên không tiêu chuẩn, bao gồm Đạo luật bảo vệ lao động bán thời gian và tạm thời, Đạo luật Tiêu chuẩn Lao động Công bằng (FLSA), và Tiêu đề VII của Đạo luật Dân quyền.

Quy định của OSHA bao gồm các yếu tố như lương tối thiểu, giờ làm việc tối đa, bình đẳng về cơ hội làm việc, đại diện công đoàn và an sinh xã hội Đặc biệt, Đạo luật Bảo vệ Người lao động Bán thời gian và Tạm thời quy định quyền lợi về sức khỏe và lương hưu cho nhân viên bán thời gian và tạm thời Ngoài ra, tám tiểu bang cùng với Đặc khu Columbia và Puerto Rico đã ban hành luật "trả lương theo thời gian báo cáo", yêu cầu người sử dụng lao động phải trả tiền cho nhân viên dựa trên số giờ làm việc tối thiểu khi họ báo cáo làm việc theo ca, ngay cả khi ca làm việc bị hủy Luật này cũng được áp dụng tại Hà Lan, yêu cầu người sử dụng lao động phải trả ít nhất cho những nhân viên có số giờ làm việc theo hợp đồng thấp hơn 15 giờ mỗi tuần với lịch làm việc không cố định.

3 giờ cho mỗi ca làm việc 34

Pháp luật ở một số quốc gia như Úc, Nam Phi, Đức và Hà Lan không có đạo luật riêng biệt cho công việc không tiêu chuẩn, nhưng vẫn điều chỉnh qua các quy định trong Bộ luật Lao động và các luật liên quan Cụ thể, Úc và Nam Phi quy định rõ ràng về công việc không tiêu chuẩn trong Bộ luật Lao động, trong khi Đức áp dụng Đạo luật tiền lương tối thiểu cho cả người lao động làm việc không tiêu chuẩn và thông thường Tại Hà Lan, luật thanh toán theo thời gian báo cáo được thiết lập nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động không tiêu chuẩn, bao gồm quy định về mức lương tối thiểu, hình thức và thời gian thanh toán, cũng như các khoản bảo hiểm xã hội, thưởng và trợ cấp khác.

Công việc không tiêu chuẩn được đề cập trong một số công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước bán thời gian năm 1994 (số 175) Công ước này quy định các quyền cơ bản như tự do hiệp hội, thương lượng tập thể, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, cùng với bảo vệ chống phân biệt đối xử trong việc làm Đặc biệt, công nhân bán thời gian cần được đảm bảo quyền lợi và sự bảo vệ tương tự như những công nhân làm việc toàn thời gian.

31 Vai Io Lo, tlđd (27), tr 512

32 Vai Io Lo, tlđd (27), tr 516.

33 International Labour Organization (ILO), tlđd (10), tr 259.

34 International Labour Organization (ILO), tlđd (10), tr 260.

35 International Labour Organization (ILO), tlđd (10), tr 231.

Người lao động làm việc toàn thời gian không được nhận mức lương thấp hơn chỉ vì họ làm việc bán thời gian Trong một số khu vực nhất định, người lao động bán thời gian cần phải được đảm bảo quyền lợi hợp lý và mức lương công bằng.

“điều kiện tương đương” trong mối tương quan với NLĐ toàn thời gian 36 Công ước

Cơ quan Việc làm Tư nhân, theo quy định năm 1997 (số 181), yêu cầu các biện pháp được thông qua nhằm bảo vệ quyền lợi của lao động Điều này đảm bảo rằng những người lao động được tuyển dụng bởi các cơ quan việc làm tư nhân không bị từ chối quyền tự do hiệp hội hay quyền thương lượng tập thể Ngoài ra, luật cũng cấm mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên loại hình công việc, chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, quốc gia, nguồn gốc xã hội, hoặc bất kỳ hình thức phân biệt nào khác theo quy định của pháp luật.

1.2.2 Công việc không tiêu chuẩn tại Nhật Bản

Nhật Bản, một quốc đảo nằm ở Đông Á trên biển Thái Bình Dương, gồm khoảng 6852 đảo và có khí hậu ôn đới với bốn mùa rõ rệt Nền kinh tế Nhật Bản phát triển theo mô hình thị trường tự do, với sự gia tăng nhanh chóng trong các ngành bán lẻ và dịch vụ, nhờ vào những tiến bộ công nghiệp Tốc độ đô thị hóa cao đã dẫn đến nhu cầu gia tăng về các dịch vụ hỗ trợ như giao thông, viễn thông và dịch vụ công cộng Ngoài ra, Nhật Bản cũng có một nguồn lao động nhập cư đáng kể, trong đó có nhiều người từ Việt Nam.

Công việc không tiêu chuẩn được hiểu qua khái niệm NLĐ không tiêu chuẩn, là những lao động được tuyển dụng trực tiếp mà không có thời gian làm việc cố định Hiện tại, pháp luật Nhật Bản chưa có định nghĩa chính thức về công việc không tiêu chuẩn, chỉ xuất hiện trong một số quy định liên quan Thuật ngữ “nhân viên Bán thời gian” trong Đạo luật về Cải tiến Quản lý Việc làm định nghĩa là nhân viên có giờ làm việc hàng tuần ngắn hơn so với nhân viên làm việc toàn thời gian.

36 International Labour Organization (ILO), tlđd (10), tr 384.

37 “Nhật Bản”, Trang thông tin điện tử Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA

%ADt_B%E1% BA%A3n, truy cập ngày 15/6/2021.

38 “Kinh tế Nhật Bản”, Trang thông tin điện tử Wikipedia https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA

%BF_ Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n, truy cập ngày 15/6/2021.

In Japan, non-regular employment has become increasingly prevalent, with many workers engaged in temporary or dispatched roles This trend reflects the changing dynamics of the labor market and the growing reliance on flexible employment arrangements Understanding the implications of non-standard work is crucial for addressing the challenges faced by these employees.

Ngoài ra, trong một bài nghiên cứu cho rằng lao động bao gồm người làm việc bán thời gian, việc tạm thời và

Về phân loại, công việc không tiêu chuẩn ở Nhật Bản phân loại một cách có hệ thống như sau 42 :

(i) Công việc bán thời gian: bao gồm cả thời gian cố định, bán thời gian, việc làm trực tiếp;

Lao động tạm thời là hình thức việc làm ngắn hạn, toàn thời gian và trực tiếp Nhân viên hợp đồng có tính chất tương đối dài hạn, với thời hạn cụ thể và cũng làm việc trực tiếp Cán bộ được ủy thác cũng là loại hình việc làm dài hạn, có thời hạn và trực tiếp Ngoài ra, còn tồn tại những loại hình khác Định nghĩa của từng loại lao động có thể thay đổi tùy theo đối tượng khảo sát Trong các cuộc điều tra thống kê của chính phủ về việc làm, có hai loại khảo sát chính: một loại nhắm đến cá nhân và hộ gia đình thường không có định nghĩa cụ thể, trong khi loại còn lại nhắm đến doanh nghiệp có thể dựa trên chức vụ để đánh giá.

Người làm việc không tiêu chuẩn thường thực hiện các công việc phụ trợ mà không yêu cầu kỹ năng cao, có xu hướng thay đổi công việc thường xuyên và ra vào thị trường lao động trong thời gian ngắn Các công ty thường không có chính sách phát triển nghề nghiệp cụ thể cho nhóm này Gần đây, do sự thay đổi trong cơ cấu cung ứng lao động và chiến lược quản lý, một số người đã được phân công vào các vị trí quản lý, nhưng nhìn chung vẫn còn hạn chế Mức lương trung bình của họ chỉ tương đương với mức lương khởi điểm của lao động có trình độ trung học, thuộc loại thấp nhất trong số nhân viên bình thường Ngoài ra, nhân viên thông thường thường nhận được nhiều phúc lợi và tiền thưởng hơn, điều mà nhân viên bán thời gian thường không có.

40 Điều 2, Đạo luật về Cải tiến về Quản lý Việc làm cho người lao động làm việc bán thời gian.

41 Vai Io Lo, tlđd (27), tr 493.

Người lao động thông thường nhận lương dựa trên thâm niên, phụ cấp và có sự tăng lương hàng năm, trong khi những người lao động không tiêu chuẩn chỉ nhận mức lương tối thiểu.

Theo Điều tra tình trạng việc làm năm 2007, trong số 53.270.000 nhân viên được khảo sát, 64,4% là lao động thường xuyên, trong khi 35,6% là lao động phi tiêu chuẩn Cụ thể, 16,6% là lao động bán thời gian, 7,7% là công nhân tạm thời, 4,2% là nhân viên hợp đồng, 3,0% là công nhân cử đi, 2,0% là uỷ thác nhân viên và 2% thuộc loại khác Các công việc không tiêu chuẩn chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp, trong đó ngành phục vụ chỗ ở và dịch vụ ăn uống chiếm 69,2%, bán lẻ 58,8%, dịch vụ 41,7% và y tế, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi xã hội chiếm 35,9%.

Nhu cầu về các việc làm không tiêu chuẩn ở Nhật Bản đang gia tăng do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là từ nhu cầu cao của người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) Việc tiết kiệm chi phí nhân công, đối phó với sự biến động khối lượng công việc, và sự gia tăng nguồn lao động nhập cư là những yếu tố chính Lực lượng lao động không thường xuyên mang lại nhiều lợi ích như phát triển sản phẩm mới, lịch trình làm việc linh hoạt, giảm thiểu nhiệm vụ hành chính và tổng chi phí lao động Theo khảo sát, 53,6% NSDLĐ thuê lao động không tiêu chuẩn để giảm chi phí, 33,5% để đáp ứng nhu cầu của NLĐ, và một phần để đối phó với biến động công việc Đối với nhân viên hợp đồng, 38,7% các cơ sở kinh doanh cho rằng lý do chính là giải quyết công việc chuyên môn, tiếp theo là đảm bảo nguồn nhân lực sẵn sàng và tay nghề cao (36,8%) và giảm chi phí lao động (36,3%) Các lý do khác bao gồm giải quyết sự thay đổi tạm thời trong khối lượng công việc (27,0%) và thay thế nhân viên nghỉ dưỡng (19,5%).

44 Vai Io Lo, Tlđd (27), tr 492, 493.

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ CÔNG VIỆC KHÔNG TIÊU CHUẨN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 21/04/2022, 21:23

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w