1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (luận văn thạc sỹ luật)

99 32 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 99
Dung lượng 578 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NGHĨA VỤ CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN (9)
    • 1.1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con (9)
    • 1.2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc nuôi dƣỡng con (15)
  • CHƯƠNG 2. QUYỀN CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN (23)
    • 2.1. Quyền yêu cầu cấp dƣỡng cho con (23)
    • 2.2. Quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con tôn trọng quyền được nuôi con của mình (34)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

NGHĨA VỤ CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con

Chăm sóc và giáo dục trẻ em là yếu tố then chốt trong việc hình thành nhân cách Mỗi đứa trẻ đều có quyền được cha mẹ chăm sóc và giáo dục Sau ly hôn, trẻ chỉ có thể sống với một trong hai phụ huynh hoặc người thân khác Tuy nhiên, việc thăm nom và chăm sóc trẻ từ phía phụ huynh không nuôi dưỡng thường gặp nhiều khó khăn và cản trở trong thực tế.

Sau khi ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con Theo khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom mà không bị cản trở.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng phát sinh những bất cập sau:

Thứ nhất, cách thức, thời gian, địa điểm thực hiện quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn

Khoản 3 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chứ không ghi nhận cụ thể về cách thức cũng như thời gian, địa điểm thực hiện quyền và nghĩa vụ này Trong thực tiễn xét xử, hầu hết các Tòa cũng tuyên theo hướng “người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở” Nhìn chung, liên quan đến vấn đề này, quy định pháp luật cũng như hướng giải quyết của Tòa chưa thực sự cụ thể.

Lộ trình thăm nom con thường được hai bên tự thỏa thuận, như thăm một lần mỗi tuần hoặc vào các dịp lễ tết Nếu có tranh chấp, các bên có thể nhờ Cơ quan thi hành án can thiệp Tuy nhiên, có trường hợp một hoặc cả hai bên không tuân thủ thỏa thuận đã đạt được về thời gian và địa điểm thăm con.

Bản án dân sự sơ thẩm số 413/2018/HNGĐ-ST, ngày 09 tháng 5 năm 2018, của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, liên quan đến tranh chấp giữa bà Hứa Đặng Thu T và ông Nguyễn Hồng C về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và hạn chế quyền thăm nom con.

Vụ án ly hôn giữa ông C1 và bà Hứa Đặng Thu T đã được TAND quận T, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết thông qua Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 1152/2016/QĐST-HNGĐ, ban hành ngày 02/12/2016 Cặp đôi này có một con chung là Nguyễn Minh C2, sinh ngày 03/05/2014, và ông C1 là người trực tiếp nuôi dưỡng con, trong khi bà T không có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Theo quy định pháp luật, khi trẻ C2 chưa đủ 36 tháng tuổi, quyền nuôi dưỡng thuộc về mẹ, nhưng nhờ sự vận động của Thẩm phán và cam kết của ông C1, bà T đã đồng ý giao con cho ông C1 nuôi dưỡng Hai bên đã thống nhất về việc bà T có quyền thăm nom và chăm sóc con Ban đầu, ông C1 hợp tác tốt, nhưng sau khi trẻ đủ 36 tháng tuổi, ông bắt đầu cản trở việc thăm nom của bà T, gây khó khăn khi bà muốn đưa con về nhà ngoại Ông C1 còn tạo áp lực tâm lý lên con, khiến trẻ sợ hãi khi gặp mẹ Tuy nhiên, khi ở nhà ngoại, trẻ C2 lại vui vẻ và thường bày tỏ mong muốn ở với mẹ Ông C1 đã tự ý đưa con đi khám bác sĩ tâm lý và giáo dục con với ý nghĩ không thích gần mẹ, tiếp tục cản trở bà T trong việc thăm nom con.

Thiếu các quy định rõ ràng về cách thức, thời gian và địa điểm thăm nom con có thể gây ra những hệ lụy tiêu cực, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của trẻ.

Pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam hiện hành công nhận quyền và nghĩa vụ thăm nom con của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn, nhưng chưa quy định rõ ràng về cách thức, thời gian và địa điểm thăm nom Điều này đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu của người dân, dẫn đến nhiều bản án và quyết định bị kháng cáo.

Theo bản án số 179/2016/HNGĐ-ST ngày 18.11.2016 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, anh K và chị H đã được ly hôn, giao cháu N cho chị H nuôi dưỡng, trong khi anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thăm nom con Ngày 24.11.2016, anh K đã kháng cáo, không đồng ý với phán quyết sơ thẩm và yêu cầu cấp phúc thẩm làm rõ quyền thăm nom và việc đưa đón con chung.

Cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 81 và khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để việc xác định người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như cách thức, thời gian và địa điểm thăm nom con được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng Nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ có trách nhiệm quyết định.

Quy định về quyền thăm viếng con cái đã được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia, như Hoa Kỳ, nơi quyền thăm viếng được thực hiện theo lịch trình chính thức do cha mẹ thỏa thuận và được Tòa án công nhận Lịch thăm viếng là một phần quan trọng trong kế hoạch nuôi dạy con, xác định nơi trẻ sống chủ yếu và thời gian thăm viếng, nhằm tránh xung đột giữa cha mẹ Tương tự, tại Pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự yêu cầu vợ chồng ly hôn phải lập bản dự án chi tiết về các biện pháp bảo đảm quyền lợi cho con, và Tòa án chỉ công nhận ly hôn khi có đủ điều kiện và đảm bảo cho việc chăm sóc con cái.

Nguyễn Thị Ngọc Mai (2021) trong luận văn thạc sỹ của mình tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã phân tích nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho trẻ em trong bối cảnh gia đình tan vỡ.

Trịnh Thị Hoà Thuỷ (2021) trong luận văn thạc sỹ của mình tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã phân tích về nghĩa vụ và quyền lợi của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong bối cảnh gia đình tan vỡ.

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018) đã xuất bản cuốn sách "Tình huống (Bình luận bản án) Luật Hôn nhân và gia đình" do Nxb Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam phát hành, trang 445.

Thứ hai, chế tài đảm bảo thực thi quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc nuôi dƣỡng con

Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong ly hôn đảm bảo rằng cả cha và mẹ đều có cơ hội ngang nhau trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con cái Vợ chồng cần thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn Chỉ khi không đạt được thỏa thuận, sự can thiệp của Tòa án mới trở nên cần thiết.

Quyền của cha mẹ đối với con cái là quyền tuyệt đối, với cả vợ và chồng có nghĩa vụ và quyền lợi bình đẳng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con Sau khi ly hôn, việc chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cần dựa vào điều kiện thực tế của mỗi bên Tòa án sẽ xem xét các yếu tố như tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác và điều kiện kinh tế của vợ chồng để quyết định ai có khả năng nuôi dưỡng tốt hơn Người nuôi dưỡng sẽ đồng thời là đại diện pháp luật cho con.

Luật hôn nhân và gia đình quy định rằng trẻ em dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao trực tiếp cho mẹ nuôi, trừ khi mẹ không đủ điều kiện chăm sóc hoặc có thỏa thuận khác với cha Quyền ưu tiên nuôi con thuộc về mẹ chỉ khi con chung dưới 3 tuổi; khi con từ 3 tuổi trở lên, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc nuôi dưỡng Trong trường hợp có tranh chấp, Tòa án sẽ xem xét điều kiện nuôi dưỡng của cả hai bên cha và mẹ để giải quyết.

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, người không có quyền trực tiếp nuôi con không chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng mà còn được quyền nuôi dưỡng con Đồng thời, người trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ không được cản trở việc nuôi dưỡng của người không trực tiếp nuôi con (khoản 2, Điều 83).

Với quy định trên của Luật, trong thực tiễn phát sinh các bất cập sau:

Thứ nhất, ghi nhận quyền nuôi dưỡng con đối với người không trực tiếp nuôi con.

Theo tác giả, quy định về quyền nuôi dưỡng con chưa rõ ràng, vì nuôi dưỡng con là quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con Người không trực tiếp nuôi con không nên được công nhận quyền nuôi dưỡng, mà chỉ cần quy định về cấp dưỡng, thăm nom, chăm sóc và giáo dục con Hơn nữa, quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con cũng cần được xác định rõ ràng Nếu quy định cho người không trực tiếp nuôi con quyền nuôi dưỡng, thực tế họ cũng không thể thực hiện được, và pháp luật hiện tại chưa có quy định nào công nhận quyền này cũng như nghĩa vụ của người nuôi con phải tôn trọng quyền của người không nuôi con.

Thứ hai, chưa có quy định về trường hợp người trực tiếp nuôi con từ chối nhận tiền cấp dưỡng nuôi con

Trong vụ án ly hôn, việc yêu cầu nuôi con và cấp dưỡng nuôi con thường phát sinh nhiều tranh chấp Nhiều trường hợp bên không trực tiếp nuôi con phản đối việc cấp dưỡng, trong khi bên còn lại chỉ muốn giành quyền nuôi con mà không yêu cầu cấp dưỡng Đôi khi, bên yêu cầu sẽ rút yêu cầu cấp dưỡng để được nuôi con, và nếu không đạt được thỏa thuận, họ sẽ nhờ Tòa án giải quyết Ngoài ra, Tòa án cũng có thể công nhận thỏa thuận giữa các bên về việc nuôi con mà không yêu cầu cấp dưỡng, dù điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ, vì nghĩa vụ cấp dưỡng rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện của trẻ về mặt thể chất và tinh thần.

Trong nhiều trường hợp, cha mẹ chỉ yêu cầu quyền nuôi con mà không yêu cầu cấp dưỡng, dù toà án đã giải thích rằng cấp dưỡng là quyền lợi hợp pháp của trẻ Họ thường cho rằng mình có đủ điều kiện tài chính, không cần bên kia cấp dưỡng Mặc dù phán quyết của Hội đồng xét xử thường tuân thủ pháp luật, nhưng có những vụ án mà bên nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng, Hội đồng xét xử lại chú trọng vào nguyện vọng của người nuôi con mà không phân tích kỹ khả năng nuôi dưỡng của họ Thực tế cho thấy, nhiều người từ chối cấp dưỡng vì lý do cá nhân, không quan tâm đến lợi ích của con, trong khi nhu cầu phát triển của trẻ sau ly hôn là rất lớn Mục đích của việc cấp dưỡng là đảm bảo nhu cầu sống và phát triển tối thiểu của trẻ sau khi cha mẹ ly hôn.

Trong vụ án ly hôn giữa chị Vi Thị L và anh Lưu Ngọc K, hai bên đã thống nhất về việc nuôi dưỡng con chung là cháu Lưu Ngọc K1 Theo thỏa thuận, anh Lưu Ngọc K sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến khi đủ tuổi trưởng thành, và chị L không phải cấp dưỡng nuôi con Hội đồng xét xử đã ghi nhận sự thỏa thuận này của các đương sự.

Trong vụ án trên, Tòa án đã vận dụng quy định trước đây ở Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp dụng Khoản 1, Điều 92 Luật HN&GĐ năm

Theo quy định tại Điều 2000, nếu người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng từ người không trực tiếp nuôi con, Tòa án cần giải thích rằng yêu cầu cấp dưỡng là quyền lợi của con Nếu Tòa án xác định rằng việc không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện và người nuôi con có đủ khả năng nuôi dưỡng, thì không buộc bên kia phải cấp dưỡng Trong trường hợp này, Tòa án nhận thấy anh K có khả năng đảm bảo cuộc sống ổn định cho con, và việc chị L không cấp dưỡng không ảnh hưởng đến cuộc sống của cả hai bên Do đó, Tòa án đã chấp nhận thỏa thuận giữa hai bên và không buộc chị L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Bản án số 11/2019/HNGĐ-ST ngày 23.5.2019 của TAND huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh bình Thuận về tranh chấp ly hôn, nuôi con.

Bà Giỏi đã nộp đơn yêu cầu ly hôn với ông Hải sau một năm chung sống, trong đó vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và bất đồng quan điểm sống Tình cảm giữa hai người ngày càng nhạt nhẽo, họ đã sống ly thân suốt 5 năm qua mà không ai quan tâm đến nhau hay muốn níu kéo hôn nhân Với tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, bà Giỏi quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung tên An, sinh năm 2013 Bà mong muốn sau khi ly hôn, bà sẽ là người nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con Hiện tại, bà có công việc và thu nhập ổn định đủ để nuôi con, trong khi ông Hải không có nghề nghiệp và chỉ lo chơi bời, toàn bộ tiền tiêu xài cá nhân đều do bố mẹ chồng bà chu cấp.

Trịnh Thị Hoà Thuỷ (2021) cho biết rằng bà không có khả năng nuôi dạy con tốt và không yêu cầu ông Hải cấp dưỡng Ngược lại, ông Hải yêu cầu Toà án giao con chung cho ông nuôi dưỡng, vì ông tin rằng điều kiện kinh tế của gia đình ông đủ khả năng để nuôi con tốt hơn Ông cũng không yêu cầu bà Giỏi cấp dưỡng cho việc nuôi con chung.

Tại bản án số 11 nêu trên, TAND huyện Hàm Thuận Nam nhận định và quyết định:

Nguyện vọng của bà Giỏi muốn được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục

Trong vụ án về quyền nuôi con chung chưa thành niên tên An, ông Hải không yêu cầu bà Giỏi cấp dưỡng nuôi con Ông Hải mong muốn được quyền nuôi dưỡng và chăm sóc An, tuy nhiên Hội đồng xét xử nhận thấy bà Giỏi có công việc và thu nhập ổn định, trong khi ông Hải có công việc không ổn định và phụ thuộc vào tài chính của bố mẹ Do đó, Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu của bà Giỏi, giao quyền nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục An cho bà, đồng thời ông Hải không có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Trong hai tình huống nêu trên, Toà án đã dựa vào nguyện vọng của người yêu cầu nuôi dưỡng trực tiếp con chung, dẫn đến việc không buộc bên kia phải cấp dưỡng Tuy nhiên, có những trường hợp mà Tòa án không công nhận thỏa thuận giữa cha và mẹ về việc một bên nuôi con trực tiếp, trong khi bên còn lại không phải cấp dưỡng, như trong vụ án sau.

Trong vụ ly hôn giữa bà Tạ Thị Thu Đ và ông Bùi Hoàng S, tòa phúc thẩm đã quyết định giao quyền nuôi con cho bà Đ và yêu cầu ông S cấp dưỡng, mặc dù bà Đ không yêu cầu điều này tại phiên tòa Để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, đặc biệt là những trẻ em thiệt thòi vì thiếu sự chăm sóc từ cha mẹ, cần có sự điều chỉnh trong thực thi pháp luật nhằm khắc phục những bất cập hiện tại.

Thứ ba, pháp luật chưa có quy định cụ thể đối với trường hợp cha, mẹ từ chối nghĩa vụ, quyền nuôi dưỡng con.

5Nguyễn Thị Ngọc Mai (2021), tlđd (1), tr.42.

Bản án số: 14/2019/HNGĐ-ST ngày: 28/5/2019 của Tòa án nhân nhân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp ly hôn, nuôi con

QUYỀN CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Quyền yêu cầu cấp dƣỡng cho con

Cấp dưỡng theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là nghĩa vụ của một người trong việc đóng góp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của những người không sống chung với mình, bao gồm người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng Điều này áp dụng cho trường hợp người nhận cấp dưỡng là người chưa thành niên, người trưởng thành không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống, hoặc những người đang gặp khó khăn, túng thiếu.

Khi vợ chồng ly hôn, bên không nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Do đó, người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con cái.

83 Luật HN&GĐ năm 2014) Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng cho con, tồn tại một số bất cập sau:

Thứ nhất, về căn cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con

Theo Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng được xác định dựa trên thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, bên không nuôi con có thể đồng ý hoặc không đồng ý với mức cấp dưỡng, và nếu cần thiết, yêu cầu Tòa án can thiệp Một số vụ án có thể dẫn đến quyết định công nhận hoặc tuyên giao con cho một bên, với nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận đã đạt được, nhằm bảo vệ quyền lợi của con trong việc đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần Mức cấp dưỡng có thể được điều chỉnh khi có lý do chính đáng, thông qua thỏa thuận giữa các bên hoặc yêu cầu Tòa án nếu không đạt được sự đồng thuận.

Trong trường hợp quyết định mức cấp dưỡng nuôi con, Tòa án cần xem xét hai yếu tố quan trọng: nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng Hiện tại, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về khái niệm "thu nhập, khả năng thực tế" và "nhu cầu thiết yếu" trong quá trình xác định mức cấp dưỡng.

Trước đây, theo khoản 1 Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm

Theo Nghị định 70/2001/NĐ-CP, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định là người có thu nhập thường xuyên hoặc, trong trường hợp không có thu nhập thường xuyên, nhưng vẫn còn tài sản sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết cho cuộc sống Điều này được quy định rõ trong khoản 2 Điều 16 của Nghị định.

Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương cư trú Điều này bao gồm các chi phí cần thiết cho ăn uống, chỗ ở, trang phục, học hành, khám chữa bệnh và các chi phí khác nhằm đảm bảo cuộc sống của họ.

Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định hiện hành gặp khó khăn trong việc Tòa án xác định thu nhập và khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, cũng như nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC đã hướng dẫn áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, trong đó nêu rõ rằng tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm các chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con, được xác định dựa trên thỏa thuận giữa các bên Nếu không đạt được thỏa thuận, mức cấp dưỡng sẽ được quyết định dựa trên từng trường hợp cụ thể và khả năng tài chính của mỗi bên.

Các Tòa án đã áp dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC trong việc giải quyết các vụ án, nhấn mạnh rằng “Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế và thu nhập của người phải đóng góp cũng như của người nuôi dưỡng con.” Theo đó, mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng và giáo dục con không được thấp hơn 1/2 mức lương tối thiểu do nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm cho mỗi người con.

Trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến mức cấp dưỡng, việc không thống nhất trong thỏa thuận giữa các đương sự và sự khác biệt về yêu cầu cấp dưỡng, thu nhập, cũng như chi phí nuôi dưỡng và học hành của trẻ em ở từng địa phương dẫn đến sự khác biệt trong cách xác định tiền cấp dưỡng tại các Tòa án Thẩm phán có thể có những quyết định khác nhau, với trường hợp cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu nhưng khi có kháng cáo, Tòa cấp trên có thể điều chỉnh lại mức cấp dưỡng.

Bản án số 55/2020/HNGĐ-PT ngày 12/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố

Hà Nội xét xử phúc thẩm về việc “xác nhận cha cho con và yêu cầu cấp dưỡng”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 37 - 2019 - HNGĐ-ST ngày 11 - 7 - 2019, Toà án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Chị H chia sẻ rằng vào năm 2013, chị đã có mối quan hệ tình cảm với anh T và mang thai cháu M Trong thời gian mang thai, chị đã thông báo cho anh T, và anh hứa sẽ có trách nhiệm với đứa trẻ sau khi sinh Sau khi sinh, chị đã tiến hành xét nghiệm ADN cho cháu.

M và kết quả cháu M và anh T có quan hệ huyết thống với anh T và yêu cầu anh T phải có trách nhiệm cấp dưỡng cho con chung.

Trong quá trình xử lý vụ án, anh T đã đồng ý công nhận cháu M là con đẻ của mình và cam kết cấp dưỡng nuôi con chung với chị H theo quy định pháp luật Hiện tại, thu nhập hàng tháng của anh T là 5.200.000 đồng.

Tại Bản án số 37 - 2019 - HNGĐ-ST ngày 11 - 07 - 2019, TAND quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội Quyết định:

Anh Trần Xuân T được yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000 đồng mỗi tháng Khoản cấp dưỡng này sẽ được thực hiện hàng tháng kể từ khi bản án có hiệu lực cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Chị H làm Đơn kháng cáo một phần Bản án 37/2019/ HNGĐ-ST ngày 11 -

Vào tháng 7 năm 2019, TAND quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội đã nhận được yêu cầu từ chị về việc không đồng ý với mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng Chị đề nghị Tòa án xem xét để điều chỉnh mức cấp dưỡng nuôi con chung sao cho phù hợp hơn.

Hội đồng xét xử thấy rằng:

Cháu M, sinh năm 2015, được chị H nuôi dưỡng từ khi mới sinh Anh T khai báo thu nhập 5.200.000 đồng nhưng không có tài liệu chứng minh Trách nhiệm nuôi dưỡng con cái là nghĩa vụ chung của cha mẹ, trong khi chị H vừa nuôi con nhỏ, vừa làm việc buôn bán không ổn định, lại đang phải thuê nhà Để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho cháu M, Hội đồng xét xử quyết định sửa án sơ thẩm, tăng mức cấp dưỡng nuôi con chung nhằm bảo vệ quyền lợi toàn diện cho cháu.

Quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con tôn trọng quyền được nuôi con của mình

Sau khi ly hôn, nhiều cha mẹ hiểu rõ nỗi đau của con và luôn nỗ lực tạo môi trường sống tốt nhất cho trẻ Tuy nhiên, một số cha mẹ lại lạm dụng quyền thăm nom để cản trở việc nuôi dưỡng con cái Để bảo vệ quyền lợi của trẻ, pháp luật đã quy định chế tài hạn chế quyền thăm nom Cụ thể, theo khoản 3 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014, nếu cha mẹ không trực tiếp nuôi con gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ, người nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của họ.

Bản án số 06/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp liên quan đến vụ tranh chấp quyền thăm nom con giữa các bên đương sự, đã đưa ra quyết định hạn chế quyền thăm nom nhằm bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của trẻ em trong bối cảnh xung đột gia đình.

Theo đơn khởi kiện ngày 03/5/2017 và các lời khai tại Toà án nguyên đơn anh Thanh T trình bày:

Theo Quyết định số 18/2017/QĐST-HNGĐ ngày 02/3/2017, anh T và chị T đã thỏa thuận về việc nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn, trong đó chị T được quyền nuôi dưỡng con Tuy nhiên, sau đó chị T yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và anh T đồng ý, dẫn đến Quyết định số 54/2017/QĐST-HNGĐ ngày 29/3/2017, công nhận anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng con Mặc dù vậy, mỗi lần chị T thăm con, chị lại gây rối và làm mất trật tự, ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình anh T Dù đã được chính quyền địa phương nhắc nhở, chị T vẫn không thay đổi Hiện tại, anh T yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của chị T, chỉ cho phép chị thăm con một lần mỗi năm vào ngày 30 tháng 01, từ 16 giờ đến 19 giờ, và anh T sẽ tự đưa con đến nhà chị T để thăm.

Chị Bạch Thị Mỹ T phản bác lại cáo buộc của anh T rằng chị gây rối mỗi khi đến thăm con Chị không đồng ý với yêu cầu của anh T về việc hạn chế quyền thăm nom con của mình Thay vào đó, chị đề xuất được thăm con mỗi tháng một lần vào ngày 28 dương lịch, với thời gian cụ thể là sáng 7 giờ chị sẽ đến đón con.

17 giờ chị đưa con đến trả cho anh T.

Hội đồng xét xử đã nhận định rằng trong thời gian anh T chăm sóc cháu H, chị T đã đến thăm nhà anh T tại địa chỉ 10A, khóm Sa Nhiên, Phường Tân Qui Đông, Thành phố.

Sa Đ c, tỉnh Đồng Tháp để thăm nom con Tuy nhiên, khi đến thăm nom con thì chị

Mâu thuẫn giữa chị T và anh T đã gây ra tình trạng mất trật tự tại địa phương, ảnh hưởng đến việc chăm sóc và giáo dục con của anh T Công an phường Tân Qui Đông đã lập biên bản nhiều lần về hành vi này Mặc dù chị T và anh T đã viết cam kết, nhưng không thực hiện, nên yêu cầu của anh T về việc Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị T là có cơ sở.

Cháu H còn nhỏ và cần sự chăm sóc, giáo dục từ chị T Để bảo vệ quyền lợi của cháu, Hội đồng xét xử đã quyết định cho chị T quyền thăm nom cháu H mỗi tháng một lần, cũng như vào các ngày lễ, tết Thời gian và địa điểm thăm nom sẽ được anh T và chị T thỏa thuận Chị T không được lợi dụng quyền thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến việc chăm sóc và nuôi dưỡng của anh T.

Với quy định trên của Luật cũng như thực tiễn áp dụng, nhận thấy:

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chỉ quy định về chế tài hạn chế quyền thăm nom con mà không đưa ra hình thức xử phạt hoặc yêu cầu chấm dứt quyền thăm nom này.

Theo Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mặc dù quy định rõ về điều kiện hạn chế quyền thăm nom con và chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án thực hiện điều này, nhưng lại không đề cập đến thời hạn hạn chế Thiếu sót này gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến quyền thăm nom con Do đó, cần bổ sung quy định về thời gian hạn chế, với khoảng thời gian cụ thể từ một đến năm năm, tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng của việc lạm dụng quyền thăm nom.

8Bản án số 06/2018/HNGĐ-PT ngày 08/2/2018 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Hiện tại, chưa có quy định cụ thể nào xác định hành vi nào được coi là cản trở hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến việc trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng con cái Thiếu hướng dẫn rõ ràng này dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của các Tòa án khi giải quyết các vụ việc liên quan.

Chẳng hạn tình huống: Bản án số: 29/2018/HNGĐ-ST Ngày 24/9/2018 “V/v tranh chấp nuôi con” giữa Nguyên đơn: Bà Loan và bị đơn: Ông Hảo.

Vào tháng 3 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã công nhận thuận tình ly hôn giữa hai bên và ban hành quyết định số 81/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2018 Theo quyết định này, ông Hảo được quyền trực tiếp nuôi con là Huỳnh Ngọc Hoàng, sinh ngày 11/12/2015, và bà Loan không có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Bà Loan, với tình yêu thương sâu sắc dành cho cháu Huỳnh Ngọc Hoàng, cảm thấy không thể chịu đựng được nữa khi việc thăm nuôi cháu gặp nhiều khó khăn do khoảng cách và điều kiện sống của mình Bà mong muốn thay đổi quyền nuôi con để có thể trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Tuy nhiên, ông Hảo không đồng ý giao con cho bà, khẳng định rằng ông đủ khả năng chăm sóc và giáo dục cháu, đồng thời cho biết Huỳnh Ngọc Hoàng đang học tại trường mầm non địa phương.

Hội đồng xét xử nhận định rằng ông Hảo, người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung, đã chứng minh khả năng tài chính vững mạnh để nuôi con Hiện tại, cháu Hoàng đang học tại nhóm trẻ Cà rốt ở xã Hàm Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận và phát triển bình thường mà không có dấu hiệu bị ngược đãi Ông Hảo sở hữu thửa đất 5680 m² và có số tiết kiệm 200.000.000 đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT, đủ điều kiện để tiếp tục nuôi con Do đó, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Loan.

Bà Loan kháng cáo xin được trực tiếp nuôi con chung.

Bản án số 32/2018/HNGĐ-PT ngày 25/12/2018 của TAND tỉnh Bình Thuận đã sửa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Bà Loan.

Cháu Hoàng, con gái chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự quan tâm của người mẹ để phát triển tốt về mặt tâm sinh lý Việc chị Loan ở xa không thể thăm nuôi con thường xuyên đã ảnh hưởng đến tình cảm của cả hai Dựa trên khoản 3 Điều 81 và khoản 1, 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, tòa cấp phúc thẩm đã quyết định giao cháu Hoàng cho bà Loan trực tiếp nuôi dưỡng.

Quan điểm của tác giả cho rằng việc cấp phúc thẩm sửa án cấp sơ thẩm là không có căn cứ, vì Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã áp dụng đúng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình khi giao cháu Hoàng cho ông Hảo nuôi dưỡng Bà Loan đã yêu cầu thay đổi người nuôi con, nhưng cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu này mà không chứng minh được ông Hảo không đủ điều kiện nuôi con Ông Hảo đã chứng minh điều kiện kinh tế ổn định và khả năng chăm sóc tốt cho con, trong khi bà Loan không thể chứng minh điều ngược lại Khi ông Hảo khởi kiện yêu cầu thay đổi người nuôi con, bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của ông, xác định rằng cả hai bên đều có điều kiện nuôi dưỡng con, nhưng để tránh xáo trộn cuộc sống của cháu Hoàng, yêu cầu của ông Hảo là hợp lý và được chấp nhận.

Ngày đăng: 21/04/2022, 21:21

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w