1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (luận văn thạc sỹ luật)

103 49 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghĩa Vụ, Quyền Của Cha, Mẹ Trực Tiếp Nuôi Con Đối Với Người Không Trực Tiếp Nuôi Con Sau Khi Ly Hôn
Tác giả Lê Văn Xô
Người hướng dẫn TS. Lê Vĩnh Châu
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự Và Tố Tụng Dân Sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 103
Dung lượng 2,16 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NGHĨA VỤ CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN (13)
    • 1.1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con (13)
    • 1.2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc nuôi dƣỡng con (19)
  • CHƯƠNG 2. QUYỀN CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN (27)
    • 2.1. Quyền yêu cầu cấp dƣỡng cho con (27)
    • 2.2. Quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con tôn trọng quyền được nuôi con của mình (38)
  • PHỤ LỤC (49)

Nội dung

Vì vậy, để đảm bảo cuộc sống bình thường của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì vấn đề cấp dưỡng, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục co

NGHĨA VỤ CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con

Chăm sóc và giáo dục là nền tảng quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người Mỗi trẻ em đều có quyền được hưởng sự chăm sóc và giáo dục từ cha mẹ Sau khi ly hôn, trẻ chỉ có thể sống với một trong hai phụ huynh hoặc người thân khác Tuy nhiên, việc thăm nom và chăm sóc trẻ sau ly hôn từ người không trực tiếp nuôi dưỡng thường gặp khó khăn và bị cản trở trong nhiều trường hợp.

Sau khi ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Cụ thể, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom mà không ai được cản trở, đảm bảo quyền lợi cho trẻ em trong việc duy trì mối quan hệ với cả hai phụ huynh.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng phát sinh những bất cập sau:

Thứ nhất, cách thức, thời gian, địa điểm thực hiện quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn

Khoản 3 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chứ không ghi nhận cụ thể về cách thức cũng như thời gian, địa điểm thực hiện quyền và nghĩa vụ này Trong thực tiễn xét xử, hầu hết các Tòa cũng tuyên theo hướng “người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở” Nhìn chung, liên quan đến vấn đề này, quy định pháp luật cũng như hướng giải quyết của Tòa chưa thực sự cụ thể

Lộ trình thăm nom con thường được hai bên tự thỏa thuận, như thăm một lần mỗi tuần hoặc vào các ngày lễ, tết Nếu có tranh chấp phát sinh, các bên có thể nhờ Cơ quan thi hành án can thiệp Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mặc dù đã có thỏa thuận về thời gian và địa điểm thăm con, một hoặc cả hai bên vẫn không thực hiện đúng cam kết.

Bản án dân sự sơ thẩm số 413/2018/HNGĐ-ST, ngày 09 tháng 5 năm 2018, của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, liên quan đến tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con và hạn chế quyền thăm nom con giữa nguyên đơn Bà Hứa Đặng Thu T và bị đơn Ông Nguyễn Hồng C1.

Ông C1 và bà Hứa Đặng Thu T đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 1152/2016/QĐST-HNGĐ, ngày 02/12/2016 của TAND quận T, Thành phố Hồ Chí Minh Họ có một con chung là Nguyễn Minh C2, sinh ngày 03/05/2014, và ông C1 là người trực tiếp nuôi con, trong khi bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Khi ly hôn, trẻ C2 chưa đủ 36 tháng tuổi, theo quy định pháp luật, con phải được giao cho mẹ nuôi dạy Tuy nhiên, nhờ sự vận động của Thẩm phán và cam kết từ ông C1, bà T đã đồng ý để ông C1 trực tiếp nuôi dưỡng con Hai bên đã thỏa thuận về việc bà T có quyền thăm nom và chăm sóc con Ban đầu, ông C1 hợp tác, nhưng sau khi trẻ C2 đủ 36 tháng tuổi, ông bắt đầu cản trở bà T trong việc thăm nom con, gây khó khăn khi bà đưa con về nhà ngoại Ông C1 còn gây sức ép với con, khiến trẻ cảm thấy sợ mẹ Khi về nhà ngoại, trẻ C2 vui vẻ và thường nói muốn ở với mẹ Ông C1 tự ý đưa con đi khám tâm lý và giáo dục con với ý nghĩ không thích gần mẹ, cố tình ngăn cản bà T thăm con.

Vụ án nêu trên cho thấy, sự thiếu sót trong các quy định hướng dẫn về cách thức, thời gian và địa điểm thăm nom con có thể gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của trẻ.

Pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam hiện hành ghi nhận quyền và nghĩa vụ thăm nom con của cha, mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn, nhưng lại thiếu quy định cụ thể về cách thức, thời gian và địa điểm thăm nom Điều này đã gây khó khăn cho Toà án trong việc giải quyết yêu cầu của người dân, dẫn đến nhiều bản án và quyết định bị kháng cáo.

Theo bản án số 179/2016/HNGĐ-ST ngày 18.11.2016 của TAND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, anh K và chị H đã được tòa quyết định ly hôn Về quyền nuôi con, cháu N được giao cho chị H nuôi dưỡng, trong khi anh K có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con và quyền thăm nom cháu, không ai được cản trở quyền thăm nom này.

K kháng cáo vì không đồng ý với phán quyết của bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm làm rõ quyền thăm nom và đưa đón con chung.

Cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 81 và khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nhằm xác định rõ ràng quyền nuôi con, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng khi ly hôn Việc thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, cũng như cách thức, thời gian và địa điểm thăm nom con nên được quyết định bởi vợ chồng Nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ can thiệp và đưa ra quyết định cuối cùng.

Quy định về quyền thăm viếng con đã được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia, điển hình là Hoa Kỳ, nơi quyền thăm viếng có thể được thiết lập qua một lịch trình chính thức do cha mẹ thỏa thuận và được Tòa án công nhận hoặc ấn định Lịch thăm viếng, một phần quan trọng trong kế hoạch nuôi dạy con, xác định quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con, bao gồm nơi trẻ sẽ sống chủ yếu và thời gian thăm viếng vào các dịp đặc biệt Tương tự, tại Pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự yêu cầu các cặp vợ chồng ly hôn lập bản dự án chi tiết về các biện pháp bảo vệ quyền lợi của con cái, và Tòa án chỉ công nhận ly hôn khi có đủ điều kiện và đảm bảo về việc trông nom cùng các khoản trợ cấp cho trẻ.

Nguyễn Thị Ngọc Mai (2021) trong luận văn thạc sỹ của mình đã phân tích nghĩa vụ và quyền lợi của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong bối cảnh gia đình tan vỡ Nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, trang 27.

Theo Trịnh Thị Hoà Thuỷ (2021) trong luận văn thạc sĩ của mình, nghĩa vụ và quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là một vấn đề quan trọng Tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng việc xác định rõ ràng các quyền lợi và trách nhiệm của cha mẹ trong bối cảnh ly hôn là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của trẻ em.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc nuôi dƣỡng con

Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc nuôi dưỡng con cái sau ly hôn đảm bảo rằng cả cha và mẹ đều có cơ hội như nhau để trực tiếp chăm sóc con Vợ chồng có thể thỏa thuận về người nuôi con cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn Nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ can thiệp để giải quyết vấn đề này.

Theo quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái là bình đẳng và tuyệt đối Sau khi ly hôn, việc chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất khả năng lao động cần căn cứ vào điều kiện thực tế của cả hai vợ chồng, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho con Tòa án sẽ xem xét các yếu tố như tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, điều kiện kinh tế và thời gian của mỗi bên để quyết định ai sẽ là người nuôi dưỡng con Người trực tiếp nuôi dưỡng sẽ đồng thời là đại diện pháp lý cho con.

Luật hôn nhân và gia đình quy định rằng trẻ em dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ nuôi, trừ khi mẹ không đủ điều kiện chăm sóc Quyền ưu tiên nuôi con thuộc về mẹ khi con dưới 3 tuổi Tuy nhiên, khi con từ 3 tuổi trở lên và có tranh chấp, quyền nuôi dưỡng của cha và mẹ là ngang nhau Tòa án sẽ xem xét điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc của cả hai bên để giải quyết tranh chấp.

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, người không có quyền trực tiếp nuôi con không chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng mà còn được quyền nuôi dưỡng con Đồng thời, người trực tiếp nuôi con có trách nhiệm không cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng con.

Với quy định trên của Luật, trong thực tiễn phát sinh các bất cập sau:

Thứ nhất, ghi nhận quyền nuôi dưỡng con đối với người không trực tiếp nuôi con

Theo tác giả, quy định về quyền nuôi dưỡng con hiện tại còn nhiều điểm không rõ ràng Người trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, trong khi người không trực tiếp nuôi con chỉ nên được ghi nhận quyền cấp dưỡng, thăm nom và chăm sóc Việc công nhận quyền nuôi dưỡng cho người không trực tiếp nuôi con là không cần thiết, vì họ không thể thực hiện quyền này và pháp luật hiện hành cũng chưa quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với người nuôi con.

Thứ hai, chưa có quy định về trường hợp người trực tiếp nuôi con từ chối nhận tiền cấp dưỡng nuôi con

Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con thường gặp nhiều tranh cãi Có trường hợp bên không trực tiếp nuôi con phản đối yêu cầu cấp dưỡng, trong khi bên còn lại chỉ muốn giành quyền nuôi con mà không yêu cầu cấp dưỡng Đôi khi, bên yêu cầu sẽ rút yêu cầu cấp dưỡng để được nuôi con, và nếu không đạt được thỏa thuận, họ sẽ nhờ Tòa án can thiệp Tòa án có thể công nhận thỏa thuận giữa các bên, cho phép một bên nuôi con mà không yêu cầu cấp dưỡng từ bên còn lại Tuy nhiên, mặc dù các thỏa thuận này không trái pháp luật, chúng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ, vì nghĩa vụ cấp dưỡng rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện của trẻ về thể chất và tinh thần.

Trong nhiều trường hợp, cha mẹ chỉ yêu cầu quyền nuôi con mà không yêu cầu cấp dưỡng, do có công việc ổn định và thu nhập cao Tuy nhiên, tòa án đã giải thích rằng yêu cầu cấp dưỡng là quyền lợi của trẻ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con Mặc dù các phán quyết của Hội đồng xét xử thường tuân thủ pháp luật, vẫn có những trường hợp mà tòa không phân tích kỹ lưỡng về khả năng nuôi dưỡng của người nhận nuôi con Nhiều khi, sự từ chối nhận cấp dưỡng không xuất phát từ lợi ích của trẻ mà chỉ là do tự ái cá nhân hoặc mong muốn chấm dứt mối quan hệ với đối phương Điều này dẫn đến việc không xem xét đầy đủ nhu cầu sống và phát triển của trẻ sau ly hôn, trong khi mục đích của cấp dưỡng là đảm bảo các nhu cầu tối thiểu cho con.

Trong vụ án ly hôn giữa chị Vi Thị L và anh Lưu Ngọc K, hai bên đã thống nhất giao quyền nuôi dưỡng con chung, cháu Lưu Ngọc K1, cho anh K sau khi ly hôn, cho đến khi cháu đủ tuổi trưởng thành Chị L không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Hội đồng xét xử đã ghi nhận sự thỏa thuận này của các đương sự.

Trong vụ án trên, Tòa án đã vận dụng quy định trước đây ở Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp dụng Khoản 1, Điều 92 Luật HN&GĐ năm

Trong trường hợp người nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng từ người không trực tiếp nuôi, Tòa án cần giải thích rằng yêu cầu cấp dưỡng là quyền lợi của con nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ Nếu Tòa án xác định việc không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện và người nuôi có khả năng đảm bảo cuộc sống ổn định cho con, thì không cần buộc bên kia phải cấp dưỡng Do đó, Tòa đã nhận định rằng anh K có khả năng tự đảm bảo quyền lợi vật chất cho con, và việc chị L không cấp dưỡng không ảnh hưởng đến cuộc sống của cả hai và con chung Cuối cùng, cả hai đã thỏa thuận với nhau, nên Tòa không buộc chị L phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng.

Bản án số 11/2019/HNGĐ-ST ngày 23.5.2019 của TAND huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh bình Thuận về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Bà Giỏi đã nộp đơn yêu cầu ly hôn với ông Hải sau khoảng 1 năm chung sống, do mâu thuẫn ngày càng gia tăng và bất đồng quan điểm sống Tình cảm vợ chồng trở nên nhạt nhẽo, họ đã sống ly thân trong 5 năm qua mà không ai quan tâm đến nhau hay muốn níu kéo hôn nhân Tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, không thể kéo dài, vì vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Hải.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung tên An, sinh năm 2013 Bà mong muốn sau khi ly hôn, bà sẽ là người nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục An Hiện tại, bà có công việc và thu nhập ổn định đủ để chăm sóc con Ngược lại, ông Hải không có nghề nghiệp ổn định, chỉ chơi bời và không lo làm ăn, mọi chi phí sinh hoạt của ông đều do bố mẹ chồng bà chu cấp.

Trịnh Thị Hoà Thuỷ (2021) cho rằng bà không đủ khả năng nuôi dạy con tốt và không yêu cầu ông Hải cấp dưỡng cho con chung Ngược lại, ông Hải đề nghị Toà án giao con chung cho ông nuôi dưỡng vì nhận thấy điều kiện kinh tế của gia đình ông ổn định hơn, đủ khả năng chăm sóc con cái Ông cũng không yêu cầu bà Giỏi cấp dưỡng cho việc nuôi con.

Tại bản án số 11 nêu trên, TAND huyện Hàm Thuận Nam nhận định và quyết định:

Nguyện vọng của bà Giỏi muốn được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục

Khi xét xử vụ án, Hội đồng xét xử đã xem xét nguyện vọng của cả hai bên Ông Hải và con chung chưa thành niên tên An đều không yêu cầu bà Giỏi cấp dưỡng nuôi con, trong khi ông Hải muốn được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con Tuy nhiên, xét thấy bà Giỏi có công việc ổn định và thu nhập vững vàng, trong khi ông Hải có công việc không ổn định và phụ thuộc vào bố mẹ, Hội đồng xét xử đã quyết định giao con chung cho bà Giỏi nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, đồng thời không yêu cầu ông Hải cấp dưỡng nuôi con.

Trong hai tình huống nêu trên, Tòa án dựa vào nguyện vọng của người yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung để không buộc bên còn lại phải cấp dưỡng Tuy nhiên, có trường hợp Tòa án không công nhận thỏa thuận giữa cha mẹ về việc một bên trực tiếp nuôi con và bên không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng, như trong vụ án sau đây.

Trong vụ ly hôn giữa bà Tạ Thị Thu Đ và ông Bùi Hoàng S, tòa phúc thẩm đã quyết định giao quyền nuôi con cho bà Đ và yêu cầu ông S cấp dưỡng, mặc dù bà Đ không đề nghị điều này tại phiên tòa Để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, đặc biệt là những trẻ em thiếu thốn sự chăm sóc của cha mẹ, cần có những điều chỉnh trong thực thi pháp luật nhằm khắc phục các bất cập hiện tại.

Thứ ba, pháp luật chưa có quy định cụ thể đối với trường hợp cha, mẹ từ chối nghĩa vụ, quyền nuôi dưỡng con

5 Nguyễn Thị Ngọc Mai (2021), tlđd (1), tr.42

Bản án số: 14/2019/HNGĐ-ST ngày: 28/5/2019 của Tòa án nhân nhân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp ly hôn, nuôi con

QUYỀN CỦA CHA, MẸ TRỰC TIẾP NUÔI CON ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Quyền yêu cầu cấp dƣỡng cho con

Cấp dưỡng theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, là nghĩa vụ của một người trong việc đóng góp tiền hoặc tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung, bao gồm các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng Điều này áp dụng cho người chưa thành niên, người đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản tự nuôi sống bản thân, hoặc những người đang gặp khó khăn, túng thiếu.

Khi vợ chồng ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Do đó, người có quyền nuôi con có thể yêu cầu bên còn lại thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng này.

83 Luật HN&GĐ năm 2014) Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng cho con, tồn tại một số bất cập sau:

Thứ nhất, về căn cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con

Theo Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, mức cấp dưỡng được xác định dựa trên thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, dựa vào thu nhập, khả năng thực tế và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng Trong quá trình giải quyết vụ án, bên không trực tiếp nuôi con có thể đồng ý, không đồng ý hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng thấp hơn, và nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ can thiệp Một số vụ án có thể dẫn đến quyết định công nhận hoặc tuyên giao con cho một bên, trong khi bên còn lại có nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận Điều này giúp bảo vệ quyền lợi của con, đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần Mức cấp dưỡng có thể thay đổi khi có lý do chính đáng, và việc thay đổi này cũng phải thông qua thỏa thuận giữa các bên hoặc yêu cầu Tòa án nếu không đạt được thỏa thuận.

Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định mức cấp dưỡng nuôi con, dựa trên hai yếu tố chính: nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng Hiện tại, chưa có hướng dẫn cụ thể về khái niệm "thu nhập, khả năng thực tế" cũng như "nhu cầu thiết yếu" trong quá trình xác định mức cấp dưỡng.

Theo Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001, quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định là người có thu nhập thường xuyên hoặc không có thu nhập thường xuyên nhưng vẫn còn tài sản, sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết cho cuộc sống.

Theo khoản 2 Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi họ cư trú Điều này bao gồm các chi phí cần thiết cho ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí khác để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng.

Tuy nhiên, những quy định hiện hành khiến Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định thu nhập và khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, đồng thời cũng khó khăn trong việc tính toán nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC đã hướng dẫn việc áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000, nhấn mạnh rằng tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm các chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của trẻ, được xác định qua sự thỏa thuận giữa các bên Nếu không đạt được thỏa thuận, mức cấp dưỡng sẽ được quyết định dựa trên từng trường hợp cụ thể và khả năng tài chính của mỗi bên.

Trong thực tiễn giải quyết tại các Tòa án, quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC thường được áp dụng Cụ thể, Tòa án cần xem xét khả năng kinh tế và thu nhập của người phải đóng góp phí tổn, cũng như khả năng kinh tế và thu nhập của người nuôi dưỡng con Mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng và giáo dục con tối thiểu không được dưới 1/2 mức lương tối thiểu do nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm cho mỗi người con.

Trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến mức cấp dưỡng, việc áp dụng các thỏa thuận của các đương sự về mức cấp dưỡng không đồng nhất, do sự khác biệt về yêu cầu, thu nhập và chi phí nuôi dưỡng tại từng địa phương Điều này dẫn đến việc xác định tiền cấp dưỡng ở mỗi Tòa án khác nhau, và các Thẩm phán cũng có cách giải quyết khác nhau Nhiều trường hợp, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng nhưng khi có kháng cáo, Tòa án cấp trên có thể sửa đổi mức cấp dưỡng đã được phê duyệt.

Bản án số 55/2020/HNGĐ-PT ngày 12/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố

Hà Nội xét xử phúc thẩm về việc “xác nhận cha cho con và yêu cầu cấp dưỡng”

Do bản án dân sự sơ thẩm số 37 - 2019 - HNGĐ-ST ngày 11 - 7 - 2019, Toà án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo

Chị H chia sẻ rằng vào năm 2013, chị đã có mối quan hệ tình cảm với anh T và mang thai đứa con tên M Trong thời gian mang thai, chị đã thông báo cho anh T, và anh hứa sẽ có trách nhiệm với đứa trẻ sau khi sinh Sau khi sinh, chị đã tiến hành xét nghiệm ADN cho cháu M.

M và kết quả cháu M và anh T có quan hệ huyết thống với anh T và yêu cầu anh T phải có trách nhiệm cấp dưỡng cho con chung

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T đã đồng ý công nhận cháu M là con đẻ của mình và cam kết cấp dưỡng nuôi con chung với chị H theo quy định pháp luật Hiện tại, thu nhập hàng tháng của anh T đạt 5.200.000 đồng.

Tại Bản án số 37 - 2019 - HNGĐ-ST ngày 11 - 07 - 2019, TAND quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội Quyết định:

Anh Trần Xuân T được buộc phải cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000 đồng mỗi tháng Khoản cấp dưỡng này sẽ được thực hiện hàng tháng kể từ thời điểm bản án có hiệu lực cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Chị H làm Đơn kháng cáo một phần Bản án 37/2019/ HNGĐ-ST ngày 11 -

Vào tháng 7 năm 2019, TAND quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội đã nhận được yêu cầu từ chị về việc không đồng ý với mức cấp dưỡng 2.000.000 đồng mỗi tháng Chị đề nghị Tòa án xem xét điều chỉnh mức cấp dưỡng nuôi con chung sao cho phù hợp hơn.

Hội đồng xét xử thấy rằng:

Cháu M, sinh năm 2015, được chị H nuôi dưỡng từ khi sinh ra Anh T khai báo thu nhập 5.200.000 đồng nhưng không cung cấp tài liệu chứng minh Trách nhiệm nuôi dưỡng con cái là nghĩa vụ chung của cha mẹ, trong khi chị H vừa nuôi con nhỏ vừa buôn bán tại chợ với công việc không ổn định và kinh tế khó khăn Do đó, để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho cháu M, Hội đồng xét xử quyết định sửa án sơ thẩm, tăng mức cấp dưỡng nuôi con chung nhằm bảo vệ quyền lợi của cháu.

Quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con tôn trọng quyền được nuôi con của mình

Sau khi ly hôn, nhiều bậc cha mẹ hiểu rõ nỗi đau của con cái và sẵn lòng hợp tác để tạo môi trường sống tốt nhất cho trẻ Tuy nhiên, một số cha mẹ lại lạm dụng quyền thăm nom để gây khó khăn cho người nuôi dưỡng chính Để bảo vệ quyền lợi của trẻ và người nuôi dưỡng, pháp luật quy định hạn chế quyền thăm nom Cụ thể, theo khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nếu cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom, người nuôi dưỡng có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp.

Bản án số 06/2018/HNGĐ-ST ngày 08/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp giải quyết tranh chấp liên quan đến yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con giữa các đương sự.

Theo đơn khởi kiện ngày 03/5/2017 và các lời khai tại Toà án nguyên đơn anh Thanh T trình bày:

Theo Quyết định số 18/2017/QĐST-HNGĐ ngày 02/3/2017, anh T và chị T đã thỏa thuận về quyền nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn, trong đó chị T được quyền nuôi con Tuy nhiên, sau khi chị T yêu cầu thay đổi quyền nuôi con, Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc đã công nhận anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng con theo Quyết định số 54/2017/QĐST-HNGĐ ngày 29/3/2017 Mặc dù vậy, mỗi lần chị T đến thăm con, chị thường gây rối, ảnh hưởng đến sinh hoạt gia đình anh T, và đã được chính quyền địa phương nhắc nhở nhiều lần nhưng không thay đổi Do đó, anh T đã yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của chị T, chỉ cho phép chị thăm con một lần mỗi năm vào ngày 30 tháng 01, từ 16 giờ đến 19 giờ, và anh T sẽ tự đưa con đến nhà chị T để thăm.

Chị Bạch Thị Mỹ T phản bác lại ý kiến của anh T, cho rằng việc anh cho rằng chị gây rối mỗi lần thăm nom con là không đúng sự thật Chị không đồng ý với yêu cầu của anh T về việc hạn chế quyền thăm nom con của mình Thay vào đó, chị đề nghị được thăm con mỗi tháng một lần vào ngày 28 dương lịch, với thời gian cụ thể là sáng lúc 7 giờ để đón con và chiều sẽ trả con lại.

17 giờ chị đưa con đến trả cho anh T

Hội đồng xét xử nhận định rằng trong quá trình nuôi cháu H, chị T đã đến thăm con tại nhà anh T ở địa chỉ 10A, khóm Sa Nhiên, Phường Tân Qui Đông, Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp Tuy nhiên, trong lúc thăm con, giữa chị T và anh T đã xảy ra mâu thuẫn, gây cự cãi làm mất trật tự địa phương và ảnh hưởng đến việc chăm sóc, giáo dục con của anh.

T Công an phường Tân Qui Đông đã nhiều lần lập biên bản về hành vi gây mất trật tự giữa chị T và anh T Chị T và anh T cũng có viết cam kết nhưng vẫn không thực hiện Do đó, việc anh T yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị T là có căn cứ Hiện nay cháu H còn rất nhỏ, cần được sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của chị T Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu

H, Hội đồng xét xử thống nhất cho chị T được quyền thăm nom cháu H mỗi tháng một lần và được thăm vào những ngày nghỉ lễ, tết Thời gian và địa điểm thăm nom do anh T và chị T thỏa thuận Chị T không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh T 8

Với quy định trên của Luật cũng như thực tiễn áp dụng, nhận thấy:

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chỉ quy định về việc hạn chế quyền thăm nom con mà không có biện pháp xử phạt hay yêu cầu chấm dứt quyền thăm nom này.

Theo Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quy định về việc hạn chế quyền thăm nom con thiếu rõ ràng, đặc biệt là không nêu thời hạn cụ thể cho việc hạn chế này Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến quyền thăm nom con của Tòa án và các bên liên quan Do đó, cần bổ sung quy định về thời hạn hạn chế quyền thăm nom con, với khoảng thời gian từ một đến năm năm, tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng của việc lạm dụng quyền này.

8 Bản án số 06/2018/HNGĐ-PT ngày 08/2/2018 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp

Hiện tại, chưa có quy định rõ ràng nào định nghĩa các hành vi gây cản trở hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ Thiếu hướng dẫn cụ thể này dẫn đến sự không đồng nhất trong việc áp dụng pháp luật của các Tòa án khi giải quyết các vụ việc liên quan.

Chẳng hạn tình huống: Bản án số: 29/2018/HNGĐ-ST Ngày 24/9/2018 “V/v tranh chấp nuôi con” giữa Nguyên đơn: Bà Loan và bị đơn: Ông Hảo

Vào tháng 3 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã công nhận quyết định thuận tình ly hôn giữa hai người, theo thỏa thuận số 81/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2018 Trong quyết định này, quyền nuôi con Huỳnh Ngọc Hoàng, sinh ngày 11/12/2015, được giao cho ông Hảo, và bà Loan không có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Bà Loan, một người mẹ thương con, đang gặp khó khăn trong việc thăm nuôi cháu Huỳnh Ngọc Hoàng do khoảng cách xa xôi và điều kiện đi lại khó khăn Hiện tại, ông Hảo, cha của cháu, không đồng ý giao quyền nuôi con cho bà vì ông có khả năng chăm sóc và giáo dục cháu, đồng thời cháu đang học tại một trường mầm non địa phương Bà Loan mong muốn được thay đổi quyền nuôi con để có thể trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu.

Hội đồng xét xử nhận định rằng ông Hảo, người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung, đã cho thấy con của họ hiện đang phát triển bình thường tại nhóm trẻ Cà rốt, xã Hàm Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, mà không có dấu hiệu bị ngược đãi Ông Hảo cũng đã chứng minh khả năng tài chính vững vàng với việc được tặng thửa đất 214, diện tích 5680 m² cùng với thanh long trên đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND Huyện Hàm Thuận Nam cấp Ngoài ra, ông còn có số tiết kiệm 200.000.000 đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT chi nhánh Hàm Mỹ, cho thấy ông đủ điều kiện để tiếp tục nuôi con Do đó, cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Loan.

Bà Loan kháng cáo xin được trực tiếp nuôi con chung

Bản án số 32/2018/HNGĐ-PT ngày 25/12/2018 của TAND tỉnh Bình Thuận đã sửa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Bà Loan

Cháu Hoàng, con gái chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của mẹ để phát triển tâm sinh lý tốt nhất Việc chị Loan ở xa khiến chị không thể thăm nuôi con thường xuyên, ảnh hưởng đến tình cảm giữa mẹ và con Dựa vào khoản 3 Điều 81 và khoản 1, 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, tòa phúc thẩm đã quyết định giao cháu Hoàng cho bà Loan trực tiếp nuôi dưỡng.

Quan điểm của tác giả về vụ án cho rằng việc cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm là không có căn cứ Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 81/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, cháu Hoàng chưa đủ 36 tháng tuổi đã được giao cho ông Hảo nuôi Bà Loan sau đó yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, nhưng cấp phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu này dựa trên khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình mà không xem xét đúng bản chất vụ án tranh chấp Để thay đổi người nuôi, cần chứng minh người đang nuôi không đủ điều kiện, nhưng ông Hảo đã chứng minh được điều kiện kinh tế ổn định và khả năng chăm sóc con tốt, trong khi bà Loan không chứng minh được điều ngược lại Sau đó, ông Hảo đã khởi kiện yêu cầu thay đổi người nuôi con tại TAND huyện Dầu Tiếng và bản án sơ thẩm số 02/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 đã chấp nhận yêu cầu của ông Hảo, vì cả hai bên đều có công việc ổn định nhưng việc giữ nguyên nuôi dưỡng cháu Hoàng là cần thiết để tránh xáo trộn cuộc sống của cháu.

Ngày đăng: 01/04/2022, 21:33

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w