ĐIỀU KIỆN CHIA TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Tài sản để chia là tài sản chung của vợ chồng
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định hai chế độ tài sản của vợ chồng: chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo luật định Nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận bị tuyên vô hiệu, chế độ tài sản theo luật định sẽ được áp dụng Theo Điều 33, tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập từ lao động, hoa lợi từ tài sản riêng, tài sản thừa kế chung hoặc được tặng cho chung, và các tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất của vợ chồng sau khi kết hôn được coi là tài sản chung, trừ khi một bên nhận thừa kế riêng, được tặng cho riêng, hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nếu không có chứng cứ rõ ràng để chứng minh tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên, thì tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên tinh thần công bằng và bảo vệ quyền lợi của cả hai bên.
“của chồng công vợ” gắn kết cuộc sống hôn nhân vợ chồng
Qua các quy định trên có thể đúc kết lại rằng, để xác định tài sản chung của vợ chồng thì tài sản đó có hai đặc điểm sau:
Thứ nhất, tài sản chung là tài sản được tạo ra, phát sinh, có được trong thời kỳ hôn nhân
Trong hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng được xác định dựa trên thời kỳ hôn nhân, tức là thời điểm họ chính thức trở thành vợ chồng Các tài sản riêng, bao gồm tài sản thừa kế, tài sản được tặng cho riêng, hoặc tài sản đã được thỏa thuận là riêng, cùng với những tài sản có thể chứng minh là tài sản riêng, sẽ được trừ ra Những tài sản còn lại sẽ được coi là tài sản chung của hai vợ chồng.
9 Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ
10 Khoản 3 Điều 33 LHN&GĐ năm 2014
Theo quy định pháp luật hiện hành, thời điểm bắt đầu của hôn nhân được xác định dựa trên hai mốc: thời điểm đăng ký kết hôn và thời điểm bắt đầu chung sống Hôn nhân sẽ kết thúc khi một trong hai bên vợ hoặc chồng qua đời (theo sinh học hoặc pháp lý) hoặc khi có quyết định ly hôn.
Theo phong tục Việt Nam, ngoài việc đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, các cặp đôi thường tổ chức lễ hỏi, lễ cưới hoặc tiệc báo hỷ để xác nhận quan hệ hôn nhân Thông thường, quan hệ hôn nhân được xác định từ ngày đăng ký kết hôn, và việc tổ chức lễ cưới không ảnh hưởng đến thời điểm này Lễ cưới có thể diễn ra trước hoặc sau khi đăng ký kết hôn, do đó, việc xác định tài sản chung hay riêng từ tiền, tài sản và trang sức mừng cưới của gia đình và khách mời sẽ phụ thuộc vào thời điểm và sự kiện cụ thể.
Hiện tại, chưa có văn bản pháp luật cụ thể nào hướng dẫn về vấn đề tài sản trong hôn nhân Theo Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1998 của HĐTP TANDTC, trang sức cưới do cha mẹ tặng cho vợ hoặc chồng được coi là tài sản riêng, trừ khi được tặng chung với mục đích tạo dựng vốn cho vợ chồng, thì sẽ là tài sản chung Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP đã thay thế Nghị quyết 01 nhưng không quy định rõ về việc chia tài sản chung khi ly hôn liên quan đến trang sức Mặc dù Nghị quyết 01 không còn hiệu lực, nhưng tinh thần của nó vẫn phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, rằng tài sản được tặng cho chung là tài sản chung, còn tài sản tặng riêng là tài sản riêng Tuy nhiên, việc xác định ý chí của người tặng vẫn gặp khó khăn, đặt ra câu hỏi liệu có thể áp dụng thời điểm bắt đầu hôn nhân để phân loại tài sản chung hay riêng hay không.
Theo Luật sư Lê Minh Công thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội, việc xác định tài sản chung hay riêng của vợ chồng cần dựa vào thời điểm đăng ký kết hôn và ý chí của người tặng cho Điều này giúp phân định rõ ràng các tài sản mà vợ chồng sở hữu.
12 khoản 13, Điều 3 LHN&GĐ năm 2014
Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội quy định về việc thi hành Luật HNGĐ, cùng với Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3 tháng 1 năm 2001, được ban hành bởi Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp, nhằm hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 35.
14 Các Điều 33, 43, 44 LHN&GĐ năm 2014
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quà cưới được tặng cho chung hoặc sau khi kết hôn sẽ được xem là tài sản chung của vợ chồng Tuy nhiên, nếu hôn nhân diễn ra trước khi luật này có hiệu lực, trang sức như bông tai, nhẫn, vòng cổ được tặng có thể được coi là tài sản riêng của cô dâu hoặc chú rể, trừ khi người tặng rõ ràng tuyên bố đó là quà cho cả hai để xây dựng gia đình Sau khi luật có hiệu lực, bất kỳ tài sản nào được tặng cho vợ chồng, dù ở dạng nào, sẽ được xem là tài sản chung, trừ khi có chứng minh cụ thể về mục đích tặng quà.
Trong Bản án số 10/2019/HNGĐ-ST ngày 17/06/2019 của TAND huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, Tòa án xác định tài sản được tặng trong lễ cưới của chị M và anh T là tài sản chung, mặc dù họ chưa đăng ký kết hôn Cụ thể, trong ngày cưới, gia đình tặng cho chị M tổng cộng 19,5 chỉ vàng 24K và hai chiếc nhẫn cưới, nhưng chị M không có chứng cứ chứng minh đây là tài sản riêng Tòa án căn cứ vào Điều 43 của Luật hôn nhân và gia đình để xác định rằng vàng cưới này là tài sản chung và yêu cầu chia đôi Tương tự, trong Bản án số 31/2018/DSST ngày 21/6/2018, TAND tỉnh Sóc Trăng cũng nhận định rằng chiếc xe được mua trước ngày cưới là tài sản riêng của ông Q và bà P.
Khi ly hôn, việc chia vàng cưới và trang sức cần được xác định rõ ràng, dựa vào thời điểm tổ chức lễ cưới để phân loại tài sản riêng và tài sản chung Theo bài viết của Trần Hà, việc này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan trong quá trình phân chia tài sản.
Tại Bản án số 42/2010/DS-ST ngày 15/6/2010 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An, Tòa án xác định rằng trong Lễ đính hôn, các tài sản như hoa tai và tiền cho cô dâu may trang phục được xem là sính lễ, tặng cho riêng cô dâu Ngược lại, các tài sản khác như dây chuyền và vòng đeo tay thì được xem là tặng cho có điều kiện, buộc cô dâu phải hoàn trả Cụ thể, gia đình ông Thát đã trao cho bà Thoa nhiều tài sản, nhưng do mâu thuẫn xảy ra, hai bên đã hủy đám cưới và tranh chấp tài sản Tòa án nhận định rằng hoa tai và tiền may trang phục cưới là bắt buộc, do đó bà Thoa có quyền giữ lại, trong khi các tài sản khác phải hoàn trả cho ông Thát Bản án cũng không chấp nhận quan điểm cho rằng nữ trang chỉ dành riêng cho nữ, khẳng định rằng tài sản tặng cho không được xem là tặng cho riêng.
Từ những minh họa thực tiễn trong xét xử, có thể nhận thấy sự khác biệt trong quan điểm về tài sản dành cho vợ chồng vào ngày cưới trước khi đăng ký kết hôn Theo tác giả, phong tục tập quán cưới hỏi ở Việt Nam có sự khác nhau giữa các vùng miền, nhưng nhìn chung vẫn có những điểm tương đồng.
Lễ cưới chính thức bao gồm các thủ tục thách cưới và hỏi vợ, sau đó là Lễ cưới tại nhà cô dâu Tiếp theo, chú rể sẽ thực hiện thủ tục rước dâu và tổ chức Lễ cưới chính thức tại nhà mình Đối với lễ vật thách cưới, chú rể cần chuẩn bị những lễ vật theo yêu cầu của gia đình cô dâu để hoàn tất nghi thức cưới hỏi.
Yêu cầu của vợ, chồng về chia tài sản chung
Quyền yêu cầu ly hôn có thể đến từ cả hai vợ chồng hoặc chỉ một bên Khi tiến hành ly hôn, Tòa án không chỉ giải quyết quan hệ hôn nhân mà còn phải xem xét các hậu quả pháp lý như quyền nuôi con và phân chia tài sản, những vấn đề thường gây tranh chấp Quyền nuôi con là một vấn đề nhân thân mà Tòa án bắt buộc phải giải quyết, bất kể bên nào yêu cầu, trong khi việc chia tài sản chung phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng, cho phép họ quyết định có yêu cầu chia tài sản hay không khi tiến hành thủ tục ly hôn.
Tòa án chỉ tiếp nhận và giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu từ đương sự, và chỉ trong phạm vi nội dung của các đơn này Do đó, khi một trong hai vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, họ có thể yêu cầu phân chia tài sản ngay trong đơn ly hôn Nếu vấn đề phân chia tài sản không được đề cập trong đơn, Tòa án sẽ không xem xét và tài sản vẫn sẽ thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Khi ly hôn, nếu vợ hoặc chồng không tự thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung hoặc không yêu cầu Tòa án can thiệp, tài sản chung của họ vẫn được coi là tài sản chung hợp nhất Trong trường hợp này, không ai có quyền yêu cầu chia tài sản này ngoài vợ hoặc chồng, vì họ là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản.
Tại Bản án số 40/2021/HNGĐ-ST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên, nguyên đơn ông Mai Xuân Linh và bà Huỳnh Thị Duyên đã thừa nhận rằng vợ chồng họ có tài sản chung bao gồm 03 xe máy, 01 ti vi và 01 tủ lạnh.
21 Khoản 1 Điều 51 LHN&GĐ năm 2014
Theo Khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015, Tòa án không xem xét tài sản chung nếu không có yêu cầu chia từ một bên vợ hoặc chồng Trong vụ việc cụ thể, ông Linh không yêu cầu chia 03 con bò đầu tư, trong khi bà Duyên yêu cầu chia đôi nhưng đã rút yêu cầu do thiếu chứng cứ Điều này cho thấy bên yêu cầu chia tài sản phải có nghĩa vụ chứng minh tài sản đó là tài sản chung Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định rằng Tòa án chỉ hỗ trợ khi đương sự đã nỗ lực nhưng không thể chứng minh quyền lợi của mình Khoản 1 Điều 91 BLTTDS năm 2015 quy định những trường hợp không phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh, bao gồm những tình tiết được các bên thừa nhận Tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân thường khó chứng minh do chỉ có vợ chồng biết rõ, nhưng nếu bên còn lại thừa nhận, điều này có thể tạo thuận lợi cho việc chứng minh Trong trường hợp của bà Duyên, mặc dù không có chứng cứ về giao dịch mua bán bò, nhưng sự thừa nhận từ ông Linh về số tiền mua và bán bò đã là căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà.
Quy định tại khoản 2 Điều 92 BLTTDS năm 2015 đã bộc lộ những hạn chế mà chưa có bổ sung để giải quyết Vụ án Bản án số 10/2017/HNGĐ-PT ngày 18/5/2017 của TAND tỉnh Phú Yên là một minh chứng rõ ràng cho điều này Trong vụ án, Tòa án đã xác định tài sản tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng chị Chi và anh Vinh dựa trên lời thừa nhận của ông Diệm, dẫn đến việc chia tài sản không công bằng và ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Chị Lê Thị Mỹ Chi khẳng định rằng tài sản chung của vợ chồng lên tới 414.000.000 đồng, trong đó chị Chi giữ 179.000.000 đồng và anh Vinh giữ 235.000.000 đồng.
Vợ chồng chị Chi và anh Vinh đang tranh chấp tài sản gồm 08 cây vàng, 04 lô đất tại thôn Đông Lộc và 01 lô đất tại thôn Qui Hậu, mà theo anh Vinh, có được từ việc kinh doanh bò hơi của cha anh, ông Nguyễn Diệm Tuy nhiên, ông Diệm khẳng định tài sản này không phải là của vợ chồng Chi, Vinh mà là do ông tự kinh doanh Tại phiên tòa, anh Vinh và chị Chi xác nhận rằng 04 lô đất và 08 cây vàng là tài sản chung của họ, và ông Diệm không phản đối điều này Lời khai của anh Vinh và chị Chi được xem là có cơ sở, với số tiền 179.000.000 đồng và 08 cây vàng được xác định là tài sản chung.
Vàng chị Chi quản lý là tài sản chung của vợ chồng chị và anh Vinh trong thời kỳ hôn nhân Tuy nhiên, theo Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 04/02/2020 và Quyết định giám đốc thẩm số 01/2020/DS-GĐT ngày 30/3/2020, tài sản này được xác định là có nguồn gốc từ việc kinh doanh bò hơi của ông Diệm, trong khi anh Vinh chỉ đóng vai trò phụ giúp Do đó, các quyết định này đã hủy bản án trước đó vì xác định sai sự thật khách quan, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Diệm.
Cần hiểu rằng không phải tất cả các thừa nhận của đương sự đều có giá trị chứng minh tuyệt đối, mà cần phải kết hợp với các chứng cứ khác Do đó, pháp luật tố tụng dân sự nên có hướng dẫn bổ sung cho trường hợp này.
Để Tòa án giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, một điều kiện quan trọng là người yêu cầu phải nộp tạm ứng các chi phí tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, bao gồm tạm ứng án phí và chi phí thẩm định, định giá, giám định Nếu không nộp biên lai thu tiền tạm ứng trong thời hạn quy định mà không có lý do chính đáng, Tòa án sẽ không xem xét yêu cầu Ví dụ, trong Bản án số 39/2020/HNGĐ-ST ngày 10/12/2020 của TAND huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên, yêu cầu chia tài sản không được chấp nhận do bị đơn không nộp tạm ứng án phí và nguyên đơn không có chứng cứ chứng minh tài sản chung.
24 Điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015
25 Điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015
Trong vụ án hôn nhân gia đình, nếu một bên yêu cầu về tài sản, thì khi giải quyết, người không thực hiện nghĩa vụ tạm ứng cũng sẽ được xem xét dựa trên yêu cầu của bên còn lại.
Để xác định "vàng cưới" là tài sản chung hay riêng, trước tiên cần căn cứ vào tập quán theo Điều 5, BLDS năm 2015 để xác định ý chí của người tặng cho Nếu không xác định được mục đích tặng cho qua tập quán, cần dựa vào ý chí của người tặng kết hợp với thời điểm tặng cho Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên phải cung cấp chứng cứ để chứng minh tài sản này là tặng riêng, không thuộc về cả hai vợ chồng.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quyền tài sản đối với sở hữu trí tuệ được xem là tài sản riêng của vợ, chồng Tuy nhiên, cần có hướng dẫn cụ thể để xác định lợi tức và lợi ích phát sinh từ quyền tài sản này là tài sản chung hay tài sản riêng, nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật được đồng bộ.
Để yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng được chấp nhận, người yêu cầu cần cung cấp chứng cứ và căn cứ pháp lý vững chắc Tòa án sẽ xem xét yêu cầu này, tuy nhiên không phải mọi sự thừa nhận của đương sự đều có giá trị chứng minh Do đó, cần phải kết hợp và đánh giá toàn diện với các chứng cứ khác Pháp luật tố tụng dân sự cần bổ sung hướng dẫn về các tình tiết và sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 BLTTDS năm 2015.
NGUYÊN TẮC VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN
Tài sản chung của vợ chồng đƣợc chia đôi tuy nhiên có xem xét các yếu tố hoàn cảnh mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản này
Khoản 2 Điều 59 LHN&GĐ năm 2014 quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn thì về nguyên tắc được chia đôi nhưng có xem xét các yếu tố hoàn cảnh mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản này Lao động trong gia đình cũng được xem là lao động có thu nhập Có thể nhận thấy rằng khác với luật pháp của nhiều nước, luật Việt Nam đã và đang coi việc xác định phần quyền ngang nhau của vợ, chồng đối với tài sản chung như một giải pháp nguyên tắc trong trường hợp không còn cách nào khác xác định phần quyền của mỗi người với tỷ lệ khác Tất nhiên, vợ chồng có thể thỏa thuận về việc xác định phần quyền của mỗi người mà không dựa vào bất cứ điều gì nhưng nếu có sự tranh chấp giữa vợ, chồng trong việc xác định phần của mỗi người thì Thẩm phán sẽ xác định phần của mỗi người bằng cách xem xét các yếu tố nói trên
Sau khi ly hôn, hoàn cảnh của gia đình và vợ chồng sẽ ảnh hưởng đến việc phân chia tài sản Bên gặp khó khăn hơn sẽ được ưu tiên nhận phần tài sản lớn hơn hoặc loại tài sản cần thiết để duy trì và ổn định cuộc sống Tuy nhiên, việc này cần phải phù hợp với tình hình thực tế của từng gia đình và cặp vợ chồng.
Công sức đóng góp của vợ chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung sẽ được xem xét để xác định tỷ lệ chia tài sản Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ nhận được phần lớn hơn Tòa án sẽ đánh giá các hình thức đóng góp và cách thức định giá công sức của mỗi bên.
Đóng góp tích cực đó là sự đóng góp vào việc làm giàu cho khối tài sản ấy
Trong hôn nhân, hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng sẽ được coi là tài sản chung, theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, trừ khi có thỏa thuận khác Đồng thời, việc đóng góp từ tiền trúng thưởng cũng làm tăng giá trị cho tài sản chung Do đó, khi chia tài sản, các đóng góp này sẽ được xem là công sức chung của cả hai vợ chồng và sẽ được chia đều.
Điểm b khoản 4 Điều 7 TTLT 01/2016 quy định về đóng góp đối xứng và đóng góp đích thực trong việc xác định tài sản chung của gia đình Đóng góp đối xứng đề cập đến sự phân công công sức giữa lao động và nội trợ, cho thấy rằng cả hai loại công việc đều có giá trị ngang nhau trong việc xây dựng tài sản chung Tuy nhiên, không thể hiểu rằng người không lao động hoặc không nội trợ sẽ được chia tài sản bằng nhau, mà người có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ nhận được phần tài sản lớn hơn Đóng góp đích thực liên quan đến việc chuyển tài sản riêng thành tài sản chung, thể hiện sự đóng góp tích cực của cá nhân vào tài sản chung Hiện tại, pháp luật chưa quy định rõ ràng về việc xác định tài sản thay thế, dẫn đến việc người đóng góp có thể không được hoàn trả tài sản theo yêu cầu chia tài sản, mặc dù công sức của họ vẫn được xem xét trong quá trình chia tài sản theo quy định pháp luật.
Việc nhập tài sản tuân thủ quy định pháp luật là cơ sở để Tòa án giải quyết tranh chấp, nhưng thực tế có nhiều trường hợp thỏa thuận nhập tài sản riêng không lập văn bản, vi phạm quy định về hình thức và thiếu người làm chứng, dẫn đến khó khăn trong việc xác định có hay không việc nhập Luật sư Nguyễn Hữu Phước và Luật sư Lạc Thị Tú Duy cho rằng, nếu bất động sản là nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng và đã được sử dụng chung, thì khi ly hôn, tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của người đó Quan điểm này không đồng ý với việc công nhận nhập thực tế đối với nhà ở, vì theo quy định pháp luật về nhà ở, giao dịch liên quan đến tài sản này phải được lập thành văn bản và có công chứng Tiến sĩ Lê Vĩnh Châu cũng nhấn mạnh rằng, quyền sử dụng và sở hữu tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, nếu sử dụng tài sản chung để sửa chữa hoặc xây mới nhà, cần được xem xét kỹ lưỡng trong các giao dịch pháp lý.
29 Nguyễn Hữu Phước, Lạc Thị Tú Duy (2020), “Ly hôn gặp khó biết hỏi ai”, NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, tr.382
Theo Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), nếu tài sản vẫn đứng tên một mình vợ hoặc chồng mà không có chứng cứ chứng minh việc nhập tài sản, Tòa án cần xác định tài sản tranh chấp là tài sản riêng Để tài sản riêng được nhập vào tài sản chung, cần có văn bản hợp lệ, có thể công chứng hoặc chứng thực, đặc biệt đối với các tài sản theo yêu cầu pháp luật Quan điểm này khẳng định rằng việc nhập tài sản chung phải tuân theo hình thức pháp lý, không chỉ dựa vào thực tế.
Trong Bản án số 775/2019/HNGĐ-PT ngày 03/09/2019 của TAND Tp Hồ Chí Minh, bị đơn cho rằng trong thời kỳ hôn nhân, ông N và bà T1 đã thỏa thuận rõ ràng về tài sản chung, thể hiện qua việc ông N tự nguyện ghi tên bà T1 vào đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Tuy nhiên, Tòa án phúc thẩm xác định rằng nguồn gốc hai quyền sử dụng đất đang tranh chấp thuộc về ông N, được cấp vào năm 2001 và 2002, trước khi kết hôn vào năm 2004 Sau khi kết hôn, ông N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên riêng, nhưng do biến động trong quá trình sử dụng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở đã được cấp cho cả hai vào năm 2016 Do đó, Tòa án kết luận rằng hai quyền sử dụng đất này là tài sản riêng của ông N.
Tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu chung của ông N và bà T1 Trong trường hợp này, Tòa án không chấp nhận lập luận của bị đơn, mặc dù họ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (năm 2016) và đã xây dựng nhà ở trên đó, nhưng không có chứng cứ nào khác để hỗ trợ cho quan điểm của họ, phù hợp với những phân tích đã nêu.
Theo quan điểm của Tòa án cấp phúc thẩm, việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung cần được lập thành văn bản và có thể phải công chứng, chứng thực để đảm bảo tính hợp pháp Nếu không có chứng cứ chứng minh việc nhập, tài sản tranh chấp sẽ được xác định là tài sản riêng Đóng góp tiêu cực có thể làm nghèo tài sản chung, thể hiện qua các hành vi như phá hoại tài sản, gây nợ nần do cờ bạc hoặc tiêu pha vào những hoạt động vô ích Mặc dù hành vi này đáng bị lên án, nhưng việc trừng phạt bằng cách cắt bớt phần của người phá tán gặp khó khăn trong việc định lượng Đối với đóng góp tiêu cực phải hoàn trả, nếu tài sản chung được sử dụng để tu bổ tài sản riêng, phần tài sản đã sử dụng cần được hoàn trả sau khi tài sản riêng mang lại lợi nhuận, nhưng không có nghĩa là không cần bù trừ nếu tài sản riêng không sinh lợi.
Hiện nay, việc đánh giá công sức đóng góp của vợ chồng vào tài sản chung tại Việt Nam vẫn chưa có quy tắc cụ thể, do luật pháp đang trong giai đoạn hình thành Điều này dẫn đến sự phức tạp trong việc xác định giá trị các hình thức đóng góp đa dạng, đặc biệt là trong trường hợp cuộc sống chung kéo dài.
Bảo vệ lợi ích chính đáng của từng bên trong quá trình sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp là rất quan trọng, nhằm tạo điều kiện cho các bên tiếp tục lao động và tạo ra thu nhập.
Pháp luật quy định nhằm bảo vệ hoạt động kinh doanh và nghề nghiệp của các bên, cho phép người sử dụng tài sản chuyên dùng của vợ hoặc chồng yêu cầu ưu tiên nhận các tài sản liên quan bằng hiện vật Điều này giúp tránh việc chia nhỏ tài sản, dẫn đến mất công dụng và giá trị của tài sản phục vụ cho nghề nghiệp, như phá dỡ xưởng sản xuất hay cửa hàng Khi giải quyết giao những tài sản cụ thể, cần xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo giao cho bên thật sự cần thiết, phù hợp với nghề nghiệp của mỗi bên dựa trên lợi ích nghề nghiệp của vợ và chồng.
Nguyên tắc phân chia tài sản bằng giá trị được ưu tiên nhằm đảm bảo sự tiếp tục sản xuất và kinh doanh cho người hoạt động nghề nghiệp Họ có quyền sử dụng tài sản và thanh toán giá trị chênh lệch cho bên còn lại, đồng thời ghi nhận việc giao tài sản và trách nhiệm thanh toán Điều này thể hiện rõ đặc trưng của nguyên tắc bình đẳng về giá trị.
Lỗi vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng có thể dẫn đến ly hôn, bao gồm cả lỗi về nhân thân và tài sản Về nhân thân, một bên có thể vi phạm nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng và chăm sóc nhau, hoặc không chia sẻ công việc gia đình Về tài sản, vợ chồng có trách nhiệm cùng lao động để duy trì cuộc sống ổn định, nhưng nếu một bên không làm việc và thường xuyên chơi cờ bạc hay sử dụng ma túy, điều này có thể gây ra sự phá sản tài sản và nợ nần.
Nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chƣa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng
Khi giải quyết chia tài sản chung trong trường hợp ly hôn, Tòa án cần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của vợ và con, đặc biệt là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động Quy định này nhằm cụ thể hóa nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đồng thời hỗ trợ các bà mẹ trong vai trò làm mẹ Điều quan trọng là con cái không có quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng, do đó, người nuôi dưỡng con sẽ được ưu tiên nhận tài sản phù hợp để thực hiện tốt trách nhiệm nuôi dạy con cái.
Việc xác định quyền lợi của vợ hoặc chồng trong khối tài sản chung cần dựa trên công sức đóng góp của mỗi bên Không thể tùy tiện thanh toán phần quyền của người vợ mà không tương xứng với công sức của họ Đồng thời, không thể khẳng định rằng người vợ được ưu tiên bảo vệ trong khi quyền lợi của người chồng lại bị xem nhẹ Điều này cho thấy việc thiết lập tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật là không hợp lý.
Trong trường hợp xung đột lợi ích giữa vợ và con, việc ưu tiên bảo vệ quyền lợi của ai không có giải pháp chung mà phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể Tác giả cho rằng nên ưu tiên bảo vệ quyền lợi của con, vì trẻ em không có khả năng tự chăm sóc bản thân và phụ thuộc vào cha hoặc mẹ Mặc dù vợ thường là đối tượng yếu thế hơn chồng, nhưng cô ấy vẫn có khả năng tự lao động và tự lo cho bản thân.
Tài sản chung của vợ chồng đƣợc chia bằng hiện vật, nếu không chia đƣợc bằng hiện vật thì chia theo giá trị
Sau khi xác định quyền lợi của vợ chồng trong tài sản chung, bước tiếp theo là tiến hành chia tài sản theo các phần đã được xác định Theo quy định tại khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, tài sản chung có thể được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị Nếu không thể chia bằng hiện vật, bên nhận tài sản có giá trị lớn hơn phải thanh toán phần chênh lệch cho bên còn lại Phương thức chia tài sản nhằm đảm bảo tối đa giá trị sử dụng, khả năng sử dụng hợp lý và ổn định đời sống cho mỗi bên sau khi phân chia.
Mặc dù điều luật không chính thức xác định phương thức chia tài sản ưu tiên, cụm từ "Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì phân chia theo giá trị" cho thấy thiên hướng ưu tiên cho việc chia bằng hiện vật Điều này khác với quy định trong LHN&GĐ năm 2000, nơi có hai phương thức chia mà không có sự ưu tiên nào Theo điều luật hiện tại, tài sản có thể chia được bằng hiện vật, nghĩa là có thể chia nhỏ thành hai tài sản độc lập mà vẫn giữ nguyên tính năng và tính chất như tài sản ban đầu, từ đó phản ánh nguyên tắc bình đẳng trong phân chia tài sản chung.
Để ưu tiên phương thức phân chia tài sản chung của vợ chồng bằng hiện vật, tài sản phải có khả năng phân chia và ít nhất một bên cần nhận tài sản đó Tuy nhiên, điều luật không ghi nhận tài sản chia được bằng hiện vật mà lại quy định theo hướng loại trừ, chỉ cho phép chia tài sản bằng giá trị khi không thể chia bằng hiện vật.
Cụm từ "không chia được bằng hiện vật" trong pháp luật hôn nhân hiện hành chưa được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến sự thiếu hướng dẫn cụ thể Khi không thể chia tài sản, việc giao tài sản cho một bên sẽ phụ thuộc vào các quy tắc chung mà luật định Nếu hai bên không đạt được thỏa thuận, câu hỏi đặt ra là ai sẽ được nhận tài sản, vợ hay chồng? Bên sử dụng tài sản phải thanh toán giá trị cho bên còn lại, nhưng nếu bên nhận không có khả năng thanh toán, sẽ xử lý như thế nào? Đồng thời, giá trị tài sản cần được xác định dựa trên tiêu chí nào?
Tài sản chung của vợ chồng không chỉ có những đặc điểm riêng mà còn mang những đặc tính của tài sản nói chung Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản này được phân loại thành bốn dạng cụ thể: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Thứ nhất, đối với tài sản là vật:
Theo Điều 111 BLDS năm 2015, "vật chia được" là vật vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng sau khi bị phân chia Điều này có nghĩa là khi chia nhỏ vật chất, các phần độc lập vẫn duy trì các đặc điểm và khả năng sử dụng ban đầu của vật đó, không biến đổi thành vật khác.
Một số tài sản vật chất có thể dễ dàng chia thành các phần khác nhau mà không làm thay đổi tính chất ban đầu, như chia một bao gạo 10 kg thành hai bao 05 kg Tuy nhiên, đối với những tài sản có đặc thù hoặc tính pháp lý phức tạp, việc giữ nguyên tính chất khi chia chỉ mang tính tương đối Chẳng hạn, khi chia một thửa đất thành hai thửa bằng nhau, mặc dù hai thửa đất vẫn đáp ứng các điều kiện theo luật đất đai, nhưng giá trị và khả năng bán của chúng có thể bị ảnh hưởng do diện tích nhỏ hơn Dù vậy, sự thay đổi này không đủ lớn để coi là không thể chia, vì vậy, trong thực tế, tính năng và tính chất của tài sản vẫn được xem là giữ nguyên.
Tiền là một loại tài sản có tính thanh khoản cao nhất, được sử dụng để trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân Nó được mọi người chấp nhận rộng rãi và thường do Nhà nước phát hành để đảm bảo giá trị.
Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư 33/2017/TT-BTC ngày 20/7/2017 của Bộ Tài chính, chế độ quản lý tiền mặt, giấy tờ có giá và tài sản quý trong hệ thống kho bạc nhà nước được quy định rõ ràng Hiện nay, bên cạnh các loại tài sản truyền thống như vàng và kim loại quý, thị trường còn xuất hiện "tiền mã hóa" với nhiều tên gọi khác nhau như tiền điện tử, tiền mật mã, tiền kỹ thuật số, tiền số, Coin hay tiền ảo Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia, bao gồm Việt Nam, không công nhận tiền mã hóa là tiền tệ hợp pháp Chỉ những loại tiền có giá trị thực tế và được pháp luật thừa nhận, như đồng tiền cổ hay tiền xu, mới được xem là tài sản, mặc dù không được sử dụng trong giao dịch dân sự Về mặt pháp lý, tiền được hiểu là nội tệ hoặc ngoại tệ.
Giấy tờ có giá là những tài liệu có giá trị bằng tiền và có thể được chuyển nhượng trong giao dịch dân sự Chúng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể có hoặc không có mệnh giá, có thời hạn sử dụng hoặc không, và có thể ghi danh hoặc không ghi danh Quyền định đoạt đối với giấy tờ có giá không bị hạn chế như tiền mặt Các ví dụ về giấy tờ có giá bao gồm giấy nhận nợ, tờ vé số trúng thưởng, trái phiếu, cổ phiếu, và séc, tất cả đều có giá trị bằng đồng Việt Nam.
Tiền và giấy tờ có giá đều là tài sản có giá trị được xác định bởi mệnh giá, và khi phân chia, chúng ta chỉ chia giá trị của chúng chứ không chia tách vật chất Ví dụ, tờ tiền 10.000 đồng sẽ được chia thành hai phần có giá trị 5.000 đồng mỗi phần, thay vì xé đôi tờ tiền Hơn nữa, giấy tờ có giá chỉ có thể được chuyển nhượng toàn bộ một lần, việc chuyển nhượng một phần là vô hiệu, do đó, tiền và giấy tờ có giá không thể phân chia bằng hiện vật mà chỉ có thể chia bằng giá trị.
Thứ ba, đối với quyền tài sản, tại Điều 115 BLDS năm 2015 có ghi nhận:
Quyền tài sản được định nghĩa là quyền có giá trị bằng tiền, bao gồm quyền đối với sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền khác Theo BLDS năm 2015, quyền tài sản chỉ còn một đặc điểm duy nhất là khả năng trị giá bằng tiền, tức là bất kỳ quyền nào mang lại giá trị kinh tế đều được xem là quyền tài sản Việc xác định quyền tài sản có được chuyển giao hay không trong giao dịch dân sự chỉ nhằm mục đích phân loại các quyền tài sản trong các giao dịch này, không còn là đặc điểm của quyền tài sản như trước đây.
Bộ luật dân sự trước đây
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điện, quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được hiểu là một quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu, trong đó một lợi ích được định giá bằng tiền thuộc về một chủ thể cụ thể Tác giả Phùng Trung Tập mở rộng khái niệm này, cho rằng quyền tài sản bao gồm tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc kiểm soát tài sản, bao gồm cả chủ sở hữu và những người có quyền khác Quyền tài sản được xây dựng như một khái niệm đối lập với vật, trong đó vật được hiểu là tài sản hữu hình có thể nhận biết bằng giác quan, trong khi quyền tài sản lại được xem là các vật vô hình.
Theo Điều 115 BLDS năm 2015, quyền tài sản bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác, giúp xác định rõ ràng phạm vi của quyền tài sản và tránh nhầm lẫn với quyền nhân thân Quyền tài sản được xem là vật vô hình, là lợi ích có giá trị tiền tệ, thuộc về một chủ thể trong quan hệ, do đó không thể chia theo hiện vật mà chỉ có thể chia giá trị của quyền tài sản Đặc biệt, khi chia tài sản như quyền sử dụng đất và nhà ở, cần tuân thủ các quy định tại LHN&GĐ năm 2014 và các điều kiện theo Luật Đất đai và Luật Nhà ở.
Về chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn (áp dụng theo Điều 61,
+ Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó
Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo các quy định cụ thể Đối với đất nông nghiệp như trồng cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên có nhu cầu và khả năng sử dụng đất, việc chia sẻ sẽ được thực hiện theo thỏa thuận Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, một bên có thể yêu cầu Tòa án can thiệp để giải quyết Nếu chỉ một bên có nhu cầu và điều kiện sử dụng đất, bên đó sẽ được ưu tiên.