1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Hiệu lực của phán quyết trọng tài theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

69 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 69
Dung lượng 2,33 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái niệm và đặc điểm của ph n quy t trọng tài (10)
    • 1.1.1. Khái niệm phán quyết trọng tài (10)
    • 1.1.2. Các loại quyết định trọng tài được xác định là phán quyết trọng tài (11)
    • 1.1.3. Đặc điểm c ph n quyết trọng t i – phân iệt v i c c quyết định trọng (13)
  • 1.2. Hiệu lực của ph n quy t trọng tài trong mối quan hệ giữa các bên (16)
    • 1.2.1. Hiệu lực chung thẩm c phán quyết trọng tài (16)
    • 1.2.2. Hiệu lực c sự việc đã được giải quyết ằng phán quyết trọng tài c phán quyết trọng tài (Res judicata) (18)
    • 1.2.3. Hiệu lực thi hành c phán quyết trọng tài (24)
  • 1.3. Hiệu lực của ph n quy t trọng tài trong mối quan hệ với bên thứ ba (26)
    • 1.3.1. Bên thứ ba trong tố tụng trọng tài (26)
    • 1.3.2. Phán quyết trọng tài xâm hại t i người thứ ba (30)
  • CHƯƠNG 2. HIỆU LỰC CỦA PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN (10)
    • 2.1. Những vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện về tính chung thẩm của phán quy t trọng tài (35)
      • 2.1.1. Những vấn đề ất cập (35)
      • 2.1.2. Hư ng hoàn thiện đối v i pháp luật Việt Nam (38)
    • 2.2. Những vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện về hiệu lực của sự việc đã đƣợc giải quy t bằng phán quy t trọng tài (38)
      • 2.3.1. Những vấn đề ất cập (46)
      • 2.3.2. Hư ng hoàn thiện đối v i pháp luật Việt Nam (51)
    • 2.4. Những vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện về hiệu lực của phán quy t trọng tài trong mối quan hệ với bên thứ ba (55)
      • 2.4.1. Những vấn đề ất cập (0)
      • 2.4.2. Hư ng hoàn thiện đối v i pháp luật Việt Nam (57)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

Khái niệm và đặc điểm của ph n quy t trọng tài

Khái niệm phán quyết trọng tài

Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, nơi các bên tranh chấp đồng ý đưa vụ việc ra Hội đồng trọng tài theo quy trình pháp luật quy định Kết quả của quá trình này là phán quyết trọng tài, một quyết định cuối cùng nhằm giải quyết toàn bộ nội dung vụ việc và đánh dấu kết thúc quá trình tố tụng trọng tài trước khi chuyển sang giai đoạn thi hành Theo Từ điển Tiếng Việt, phán quyết được hiểu là “quyết định để mọi người phải tuân theo”, trong khi theo Đại từ điển kinh tế thị trường, phán quyết trọng tài là quyết định của trọng tài viên hoặc cơ quan trọng tài sau khi xét xử vụ việc tranh chấp.

Hiện nay, chưa có một định nghĩa thống nhất nào về "phán quyết trọng tài" trên toàn cầu Các công ước quốc tế về trọng tài, như Công ước New York, không cung cấp định nghĩa cụ thể cho thuật ngữ này.

Luật Mẫu UNCITRAL không đưa ra định nghĩa chung cho thuật ngữ "phán quyết trọng tài" Theo Công ước New York, "các phán quyết trọng tài" không chỉ bao gồm các phán quyết do trọng tài viên đưa ra cho từng vụ việc mà còn cả các phán quyết từ các tổ chức trọng tài thường trực mà các bên đã lựa chọn Tại Việt Nam, phán quyết trọng tài được định nghĩa là "quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài" theo khoản 10 Điều 3 của Luật.

Phán quyết trọng tài thương mại là quyết định cuối cùng của hội đồng trọng tài, giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp giữa các bên và chấm dứt vụ việc.

1 Hoàng Phê (2012), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB T điển Bách khoa, H Nội, tr.983.

Phán quyết trọng tài là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài, thể hiện sự lao động pháp lý nghiêm túc của Hội đồng trọng tài Nó không chỉ chứa đựng toàn bộ nội dung giải quyết tranh chấp mà còn là mục đích cuối cùng mà các bên mong muốn khi tham gia vào tố tụng Với vai trò là một phần thiết yếu của hệ thống tài phán, phán quyết trọng tài hiện thực hóa những quyết định của Hội đồng trọng tài, đồng thời đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp của các bên liên quan.

Các loại quyết định trọng tài được xác định là phán quyết trọng tài

Thuật ngữ “phán quyết trọng tài” được ghi nhận trong Luật Trọng tài thương mại, đánh dấu sự khác biệt so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại trước đây Việc công nhận phán quyết trọng tài như một chế định độc lập khẳng định tầm quan trọng và những đặc trưng pháp lý phức tạp của nó Trong quá trình tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài có thể ban hành nhiều quyết định, trong đó có hai loại quyết định được xác định là phán quyết trọng tài theo Khoản 1 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.

Thứ nhất, quy t định công nhận sự thỏa thuận của các bên của Hội đồng trọng tài quy định tại Điều 58 Luật Trọng tài thương mại 2010

Trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương lượng và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp, hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải Khi đạt được thỏa thuận, Hội đồng trọng tài sẽ lập biên bản hòa giải thành, ghi rõ thời gian, địa điểm và nội dung thỏa thuận Vai trò của Hội đồng trọng tài là hướng dẫn các bên điều chỉnh nội dung thỏa thuận một cách rõ ràng và cụ thể Cuối cùng, các bên ký vào biên bản và Trọng tài viên xác nhận Dựa trên biên bản thỏa thuận, Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó, đánh dấu kết quả của quá trình hòa giải.

3 Đ o Tr Úc (2010), “Thẩm quyền của Hội đồng trọng t i v vai tr của T a án trong quá trình tố tụng trọng t i”, Tạp chí Kho học ĐHQGHN, Luật học 26, tr 276.

Theo Điều 9 của Luật Trọng tài thương mại 2010, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài ban hành quyết định khi đã thỏa thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp Quyết định này có giá trị chung thẩm như phán quyết trọng tài và có thể bị yêu cầu Tòa án xem xét hủy Tuy nhiên, vì đây là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên, liên quan đến tổ chức giải quyết, thủ tục tố tụng, pháp luật áp dụng và nội dung tranh chấp, nên quy trình xem xét hủy phán quyết trọng tài trong trường hợp này cần lưu ý những điểm đặc biệt sẽ được đề cập ở phần sau.

Quyết định trọng tài được ban hành dựa trên kết quả xét xử của hội đồng trọng tài sau khi đã giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp Đây là loại phán quyết trọng tài quan trọng mà tác giả sẽ nghiên cứu trong luận văn của mình.

Nếu các bên không đạt được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và không có trường hợp đình chỉ nào xảy ra, Hội đồng trọng tài sẽ đưa ra phán quyết dựa trên kết quả của phiên họp giải quyết tranh chấp cuối cùng Thời hạn để ban hành phán quyết tối đa là 30 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng Phán quyết trọng tài sẽ ghi nhận toàn bộ kết quả giải quyết tranh chấp và phải được ban hành theo trình tự thủ tục nhất định, tuân thủ quy định về nội dung và hình thức theo Điều 61 của Luật Trọng tài thương mại 2010.

Phán quyết trọng tài phải đƣ c lập bằng văn bản và phải có các nội dung chủ yếu nhƣ sau đây 6 :

- Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết;

- Tên, địa ch của nguyên đơn và bị đơn;

- Họ, tên, địa ch của Trọng tài viên;

- Tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp;

- Căn cứ để ra phán quyết, tr khi các bên có th a thuận không cần nêu căn cứ trong phán quyết;

5Các trường h p quy định tại Điều 60 Luật Trọng t i thương mại 2010.

6 Điều 61 Luật Trọng t i thương mại 2010.

- Kết quả giải quyết tranh chấp;

- Thời hạn thi hành phán quyết;

- Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;

Đặc điểm c ph n quyết trọng t i – phân iệt v i c c quyết định trọng

1.1.3 Đặc điểm c ph n quyết trọng t i – phân iệt v i c c quyết định trọng t i h c

Phán quyết trọng tài, theo Luật Trọng tài thương mại 2010, là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài Điều 3 quy định rằng phán quyết trọng tài khác biệt với các quyết định khác như quyết định về thẩm quyền, biện pháp khẩn cấp tạm thời hay đình chỉ giải quyết tranh chấp Sự tách biệt này khẳng định phán quyết trọng tài có những đặc điểm riêng biệt, và một quyết định chỉ được coi là phán quyết trọng tài khi nó đáp ứng đủ hai yếu tố quan trọng.

Thứ nhất, phán quy t trọng tài giải quy t toàn bộ nội dung vụ tranh chấp đƣợc nêu trong đơn kiện

Phán quyết trọng tài được xem như một quyết định cuối cùng và toàn diện, được đưa ra sau khi Hội đồng trọng tài hoàn tất việc giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp Tính toàn diện này thể hiện ở việc phán quyết là quyết định duy nhất trong suốt quá trình tố tụng, phản ánh đầy đủ kết quả giải quyết tranh chấp và bao gồm nội dung giải quyết tất cả các yêu cầu của các bên trong đơn khởi kiện.

Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định rằng các yêu cầu của các bên trong vụ kiện là vấn đề trọng tâm cần được giải quyết Nếu Hội đồng Trọng tài bỏ sót yêu cầu nào trong phán quyết, các bên có quyền yêu cầu phán quyết bổ sung Ngược lại, nếu phán quyết vượt quá yêu cầu ban đầu, Hội đồng có thể bị coi là vượt thẩm quyền, dẫn đến khả năng bị Tòa án hủy bỏ phán quyết Do đó, để đảm bảo tính hợp pháp và chính xác, Hội đồng Trọng tài cần giải quyết đầy đủ các vấn đề trong phạm vi vụ kiện.

Kết quả giải quyết tranh chấp là nội dung chính bắt buộc trong phán quyết trọng tài, phải đảm bảo giải quyết toàn diện các vấn đề tranh chấp Trong khi đó, quyết định trọng tài là những quyết định tạm thời do Hội đồng trọng tài đưa ra để hỗ trợ quá trình giải quyết tranh chấp, không trực tiếp giải quyết yêu cầu của các bên Trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài có thể ban hành nhiều quyết định trọng tài cho các mục đích khác nhau, nhưng chỉ có một phán quyết trọng tài duy nhất nhằm giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp.

Thứ hai, việc ban hành quy t định này dẫn đ n chấm dứt toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài và chấm dứt nhiệm vụ của Hội đồng trọng tài

Phán quyết trọng tài đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng trọng tài, đồng nghĩa với việc Hội đồng trọng tài đã đưa ra quyết định cuối cùng.

8Điều 36 Luật Trọng t i thương mại 2010.

Theo Khoản 4 Điều 63 Luật Trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài không thể bị kháng cáo về nội dung đã quyết định, trừ trường hợp sửa lỗi kỹ thuật theo quy định của pháp luật Phán quyết trọng tài được coi là bằng chứng pháp lý rõ ràng nhất, chứng minh rằng vụ việc đã được xét xử thông qua một quy trình tố tụng hoàn chỉnh Do đó, không thể yêu cầu xét xử lại, trừ khi phán quyết trọng tài bị hủy bởi Tòa án.

Quyết định trọng tài là những quyết định do Hội đồng trọng tài đưa ra liên quan đến các vấn đề cụ thể trong quá trình giải quyết tranh chấp Những quyết định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét và giải quyết tranh chấp, dẫn đến phán quyết trọng tài cuối cùng Phán quyết trọng tài là mục đích cuối cùng của quá trình giải quyết tranh chấp, là kết quả của các hoạt động tố tụng như nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng cứ, lấy lời khai nhân chứng và tranh luận giữa các trọng tài viên.

Phán quyết trọng tài và quyết định trọng tài là hai thuật ngữ khác nhau, mỗi loại có giá trị pháp lý riêng Chỉ phán quyết trọng tài mới có hiệu lực chung thẩm và có thể bị hủy theo thủ tục của Tòa án nếu có bằng chứng vi phạm pháp luật Ngược lại, quyết định trọng tài không thể bị hủy Do đó, việc phân biệt giữa phán quyết trọng tài và các quyết định khác là rất quan trọng trong quy trình xem xét hủy Trong cả tố tụng trọng tài và Tòa án, tranh chấp sẽ được kết thúc bằng một quyết định cuối cùng, được gọi là bản án, quyết định của Tòa án hoặc phán quyết trọng tài.

10 Điều 63 Luật Trọng t i thương mại 2010.

Trung tâm thương mại quốc tế UNCTAD/WTO (2001) đã chỉ ra rằng việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp có sự khác biệt rõ rệt giữa trọng tài và tòa án Dịch vụ hiệu đính bởi VIAC năm 2008 nhấn mạnh rằng phán quyết của trọng tài và bản án, quyết định của tòa án có những điểm khác nhau cơ bản do tính chất công – tư của hai phương thức này.

Hiệu lực của ph n quy t trọng tài trong mối quan hệ giữa các bên

Hiệu lực chung thẩm c phán quyết trọng tài

Nguyên tắc về tính chung thẩm của phán quyết trọng tài đƣ c quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 “Ph n quyết trọng tài là chung

Theo H C Alvarez (2008), trong bài viết "The Implementation of the New York Convention in Canada", quy định tại Khoản 5 Điều 61 Luật trọng tài Việt Nam khẳng định rằng "phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành" Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa giải thích rõ ràng về tính chung thẩm của hiệu lực trọng tài Theo một số nghiên cứu, "chung thẩm" có nghĩa là vụ việc đã được trọng tài giải quyết không thể bị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm Các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam cũng chỉ ra rằng các bên không có quyền kháng cáo hay kháng nghị đối với phán quyết trọng tài, và không có cấp xét xử nào phía trên để xem xét lại nội dung vụ tranh chấp Do đó, bản chất của tính chung thẩm là phán quyết có hiệu lực ngay lập tức sau khi ban hành và không thể bị kháng cáo hay xem xét lại bằng bất kỳ thủ tục nào khác.

Tính chung thẩm của phán quyết trọng tài là một ưu thế nổi bật so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, như tố tụng tại Tòa án Khi Hội đồng trọng tài ban hành phán quyết, quá trình tố tụng được kết thúc và không thể bị xem xét lại về mặt nội dung bởi bất kỳ thủ tục cấp trên nào Ngược lại, giải quyết tranh chấp tại Tòa án thường phải trải qua nhiều giai đoạn, bao gồm sơ thẩm, phúc thẩm và có thể bị kháng cáo, kháng nghị, dẫn đến việc kéo dài thời gian đạt được kết quả cuối cùng Đặc điểm tính chung thẩm giúp quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thể hiện hiệu quả rõ rệt, với trường hợp hủy phán quyết trọng tài do sai sót thủ tục ít khi xảy ra Để đảm bảo tính hiệu lực chung thẩm, phán quyết trọng tài cần phải được đưa ra từ một quá trình giải quyết khách quan và tuân thủ các quy định pháp luật.

13 Khoản 5 Điều 61 Luật Trọng t i thương mại 2010.

14 Đỗ Văn Đại - Trần Ho ng Hải (2011), Ph p luật Việt N m về Trọng t i thương mại, NXB Ch nh trị quốc gia – Sự thật, tr.320.

Hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho xã hội và các bên tranh chấp Đầu tiên, nó giúp giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, duy trì hệ thống tài phán hiệu quả và gọn nhẹ Thứ hai, các bên tranh chấp tiết kiệm thời gian và công sức, nhận được kết quả giải quyết ngay lập tức mà không cần trải qua các giai đoạn tố tụng phức tạp Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong hoạt động kinh doanh thương mại, nơi mà việc tiết kiệm thời gian và tăng cường quan hệ đối tác là rất quan trọng.

Ngày nay, tính chung thẩm của phán quyết trọng tài được xem là nguyên tắc cơ bản trong trọng tài thương mại, được ghi nhận trong các văn bản luật trọng tài quốc tế cũng như trong luật trọng tài của nhiều quốc gia Cụ thể, Điều 34 của Bản Quy tắc trọng tài UNCITRAL ngày 15/12/1976 (sửa đổi, bổ sung ngày 06/12/2010) của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế đã quy định rõ về vấn đề này.

Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản, có tính chung thẩm và ràng buộc các bên Các bên có trách nhiệm cam kết thi hành phán quyết một cách kịp thời Tính chung thẩm của phán quyết trọng tài đã được công nhận rộng rãi và trở thành chuẩn mực trong nhiều hệ thống pháp luật trọng tài.

Các trung tâm trọng tài tại Việt Nam đã khẳng định giá trị chung thẩm của phán quyết trong quy tắc tố tụng của mình, phù hợp với nguyên tắc của Luật Trọng tài thương mại Cụ thể, Điều 31 trong Bản quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) quy định rằng "Quyết định trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố", và yêu cầu các bên phải thi hành quyết định này theo quy định của pháp luật.

Thương mại phía Nam (STAC) xác nhận tại Điều 31 rằng "Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành" Điều này cho thấy hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài được công nhận rộng rãi như một nguyên tắc đặc thù trong tố tụng trọng tài.

Hiệu lực c sự việc đã được giải quyết ằng phán quyết trọng tài c phán quyết trọng tài (Res judicata)

phán quyết trọng tài (Res judicata)

Người ta thường sử dụng “Res judicata” - một thuật ngữ lấy t tiếng Latin - để nhằm ch “hiệu lực của sự việc đ đƣ c giải quyết”, một vấn đề cuối cùng đ

Hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài, theo Trần Dự Yến (2006), đảm bảo rằng quyết định được đưa ra một cách công bằng và không thể bị kiện lại bởi các bên liên quan Điều này có nghĩa là không có phiên xét xử nào khác, như thủ tục phúc thẩm hay tái thẩm, sẽ diễn ra để xem xét lại vụ tranh chấp nếu đã có phán quyết "Res judicata" trong bối cảnh phán quyết trọng tài mang ý nghĩa ngăn cản các bên yêu cầu xem xét lại một vấn đề đã được giải quyết.

Nghiên cứu lịch sử pháp luật về trọng tài cho thấy rằng việc công nhận hiệu lực của các phán quyết trọng tài không phải là điều hiển nhiên Thực tế, sự ghi nhận này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Trong thời gian dài, đã có sự nghi ngờ về khả năng ghi nhận hiệu lực của các phán quyết trọng tài, đặc biệt là về tính chất tài phán của chúng Tuy nhiên, hiện nay, tính tài phán của phán quyết trọng tài đã được công nhận rộng rãi và không còn gây tranh luận Theo pháp luật so sánh, phán quyết trọng tài được ghi nhận là có hiệu lực đối với sự việc đã được giải quyết, cho thấy rằng hiệu lực của các phán quyết này đã được công nhận một cách rõ ràng.

Trong phạm vi tài phán trọng tài, hiệu lực của sự việc đã được giải quyết (hay còn gọi là Res judicata) có nghĩa là việc ngăn cấm tái xét xử một tranh chấp đã được quyết định bằng phán quyết trọng tài.

Thực trạng của pháp luật Việt Nam

Khác với nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới như Áo, Đức hay Pháp, pháp luật Việt Nam có sự phân biệt rõ ràng giữa tố tụng tại Tòa án và tố tụng tại trọng tài thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Trọng tài thương mại Luật Trọng tài thương mại tồn tại song song với Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng trong khi Bộ luật này quy định cụ thể về hiệu lực của các vụ việc được giải quyết tại Tòa án, Luật Trọng tài thương mại lại chưa đưa ra sự rõ ràng về hiệu lực của phán quyết trọng tài.

16 Đỗ Văn Đại (2021), “Sự việc đ đƣ c giải quyết bằng phán quyết trọng t i”, Tạp chí Kho học ph p lý số 6(145)/2021, Đại học Luật TP HCM, tr 2.

17 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 2.

18 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 2.

Pháp luật trọng tài Việt Nam hiện nay công nhận rằng phán quyết trọng tài có tính chung thẩm và có hiệu lực từ ngày ban hành, theo quy định tại khoản 5 Điều 4.

Luật Trọng tài thương mại 2010 chưa có quy định rõ ràng về khái niệm “tính chung thẩm” của hiệu lực trọng tài, dẫn đến việc pháp luật Việt Nam chưa công nhận đầy đủ giá trị pháp lý của các phán quyết trọng tài Điều này tạo ra sự không nhất quán trong việc giải quyết các vụ việc đã được phán quyết, khi không có quy định cấm việc xem xét lại các tranh chấp đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài đang có hiệu lực Vấn đề đặt ra là liệu các tranh chấp đã được phán quyết có được coi là “sự việc đã được giải quyết” để ngăn cấm việc giải quyết lại hay không.

Có trường hợp một bên yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án xem xét lại nội dung tranh chấp đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài có hiệu lực pháp luật Bài viết này sẽ phân tích những bất cập trong hai trường hợp nêu trên.

(i) Trường hợp yêu cầu trọng tài giải quyết lại

Luật Trọng tài thương mại 2010 không cấm việc trọng tài giải quyết lại nội dung đã được phán quyết trước đó, mà chỉ quy định cho phép Hội đồng trọng tài xem xét lại "sử dụng và giải thích phán quyết" cũng như ban hành "phán quyết bổ sung" theo Điều 63 Điều này mở ra khả năng cho các bên tranh chấp có thể yêu cầu xem xét lại những phán quyết đã có hiệu lực.

Luật quy định cho phép trọng tài giải quyết lại nội dung đã được phán quyết nếu phán quyết đó bị Tòa án tuyên hủy (khoản 8 Điều 71) Trong trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên có thể thỏa thuận để đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án Khác với luật tố tụng dân sự có quy định cụ thể về bản án đang có hiệu lực, pháp luật trọng tài không có quy định rõ ràng về việc trọng tài không được giải quyết lại sự việc đã được phán quyết.

Trong thực tế, không có trường hợp nào mà một bên có thể yêu cầu trọng tài xem xét lại nội dung đã được giải quyết trong một phán quyết trọng tài đã có hiệu lực.

Vào năm 2018, Công ty NICON đã khởi kiện Công ty VDA tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) liên quan đến khối lượng công việc và yêu cầu thanh toán theo Hợp đồng số 07 Vụ kiện này được giải quyết bằng phán quyết trọng tài số 69/18HCM vào tháng 4/2019 Tuy nhiên, vào tháng 6/2019, Công ty VDA tiếp tục khởi kiện NICON về cùng nội dung tại Trung tâm Trọng tài thương mại TP.HCM (TRACENT), trong khi phán quyết của VIAC vẫn còn hiệu lực Đến tháng 12/2019, TRACENT ban hành phán quyết với nhận định khác, dẫn đến việc Công ty NICON phản đối thẩm quyền của TRACENT và yêu cầu Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh hủy phán quyết này.

Trong vụ việc này, công ty VDA đã áp dụng quy định pháp luật về trọng tài, cho thấy không có quy định nào cấm việc yêu cầu trọng tài khác giải quyết lại một tranh chấp đã được phán quyết bởi một trọng tài đang có hiệu lực.

Trong vụ tranh chấp giữa NICON và TRACENT, VIAC đã đưa ra phán quyết có hiệu lực VDA đã áp dụng quy định tại Khoản 3 Điều 43 của Luật Trọng tài thương mại 2010, nêu rõ rằng nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không xác định rõ hình thức hoặc tổ chức trọng tài, thì khi xảy ra tranh chấp, các bên cần thỏa thuận lại về vấn đề này Nếu không đạt được thỏa thuận, việc lựa chọn hình thức và tổ chức trọng tài sẽ được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.

Tòa án TP HCM nhận xét rằng phán quyết trọng tài số 69/18HCM của VIAC là chung thẩm, ràng buộc các bên và có hiệu lực từ ngày ban hành Các bên không có yêu cầu hủy phán quyết này, do đó nội dung trong phán quyết đã có hiệu lực thi hành Tranh chấp liên quan đến Hợp đồng số 07 sẽ do TRACENT giải quyết, mặc dù Công ty NICON đã phản đối thẩm quyền của TRACENT với lý do VIAC đã thụ lý giải quyết trước đó.

Hiệu lực thi hành c phán quyết trọng tài

Khi nói về phán quyết của Tòa án, một danh nhân từng nhấn mạnh rằng công lý chỉ được thực hiện một nửa nếu phán quyết không được thi hành Điều này cũng hoàn toàn đúng với phán quyết trọng tài, vì hiệu lực thi hành phản ánh khả năng thực thi của phán quyết trên thực tế Phán quyết trọng tài chỉ có giá trị nếu nó có thể được thực hiện; nếu không, nó chỉ là một tờ giấy vô nghĩa, làm mất đi toàn bộ ý nghĩa của quá trình tố tụng Do đó, việc đảm bảo hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài không chỉ liên quan đến giá trị pháp lý mà còn phải chú trọng vào khả năng thực thi sau khi phán quyết được ban hành Nếu không có sự đảm bảo cho việc thi hành, trọng tài thương mại tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn và có nguy cơ “chết yểu”.

Quy định về hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài trong pháp luật trọng tài Việt Nam hiện nay còn thiếu rõ ràng Theo Điều 61 Luật Trọng tài thương mại, phán quyết trọng tài có hiệu lực ngay từ ngày ban hành, cho phép việc thi hành diễn ra ngay lập tức Luật Trọng tài thương mại còn quy định chi tiết trong Chương thứ mười (từ Điều 65 đến Điều 70), nhằm làm rõ hơn về quy trình và điều kiện thi hành phán quyết trọng tài.

67) để quy định về thi hành phán quyết trọng tài Thế nhƣng cũng chính trong Luật trọng tài thương mại lại đồng thời quy định những trường h p trong đó hiệu

26 Tưởng Duy Lư ng (2016), Bình luận BLTTDS, Luật trọng t i thương mại v thực tiễn xét xử, NXB

Lực thi hành của phán quyết trọng tài có thể bị trì hoãn hoặc chấm dứt thông qua cơ chế hủy phán quyết Điều này có nghĩa là hiệu lực thi hành của phán quyết không phát sinh ngay lập tức sau khi ban hành, mà phải trải qua một giai đoạn nhất định Trong giai đoạn này, các quy định về cơ chế hủy phán quyết trọng tài sẽ được áp dụng, ảnh hưởng đến giá trị pháp lý và khả năng thi hành thực tế của phán quyết.

Trong phần này, tác giả sẽ làm rõ tác động của cơ chế hủy phán quyết trọng tài đối với hiệu lực thi hành của phán quyết Việc Tòa án hủy phán quyết trọng tài không chỉ chấm dứt hiệu lực của phán quyết mà còn đưa toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài trở về mốc khởi điểm Luận văn sẽ phân tích sự ảnh hưởng của cơ chế hủy phán quyết đến giá trị thi hành của phán quyết thông qua hai thời điểm: khi có yêu cầu hủy từ một bên và khi Tòa án ra quyết định hủy phán quyết Đây là một vấn đề pháp lý quan trọng liên quan đến hiệu lực của phán quyết trọng tài.

Thứ nhất, hiệu lực thi hành của phán quy t trọng tài tại thời điểm một bên yêu cầu hủy phán quy t trọng tài

Vấn đề thi hành phán quyết trọng tài chưa được quy định trực tiếp trong pháp luật trọng tài Việt Nam Tuy nhiên, Điều 66 của Luật Trọng tài thương mại 2010 đã đề cập gián tiếp rằng nếu bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thực hiện và không yêu cầu hủy phán quyết, bên được thi hành có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện phán quyết đó Điều này cho thấy quyền lợi của bên được thi hành phán quyết trong việc yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp để đảm bảo thi hành phán quyết trọng tài.

Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng t i” khi

Theo Điều 69 Luật Trọng tài thương mại, bên phải thi hành không cần phải thực hiện phán quyết trọng tài nếu có yêu cầu hủy phán quyết Điều này có nghĩa là việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là hợp lệ và ảnh hưởng đến nghĩa vụ thi hành của bên liên quan.

27Chief Justice James Allsop (2013), The Authority of the Arbitrator, Clayton Utz University of Sydney International Arbitration Lecture, tr.02.

Việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là một quá trình pháp lý quan trọng, trong đó phán quyết trọng tài sẽ không được thi hành cho đến khi Tòa án hoàn tất việc xem xét yêu cầu này Điều này có nghĩa là trong giai đoạn này, phán quyết trọng tài vẫn chưa có hiệu lực pháp lý và cần được đánh giá lại trước khi có thể thực thi.

Bên cạnh đó, khoản 10 điều 71 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định

Quyết định của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành, có nghĩa là khi có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, người phải thi hành không cần thực hiện phán quyết cho đến khi Tòa án đưa ra quyết định về yêu cầu này Điều này đồng nghĩa với việc hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài sẽ bị tạm ngưng khi một bên trong tranh chấp yêu cầu hủy bỏ phán quyết đó.

Hiện tại, không có quy định rõ ràng về thời gian trì hoãn thi hành phán quyết trọng tài khi phán quyết đó đang bị Tòa án xem xét hủy Thời gian trì hoãn này phụ thuộc vào quá trình xem xét của Tòa án, và việc thi hành sẽ chỉ được khởi động lại sau khi Tòa án đưa ra quyết định cuối cùng.

Thứ hai, hiệu lực thi hành của phán quy t trọng tài tại thời điểm có quy t định của Tòa án hủy/không hủy phán quy t trọng tài

Sau thời gian xem xét yêu cầu hủy, Tòa án sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài.

“quyết định c Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành” (theo khoản

Theo Điều 71 của Luật Trọng tài thương mại, khi Tòa án quyết định hủy phán quyết trọng tài, giá trị pháp lý và thi hành của phán quyết đó sẽ chấm dứt ngay lập tức, và bên phải thi hành không còn nghĩa vụ thực hiện Ngược lại, nếu Tòa án không hủy phán quyết, quyết định này có hiệu lực ngay, cho phép phán quyết trọng tài bị cưỡng chế thi hành Thời điểm Tòa án ra quyết định về việc hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài đánh dấu thời điểm giá trị thi hành của phán quyết bị chấm dứt hoặc được tiếp tục.

Hiệu lực của ph n quy t trọng tài trong mối quan hệ với bên thứ ba

Bên thứ ba trong tố tụng trọng tài

Phán quyết trọng tài có hiệu lực ràng buộc các bên tham gia tố tụng dựa trên thỏa thuận trọng tài đã được thiết lập trước đó Đây là nguyên tắc cơ bản trong quy trình trọng tài.

29 Nguyễn Thị Hoa (2021), “Ho n thiện pháp luật trọng t i ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 tháng 6, tr.40.

"Các bên tham gia tố tụng trọng tài" đề cập đến những bên có liên quan trong quá trình tố tụng, cụ thể là các bên đã ký thỏa thuận trọng tài, không bao gồm bên thứ ba Tuy nhiên, quy tắc này có những ngoại lệ, khi mà một số hệ thống pháp luật cho phép hiệu lực của phán quyết trọng tài mở rộng đến bên thứ ba có liên quan Điều này có nghĩa là, mặc dù phán quyết trọng tài không ràng buộc trực tiếp bên thứ ba, nhưng trong một số trường hợp, nó vẫn có thể tác động đến những bên không tham gia tố tụng.

Luật Trọng tài thương mại không quy định về sự tham gia của "người thứ ba" trong tố tụng trọng tài, khác với tố tụng dân sự tại Tòa án, nơi có sự tham gia của "người có quyền và nghĩa vụ liên quan" Trong vụ kiện trọng tài, chỉ có các bên đã thỏa thuận trọng tài tham gia, được gọi là các bên trong tranh chấp Tuy nhiên, khái niệm "người thứ ba" đã được ghi nhận tại Điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại.

Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài khi xác định rằng phán quyết đó vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, mà Hội đồng trọng tài đã không tuân thủ Hơn nữa, phán quyết trọng tài phải xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của một hoặc nhiều bên liên quan, cũng như của các bên thứ ba.

Thuật ngữ “người thứ ba” trong Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP không đồng nghĩa với “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Trong khi Bộ luật Tố tụng dân sự quy định rõ về người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Luật Trọng tài thương mại lại không có quy định tương tự.

Hội đồng trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận trọng tài giữa các bên, theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại Nếu không có thỏa thuận này, trọng tài sẽ không có quyền xử lý các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quan hệ giữa các bên.

Theo Gary B Born (2009), trong lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế, quyền và lợi ích của các bên liên quan đến tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua một vụ án khác theo quy trình tố tụng dân sự nếu có phát sinh tranh chấp.

Theo Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, "người thứ ba" được hiểu là các tổ chức quốc tế hoặc nhóm tổ chức xã hội đại diện cho lợi ích công cộng, có thể khởi kiện trong các trường hợp như phán quyết trọng tài ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, và quyền lợi người tiêu dùng Bên cạnh đó, "người thứ ba" cũng có thể là quốc gia khác có quyền và lợi ích bị tác động bởi phán quyết trọng tài, đặc biệt trong các tranh chấp đầu tư được giải quyết bằng trọng tài.

Người thứ ba, có thể là cá nhân hoặc tổ chức không liên quan đến tranh chấp, nhưng lại bị ảnh hưởng bởi phán quyết trọng tài, có thể cho rằng phán quyết này xâm phạm lợi ích của họ và vi phạm công lý rõ ràng.

Người bảo lãnh có thể là bên thứ ba không tham gia trực tiếp vào tố tụng trọng tài giữa bên cho vay và bên đi vay, mặc dù họ có những nghĩa vụ liên quan đến khoản vay Điều này có thể dẫn đến việc người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm pháp lý theo phán quyết của trọng tài.

Nhà thầu phụ có thể không tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài giữa chủ đầu tư và nhà thầu chính, mặc dù phán quyết trọng tài có thể xác định rằng phần công trình do nhà thầu phụ thực hiện có khiếm khuyết, dẫn đến tranh chấp.

Quy định tại Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP không đồng nghĩa với việc bên thứ ba trở thành một bên thực sự trong thủ tục tố tụng trọng tài Các bên trong nhóm này vẫn không được coi là bên thứ ba thực sự vì họ không ký kết thỏa thuận trọng tài và không tham gia vào quá trình trọng tài trước đó Tuy nhiên, do tất cả các bên, bao gồm cả bên tranh chấp và bên thứ ba, đều liên quan đến một mối quan hệ hợp đồng đa bên, bên thứ ba sẽ bị ảnh hưởng ở một mức độ nào đó bởi kết quả giải quyết tranh chấp trong phán quyết Điều này nên được hiểu là hệ quả logic của mối quan hệ tương quan chặt chẽ giữa các bên, không phải là hành vi kiện tụng của các bên nhằm chống lại bên thứ ba.

Trong bài viết của Tưởng Duy Lư (2018) trên Tạp chí Tòa án, tác giả đề cập đến một số vấn đề liên quan đến việc xem xét hủy phán quyết trọng tài, nhấn mạnh rằng trong một số trường hợp, bên thứ ba có thể phải chịu những hậu quả bất lợi từ phán quyết này Điều này thường xảy ra do các thỏa thuận có rủi ro mà bên thứ ba đã chấp nhận trước đó, như trường hợp người bảo lãnh chấp nhận rủi ro về khả năng chi trả của con nợ, dẫn đến trách nhiệm pháp lý của chính họ.

Trọng tài bắt đầu từ một thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết tranh chấp, thể hiện tính ý chí và quyền lựa chọn của họ Nếu không có thỏa thuận này, tố tụng trọng tài không thể khởi động Phán quyết trọng tài chỉ ràng buộc các bên có thỏa thuận, và trong suốt quá trình tố tụng, các bên phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ của mình Khi thủ tục tố tụng bắt đầu, thỏa thuận trọng tài trở thành một hiện tượng tài phán có quy mô lớn hơn Kết quả là phán quyết có thể được công nhận và thi hành toàn cầu, không chỉ giữa các bên liên quan mà còn với sự hỗ trợ của các cơ chế cưỡng chế nhà nước Để thi hành phán quyết này, thường cần sự tham gia của các bên liên quan ngoài thỏa thuận trọng tài, cho thấy hiệu lực của phán quyết có thể ảnh hưởng đến bên thứ ba có quyền và nghĩa vụ liên quan.

Trong trường hợp tranh chấp phát sinh, tố tụng trọng tài chỉ áp dụng cho các bên đã ký kết thỏa thuận trọng tài, trong khi bên thứ ba không tham gia sẽ không bị ràng buộc bởi phán quyết trọng tài Mặc dù không trực tiếp tham gia vào quá trình này, phán quyết trọng tài vẫn có thể ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của bên thứ ba, do nội dung tranh chấp có thể tác động trực tiếp đến họ Việc thực hiện nghĩa vụ của bên thứ ba, nếu có, cũng có thể là cơ sở để giải quyết triệt để tranh chấp giữa các bên liên quan.

HIỆU LỰC CỦA PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

Những vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện về tính chung thẩm của phán quy t trọng tài

2.1.1 Những vấn đề ất cập

Chưa có sự thống nhất giữa thực tiễn và văn bản về cơ chế tạo điều kiện cho trọng tài khắc phục sai sót, điều này ảnh hưởng đến việc bảo vệ tối đa tính chung thẩm của phán quyết.

Hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài không đồng nghĩa với việc không thể khôi phục phán quyết Luật Trọng tài thương mại quy định tại khoản 4 Điều 63 cho phép Hội đồng trọng tài sửa đổi hoặc bổ sung phán quyết trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của một bên Nếu yêu cầu này hợp lệ, Hội đồng sẽ ra phán quyết bổ sung trong thời hạn 45 ngày Hơn nữa, khi một bên đã nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài, Tòa án có thể tạm đình chỉ việc xem xét đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 7 Điều 71.

Trong vòng 60 ngày, Hội đồng trọng tài có trách nhiệm khắc phục sai sót tố tụng để loại bỏ căn cứ hủy phán quyết trọng tài Hội đồng phải thông báo cho Tòa án về việc này, và nếu không thực hiện, Tòa án sẽ tiếp tục xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết Quy định này là điểm mới so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 và tương tự như khoản 4 Điều 34 UNCITRAL, cho phép Tòa án hoãn thủ tục hủy phán quyết để Hội đồng có cơ hội khắc phục Điều này giúp bảo vệ giá trị của phán quyết và tránh việc hủy bỏ không cần thiết Cơ chế khắc phục sai sót không nhằm xem xét lại phán quyết mà nhằm hoàn thiện nó, bảo vệ hiệu lực chung thẩm và duy trì tính linh hoạt, hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Mặc dù Luật Trọng tài thương mại đã quy định về việc khắc phục sai sót trong tố tụng trọng tài, nhưng vẫn còn sự không thống nhất giữa quy định và thực tiễn Cụ thể, luật không chỉ rõ các sai sót tố tụng trọng tài là gì, dẫn đến việc các Tòa án áp dụng không đồng nhất khi xem xét các trường hợp khắc phục sai sót Điều này tạo ra khó khăn trong việc xác định đâu là “sai sót tố tụng trọng tài” theo quy định Một ví dụ điển hình là trường hợp được nêu trong Quyết định số 971/2017/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân TP HCM.

Vào ngày 31/7/2015, Công ty cổ phần A đã gửi đơn yêu cầu Tòa án nhân dân TP HCM hủy phán quyết trọng tài trong vụ kiện số 69/14HCM, được công bố vào ngày 02/7/2015 bởi Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) Tranh chấp này liên quan đến

Phán quyết trọng tài số 69/14HCM của Công ty A đã bị yêu cầu hủy bỏ do có nội dung không liên quan đến hợp đồng số 32 giữa hai công ty, mà lại đề cập đến hợp đồng số 25 Điều này cho thấy sự không nhất quán trong việc xử lý các hợp đồng liên quan, gây ra sự nhầm lẫn và ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.

Quyết định về khoản tiền gốc và tiền phạt mà Công ty A phải trả cho Công ty O không đúng với yêu cầu của Công ty O và diễn biến trong phán quyết, dẫn đến việc phán quyết này không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài Sự xuất hiện của hợp đồng số 25 trong phán quyết có thể là do lỗi in ấn hoặc nhầm lẫn khi phát hành Tuy nhiên, sai sót này có thể dẫn đến nguy cơ hủy phán quyết trọng tài theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại Dù vậy, Tòa án nhân dân TP HCM đã không hủy phán quyết trọng tài vì cho rằng VIAC đã ban hành quyết định chính nhằm khắc phục các lỗi sai sót trong phán quyết số 69/14HCM.

Tòa án đã thừa nhận rằng Trọng tài có sai sót và đã tạo điều kiện để khắc phục theo Luật Trọng tài thương mại, nhằm xóa bỏ căn cứ hủy phán quyết Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu các sai sót này có được coi là “sai sót về tố tụng” theo Khoản 7 Điều 71 hay không, điều này vẫn chưa có sự thống nhất giữa thực tiễn và văn bản Trong trường hợp cụ thể, Tòa án đã xử lý linh hoạt, loại trừ việc hủy phán quyết trọng tài trong những trường hợp có thể khắc phục, mặc dù không có lập luận chắc chắn rằng đó là “sai sót về tố tụng” Hướng xử lý này rõ ràng có lợi cho việc đảm bảo hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài.

Quy định tại Khoản 7 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc giảm thiểu nguy cơ hủy phán quyết trọng tài, đồng thời bảo vệ tính chung thẩm của các phán quyết này Tuy nhiên, quy định này cũng gặp phải một số điểm cần lưu ý.

36 Đỗ Văn Đại (2018), Ph p luật Trọng t i thương mại Việt N m – Bản n v ình luận ản n, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr 32 – 34.

Luật Trọng tài thương mại cho phép khắc phục sai sót tố tụng, nhưng điều này cũng có thể giới hạn khả năng sửa chữa các sai sót khác, dẫn đến việc không bảo vệ hiệu lực của phán quyết một cách tốt nhất.

2.1.2 Hư ng hoàn thiện đối v i pháp luật Việt Nam

Pháp luật trọng tài Việt Nam cần cải thiện cơ chế bảo vệ hiệu lực chung thẩm của phán quyết trọng tài bằng cách mở rộng khả năng khắc phục sai sót theo Khoản 7 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại Cụ thể, cần áp dụng cơ chế này không chỉ cho “sai sót tố tụng” mà còn cho các sai sót khác có thể khắc phục Việc này sẽ giúp cơ chế khắc phục sai sót được áp dụng cho mọi sai sót của Trọng tài, đảm bảo phán quyết trọng tài duy trì giá trị chung thẩm của nó.

Theo Khoản 4 Điều 34 Luật Mẫu UNCITRAL, khi được yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án có thể hoãn thủ tục hủy phán quyết trong một khoảng thời gian nhất định để Hội đồng trọng tài có cơ hội tiếp tục tố tụng hoặc thực hiện các hoạt động khác nhằm loại trừ cơ sở hủy phán quyết Quy định này không chỉ giới hạn ở sai sót về tố tụng mà còn áp dụng cho sai sót về nội dung, cho thấy mục đích là để khắc phục sai sót trong tố tụng trọng tài Điều này chứng tỏ rằng sai sót trong tố tụng trọng tài có thể bao gồm cả sai sót về thủ tục và nội dung, đồng thời cũng nhấn mạnh cơ chế khắc phục sai sót trong phán quyết trọng tài.

Những vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện về hiệu lực của sự việc đã đƣợc giải quy t bằng phán quy t trọng tài

đã đƣợc giải quy t bằng phán quy t trọng tài

2.2.1 Những vấn đề ất cập

Chƣa có quy định ghi nhận hiệu lực của sự việc đã đƣợc giải quy t bằng phán quy t trọng tài (Res judicata).

Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam hiện nay chưa có quy định rõ ràng về hiệu lực của sự việc đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài, điều này tạo ra sự thiếu sót so với quy định của pháp luật tố tụng dân sự Trong khi pháp luật dân sự quy định rõ ràng về việc giải quyết sự việc qua bản án, quyết định của Tòa án, dẫn đến các hậu quả như thẩm phán trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ, thì pháp luật trọng tài lại không có quy định tương ứng Điều này gây ra bất cập trong việc áp dụng và thực thi các phán quyết trọng tài, làm cho hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và không phù hợp với thực tiễn.

Việc ghi nhận rõ ràng giá trị và hiệu lực của phán quyết trọng tài là cần thiết để ngăn chặn tình trạng tranh chấp đã được giải quyết lại bị xét xử nhiều lần, gây ra sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa các phán quyết Khi pháp luật trọng tài Việt Nam chính thức công nhận hiệu lực này, các vụ việc được giải quyết bằng phán quyết trọng tài sẽ tránh nguy cơ bị xem xét lại bởi Tòa án hoặc trọng tài, từ đó bảo đảm sự nhanh chóng và hiệu quả của hoạt động tài phán Điều này không chỉ giúp duy trì một môi trường pháp lý lành mạnh mà còn giảm thiểu số lượng vụ kiện, tiết kiệm thời gian và công sức cho các bên liên quan Do đó, việc ghi nhận hiệu lực của sự việc được giải quyết bằng phán quyết trọng tài là rất quan trọng cho sự phát triển của hệ thống trọng tài tại Việt Nam.

Việc ghi nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài là rất cần thiết, và điều này đã được Hiệp hội Luật quốc tế đề xuất trong các khuyến nghị liên quan đến trùng tố và các sự việc cụ thể.

37 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 2.

38 Albert Jan Van Den Berg (2001), Trọng t i quốc tế v tò n quốc gi : Câu chuyện hông hồi ết, Kluwer Law International, tr.02.

Đỗ Văn Đại (2021) nhấn mạnh rằng để tăng cường hiệu quả của trọng tài quốc tế, các phán quyết cần có tác dụng pháp lý rõ ràng trong khuôn khổ tố tụng Ông khuyến nghị rằng trọng tài có thể dựa vào các quyết định đã được ban hành trước đó mà không cần phải xem xét lại những vấn đề đã được giải quyết, từ đó nâng cao tính nhất quán và hiệu lực của các phán quyết trọng tài.

Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam hiện nay chưa công nhận hiệu lực của các sự việc đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài, tạo ra một "kẽ hở" lớn Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ xâm phạm đến hiệu lực của các phán quyết trọng tài, ảnh hưởng đến tính ổn định và uy tín của hệ thống trọng tài thương mại.

2.2.2 Hư ng hoàn thiện đối v i pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, cần ghi nhận hiệu lực của sự việc đã đƣợc giải quy t bằng phán quy t trọng tài.

Nghiên cứu pháp luật trọng tài quốc tế cho thấy nhiều quốc gia công nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài, với hệ quả tự động gắn liền Điển hình là Pháp, theo Điều 1484 Bộ luật Tố tụng dân sự, phán quyết trọng tài có hiệu lực ngay khi được tuyên Chuyên gia Pháp khẳng định rằng hệ quả này phát sinh tự động mà không cần thủ tục bổ sung Nhiều quốc gia theo truyền thống dân luật như Áo, Đức cũng có quy định tương tự, xác nhận phán quyết trọng tài có hiệu lực như một bản án của tòa án Ngoài ra, các quốc gia theo truyền thống thông luật như Anh cũng có quy định về hiệu lực của phán quyết trọng tài, thể hiện sự đồng nhất trong việc công nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài trên toàn cầu.

40 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 12.

41 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 2.

42 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 5.

Theo Điều 607 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 1055 Bộ luật Tố tụng dân sự Đức (sửa đổi năm 1997), phán quyết trọng tài có hiệu lực khi được ban hành dựa trên thỏa thuận trọng tài giữa các bên, liên quan đến các vấn đề đã được giải quyết trong mối quan hệ giữa họ và các bên đại diện Nghiên cứu cho thấy lý thuyết về hiệu lực của các vụ việc đã được giải quyết được thiết lập tại nhiều quốc gia theo hệ thống thông luật như Anh, Ireland, Canada, Ấn Độ, Úc và New Zealand.

Khi nghiên cứu pháp luật tại các nước châu Mỹ Latinh, có thể thấy rằng hiệu lực của sự việc được giải quyết được quy định rõ ràng trong các đạo luật mới như Điều 31 Luật Trọng tài Brazil và Điều 83 Luật Trọng tài Peru Trong trường hợp luật không có quy định cụ thể, các tác giả cũng đề xuất hướng xử lý tương tự về hiệu lực của sự việc được giải quyết bằng phán quyết trọng tài, như ở Argentina, Colombia, Guatemala và Chi Lê.

Hiệp hội Luật quốc tế đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc công nhận giá trị của các phán quyết trọng tài trong giải quyết tranh chấp Vào năm 2006, Hiệp hội đã đưa ra các khuyến nghị liên quan đến trùng tố và các vụ việc được giải quyết bằng trọng tài, trong đó nhấn mạnh rằng để nâng cao hiệu quả và mục đích của trọng tài quốc tế, các phán quyết trọng tài cần có hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề trong khuôn khổ tố tụng trọng tài sau này.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam:

Việc ghi nhận hiệu lực của sự việc đã được giải quyết cho phán quyết trọng tài là rất quan trọng, nhằm khẳng định tính chất tài phán và giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài tương đương với phán quyết của Tòa án Nếu pháp luật tố tụng dân sự công nhận hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án, thì pháp luật trọng tài cũng cần có quy định tương tự cho phán quyết trọng tài Điều này giúp ngăn chặn tình trạng các bên lợi dụng quyền khởi kiện để yêu cầu giải quyết lại những nội dung đã được trọng tài xử lý Các giải pháp cần thiết để thực hiện điều này cần được xem xét và áp dụng.

44 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 5.

45 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 6.

46 Đỗ Văn Đại (2021), tlđd (16), tr 6.

Một là , giải thích các quy định hiện có theo hướng ghi nhận hiệu lực của sự việc đ đƣ c giải quyết bằng phán quyết trọng tài.

Luật Trọng tài thương mại 2010 chưa quy định rõ về hiệu lực phán quyết trọng tài, do đó, cần hiểu rằng hiệu lực này bao gồm việc cấm yêu cầu giải quyết lại vụ tranh chấp đã được phán quyết Điều này có nghĩa là phán quyết trọng tài có hiệu lực ngay từ thời điểm ban hành Việc giải thích này không chỉ cần thiết mà còn phù hợp với thực trạng pháp luật Việt Nam, giúp tối đa hóa hiệu lực của phán quyết trọng tài và thúc đẩy sự phát triển của trọng tài thương mại.

Hai là , bổ sung quy định mới theo hướng ghi nhận hiệu lực của sự việc đ đƣ c giải quyết bằng phán quyết trọng tài.

Hầu hết các hệ thống pháp luật trọng tài trên thế giới đều công nhận phán quyết trọng tài có hiệu lực và cấm tái giải quyết tranh chấp đã được quyết định Điều này rất quan trọng cho sự vận hành hiệu quả của trọng tài Hiệu lực của phán quyết trọng tài cần được ghi nhận trong Luật Trọng tài thương mại, ngang hàng với giá trị của các bản án và quyết định của Tòa án Việc này đảm bảo tính cạnh tranh và ưu thế của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hiện nay.

Thứ hai, cần có cơ ch xử lý hành vi xâm phạm hiệu lực sự việc đã đƣợc giải quy t của phán quy t trọng tài.

Việc ghi nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài sẽ không đạt hiệu quả nếu không có cơ chế thực thi phù hợp Do đó, pháp luật trọng tài Việt Nam cần quy định rõ ràng về cách xử lý các trường hợp mà sự việc đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài nhưng vẫn tiếp tục được xem xét lại bởi trọng tài hoặc Tòa án Điều này có thể được thực hiện thông qua các phương án cụ thể.

Một là , cần có quy định về xác định sự việc đ đƣ c giải quyết bằng phán quyết trọng tài.

Trong tố tụng Tòa án và tố tụng trọng tài, việc xác định rõ nội dung tranh chấp được giải quyết bằng phán quyết có hiệu lực là rất quan trọng để tránh việc giải quyết lại Phần nội dung tranh chấp thường được thể hiện trong quyết định của phán quyết, tuy nhiên, việc chỉ xem xét phần quyết định là không đủ Thực tế cho thấy, không phải lúc nào cũng có phần quyết định trong phán quyết trọng tài, và nhiều nội dung giải quyết tranh chấp có thể không nằm trong phần này Do đó, để xác định chính xác sự việc đã được giải quyết, cần xem xét toàn bộ phán quyết và các giải pháp mà trọng tài đã đưa ra cho tranh chấp giữa các bên.

Hai là , cần có quy định cụ thể về cơ chế xử lý hành vi xâm phạm hiệu lực sự việc đ đƣ c giải quyết của phán quyết trọng tài.

Pháp luật trọng tài Việt Nam hiện chưa quy định rõ ràng về việc xử lý các vụ việc đã được giải quyết bằng phán quyết trọng tài nhưng vẫn bị trọng tài hoặc Tòa án xem xét lại Do đó, cần thiết phải bổ sung các hướng dẫn cụ thể để đảm bảo sự thống nhất trong cách xử lý những trường hợp này.

Những vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện về hiệu lực của phán quy t trọng tài trong mối quan hệ với bên thứ ba

t trọng tài trong mối quan hệ với bên thứ ba

2.4.1 Những vấn đề bất cập

Việc khai thác cơ chế hủy phán quyết trọng tài nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba bị xâm phạm bởi phán quyết này vẫn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam hiện hành công nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài đối với các bên có thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên, phán quyết này có thể xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người thứ ba không tham gia tố tụng Người thứ ba không có thỏa thuận trọng tài nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi phán quyết, dẫn đến việc phán quyết này vi phạm công lý và không thể chấp nhận Do đó, cần có cơ chế cụ thể và hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba bị xâm phạm Trong trường hợp này, Tòa án có thể áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 68 để hủy phán quyết trọng tài sau khi xác minh và thu thập chứng cứ Tuy nhiên, việc sử dụng cơ chế hủy phán quyết trọng tài để bảo vệ người thứ ba vẫn tồn tại nhiều bất cập.

Pháp luật trọng tài thương mại hiện hành chưa cho phép bên thứ ba chủ động tiến hành thủ tục chống lại sự xâm phạm của phán quyết trọng tài Mặc dù Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ghi nhận khả năng hủy phán quyết trọng tài khi phán quyết đó xâm phạm lợi ích hợp pháp của người thứ ba, nhưng theo Luật Trọng tài thương mại, quyền yêu cầu hủy phán quyết chỉ được trao cho "một bên" trong tranh chấp.

Theo khoản 1 Điều 69 Luật Trọng tài thương mại, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, bên có căn cứ có quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết nếu Hội đồng trọng tài đã ra quyết định vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 68 Tuy nhiên, người thứ ba, không phải là bên trong tranh chấp và không tham gia vào tố tụng, không có quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết để bảo vệ quyền lợi của mình Việc khởi động cơ chế hủy phán quyết để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba hoàn toàn phụ thuộc vào các bên trong tranh chấp, điều này tạo ra sự bất hợp lý khi các bên có thể lợi dụng quy trình này vì lợi ích riêng mà không quan tâm đến quyền lợi của người thứ ba Nếu không bên nào trong tranh chấp đưa phán quyết trọng tài ra tòa trong thời hạn quy định, người thứ ba sẽ không thể hưởng lợi từ các quy định về hủy phán quyết trọng tài hiện hành, cho thấy sự phụ thuộc của họ vào quyết định của các bên tranh chấp là không thuyết phục.

Việc pháp luật trọng tài thương mại cho phép một bên trong tranh chấp yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong khi phán quyết đó lại xâm phạm quyền lợi của bên thứ ba là một mâu thuẫn Như đã nêu trong vụ việc ở Phần 1.3.2 của Luận văn, việc Trọng tài công nhận thỏa thuận bù trừ giữa các bên đã xâm phạm đến lợi ích của bên thứ ba.

Trong quá trình tố tụng trọng tài, quyền và lợi ích của Ngân hàng không được xem xét, dẫn đến việc một bên viện dẫn hành vi xâm phạm của chính mình để yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài Hành động này làm biến tướng mục đích của chế định hủy phán quyết trọng tài, nhằm bảo vệ lợi ích của người thứ ba theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại.

Việc xác định sự xâm phạm của phán quyết trọng tài đối với bên thứ ba phụ thuộc vào thông tin do một bên trong tranh chấp cung cấp cho Tòa án Chẳng hạn, công ty Sinh Phú đã chủ động nộp tài liệu liên quan đến giao dịch thế chấp để yêu cầu hủy phán quyết Điều này tạo ra nguy cơ rằng một bên có thể che giấu thông tin hoặc cung cấp thông tin theo hướng có lợi cho mình, ảnh hưởng đến quyết định của Tòa án Do đó, chế định hủy phán quyết vì xâm phạm đến bên thứ ba không đạt được mục đích bảo vệ cần thiết.

71 Đỗ Văn Đại (2018), tlđd (36), tr.144. người thứ ba mà trở thành công cụ cho một bên đạt đư c mục đ ch hủy phán quyết bất l i cho mình.

Bất cập trong việc bên thứ ba sử dụng hiệu lực của sự việc đã được giải quyết để yêu cầu không giải quyết lại một vụ việc đã được phán quyết bằng trọng tài trước đó là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng.

Bên thứ ba không được hưởng hiệu lực của phán quyết trọng tài, do đó không thể ngăn chặn một bên khác khởi kiện họ về nội dung tranh chấp đã được giải quyết Trong trường hợp này, bên thứ ba và bên khác (có thể là bên trong vụ tranh chấp trước) có thể tranh chấp toàn bộ hoặc một phần nội dung của phán quyết trọng tài Tuy nhiên, họ không có quyền yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án từ chối thẩm quyền giải quyết dựa trên hiệu lực của phán quyết trọng tài (“Res judicata”) Điều này buộc họ phải tham gia vào quy trình tố tụng mà biết rõ sẽ không mang lại kết quả, đồng thời làm tốn thời gian và công sức của các cơ quan tài phán trong việc xác định thẩm quyền của mình.

Vấn đề về hiệu lực phán quyết trọng tài đối với bên thứ ba là một chủ đề quan trọng trong Luật Trọng tài thương mại Cần xác định liệu bên thứ ba có nên được hưởng hiệu lực của phán quyết này và mức độ hưởng là bao nhiêu Nếu bên thứ ba muốn khởi kiện các nội dung tranh chấp liên quan đang được giải quyết bởi trọng tài, cần xem xét cách thức giải quyết trong trường hợp này Hơn nữa, bên thứ ba có thể sử dụng hiệu lực của phán quyết trọng tài để yêu cầu Trọng tài hoặc Tòa án không xem xét lại một tranh chấp đã được giải quyết hay không Những vấn đề này vẫn đang là thách thức trong việc áp dụng các quy định của Luật Trọng tài thương mại.

2.4.2 Hư ng hoàn thiện đối v i pháp luật Việt Nam

Các hệ thống pháp luật hiện nay rất chú trọng đến hiệu lực của phán quyết trọng tài đối với bên thứ ba, điều này không chỉ giúp giải quyết hiệu quả các tranh chấp trong các hợp đồng nhiều bên mà còn bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba ngay tình khi có sự xâm phạm đến phán quyết trọng tài Hơn nữa, việc này còn giảm thiểu tỷ lệ phát sinh các phán quyết xung đột và tạo điều kiện cho Tòa án hoặc Hội đồng trọng tài có quyền công nhận hiệu lực của phán quyết mà không cần tiến hành thủ tục tố tụng khác Để đạt được điều này, pháp luật trọng tài Việt Nam cần bổ sung các quy định phù hợp.

Thứ nhất, cần xây dựng cơ ch riêng bảo vệ người thứ ba bị xâm phạm bởi phán quy t trọng tài.

Trước những bất cập trong pháp luật Việt Nam, cần thiết phải thiết lập cơ chế bảo vệ người thứ ba trước các phán quyết trọng tài có thể gây tác động tiêu cực đến họ Hiệu lực của phán quyết trọng tài nên chỉ áp dụng cho các bên đã thỏa thuận, tránh việc ràng buộc và gây bất lợi cho bên thứ ba không liên quan.

Một trong những phương án hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba là cho phép họ yêu cầu không công nhận phán quyết trọng tài khi phán quyết đó xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của họ Điều này có nghĩa là chúng ta cần xây dựng một cơ chế cho phép người thứ ba yêu cầu vô hiệu hóa phán quyết liên quan đến họ Trong cơ chế này, Tòa án sẽ phải xem xét nội dung liên quan đến người thứ ba, không chỉ phủ nhận giá trị của phán quyết mà còn đánh giá lại nội dung để xác định quyền và nghĩa vụ của họ.

Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài là Tòa án giải quyết yêu cầu không công nhận phán quyết đối với bên thứ ba Bên cạnh đó, cần xem xét việc cho phép bên thứ ba quyền phản tố khi bị khởi kiện dựa trên nội dung phán quyết trọng tài, đặc biệt khi phán quyết gây bất lợi cho họ và buộc họ thực hiện nghĩa vụ không công bằng từ một giao dịch rủi ro trước đó, như giao dịch bảo lãnh Điều này giúp bên thứ ba chủ động bảo vệ quyền lợi của mình khi không tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài trước đó.

72 Đỗ Văn Đại (2018), tlđd (36), tr.151.

Cần thiết phải có cơ chế cho phép bên thứ ba áp dụng hiệu lực của phán quyết trọng tài để tránh phát sinh các vụ kiện độc lập với nội dung tranh chấp tương tự Việc này giúp ngăn chặn tình trạng kiện tụng chồng chéo về nội dung và thẩm quyền Tuy nhiên, hiện tại, cách áp dụng các quy định của Luật Trọng tài thương mại tại Tòa án vẫn chưa cho phép bên thứ ba thực hiện hiệu quả quyền này, dẫn đến việc không thể ngăn chặn các vụ kiện mới liên quan đến sự việc đã được giải quyết trước đó.

Ngày đăng: 21/04/2022, 21:18

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w