1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan hệ giữa việt nam liên bang nga 1992 đến nay

49 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 72,14 KB

Cấu trúc

  •  NAM ĐÔNG - QUẾ ANH, FTA giữa EAEU và Việt Nam tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế song phương, Báo Nhân dân, ngày 20/10/2018

  • 1. Thông tin đề tài.

  • 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.

  • 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.

  • 4. Đối tượng nghiên cứu.

  • 5. Phạm vi nghiên cứu

  • 1. Các hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Liên bang Nga.

  • 2. Đánh giá khái quát hoạt động thương mại hai nước trước năm 1992.

  • 3. Nghiên cứu thực trạng hoạt động thương mại giữa hai nước từ 1992 – nay

  • 4. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt – Nga đến tầm nhìn 2020.

  • 6. Phương pháp nghiên cứu.

  • 7. Kết cấu đề tài.

  • CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA TRƯỚC NĂM 1992.

    • 1.1 Cơ sở quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga

    • 1.2 Đặc điểm kinh tế Liên bang Nga.

  • CHƯƠNG II. QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA, NHÌN TỪ HAI PHÍA

    • 2.1 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam.

    • 2.2 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Liên bang Nga.

  • Chương III. Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Việt Nam – Liên bang Nga.

    • 3.1 Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU FTA)

    • 3.2 Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực thương mại.

    • 3.3 Hợp tác trên lĩnh vực đầu tư.

  • Chương IV. Thành Tựu, Hạn chế và triển vọng cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga.

    • 4.1 Thách tựu và Hạn chế.

    • 4.2 Triển vọng.

  • KẾT LUẬN

Nội dung

Trước một sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn sự phát triển quan hệ Việt – Nga, cần phải có một nghiên cứu có thể khái quát lại quá trình phát triển quan hệ thương mại kinh tế giữa Việt Nam và Liên bang Nga, nghiên cứu có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Là luận cứ xác thực phục vụ cho việc phát triển quan hệ thương mại Việt – Nga trong giai đoạn mới nhất là trong bối cảnh mối quan hệ hai nước được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện, cũng như là Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào Liên minh kinh tế Á – Âu do Nga sáng lập.

Thông tin đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc kết nối giữa các quốc gia và khu vực trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết Sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tạo động lực cho tăng trưởng, đồng thời nâng cao vai trò của các thể chế đa phương và khu vực Điều này đi kèm với sự phát triển ý thức độc lập, tự chủ và tự cường của các dân tộc Do đó, hòa bình, ổn định và hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại là yếu tố then chốt để các quốc gia cùng nhau phát triển.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại Hoạt động này được xem là động lực then chốt cho sự phát triển kinh tế quốc dân, với định hướng đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cần theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với điều kiện của đất nước Cần tích cực thâm nhập vào các thị trường quốc tế, đặc biệt là các trung tâm kinh tế lớn, duy trì và mở rộng thị phần ở những thị trường quen thuộc, đồng thời tận dụng mọi cơ hội để mở rộng thị trường mới Quá trình hiện đại hóa theo phương thức kinh doanh cũng cần được thực hiện để thích ứng với xu thế mới của thương mại toàn cầu.

Trong thế kỷ XX, Liên Xô là thị trường quan trọng trong thương mại quốc tế của Việt Nam, đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ và phát triển kinh tế nước này Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Liên bang Nga kế thừa mối quan hệ kinh tế với Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ thương mại giữa hai nước Tuy nhiên, bối cảnh khó khăn đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong kim ngạch thương mại, từ 70-80% xuống chỉ còn 2% Hàng hóa Việt Nam mất khả năng cạnh tranh trên thị trường Nga, gây ra nhiều rủi ro Dưới chính sách "Hướng Đông" và sự lãnh đạo của Tổng thống V Putin, quan hệ Việt - Nga đã có những bước phát triển mới, mở ra tiềm năng lớn cho hợp tác song phương trong tương lai.

Trong bối cảnh quan hệ Việt – Nga đang phát triển mạnh mẽ và được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện, việc nghiên cứu quá trình phát triển quan hệ thương mại kinh tế giữa hai quốc gia trở nên cấp bách Nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang tính thực tiễn, cung cấp luận cứ xác thực cho việc thúc đẩy quan hệ thương mại Việt – Nga trong giai đoạn mới, đặc biệt khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào Liên minh kinh tế Á – Âu do Nga sáng lập.

Lịch sử nghiên cứu đề tài

Nhóm tư liệu về văn kiện, phát biểu của lãnh đạo về quan điểm chính sách, đối ngoại của Việt Nam và Nga

- Đảng Cộng sản Việt Nam: Các văn kiện Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Văn kiện Đại hội Đảng là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Qua đó, chúng ta có thể phân tích và khai thác các nội dung nhằm hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các cường quốc, đặc biệt là Liên bang Nga.

- Sở Ngoại vụ, thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam: Tuyên bố chung Việt – Nga, http://www.mofahcm.gov.vn/mofa/nr040807104143/nr040807105001/ns081 030094456/

Tuyên bố chung là những văn kiện quan trọng thể hiện sự hợp tác và trao đổi giữa Việt Nam và Nga, được ký kết trong các chuyến thăm chính thức của lãnh đạo hai nước Những nội dung trong các tuyên bố này không chỉ nhằm phát triển và thúc đẩy quan hệ song phương mà còn phản ánh từng giai đoạn phát triển của mối quan hệ này Chúng tôi sử dụng các bản Tuyên bố chung như một cơ sở để nghiên cứu và khai thác các quan điểm nhằm tăng cường quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nga.

Trang thông tin điện tử của Đại sứ quán Nga tại Việt Nam (https://vietnam.mid.ru/web/vietnam-vn/ve-ai-su-quan) cung cấp những tin tức quan trọng về các chuyến thăm của lãnh đạo Nga đến Việt Nam, cùng với các bài phát biểu và báo cáo liên quan Đây là nguồn tài liệu hữu ích để tìm hiểu về quan điểm chính sách đối ngoại của Nga, giúp người đọc nắm bắt được thông tin chính xác và cập nhật về mối quan hệ giữa hai quốc gia.

Nhóm tư liệu các sách chuyên khảo về quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga

Trịnh Thị Thanh Thủy đã hoàn thành luận án tiến sĩ kinh tế vào năm 2007, nghiên cứu về quá trình phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại giữa hai quốc gia, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của hội nhập kinh tế trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại song phương.

- Lê Xuân Bá, 2004, Hội nhập kinh tế áp lực cạnh tranh trên thị trường và chính sách của một số nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.

- Bộ Ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa vấn đề và giải đáp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Trần Thị Minh Hạnh (1998) đã nghiên cứu một số giải pháp nhằm khôi phục và phát triển thị trường Liên bang Nga trong đề tài khoa học cấp Bộ tại Viện Nghiên cứu Thương mại thuộc Bộ Thương mại Nghiên cứu này tập trung vào việc đề xuất các chiến lược hiệu quả để nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tại Nga.

- Võ Đại Lược – Lê Bộ Lĩnh, 2005, Quan hệ Việt – Nga trong bối cảnh quốc tế mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

Nhóm tư liệu Các bài nghiên cứu, khảo luận trên các tạp chí chuyên đề về đối ngoại

- Bùi Khắc Bút, 2002, Nhìn lại 200 năm nền quan hệ ngoại giao Nga và nửa thế kỷ quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt Việt – Nga.

- Nguyễn Phúc Khanh, 2002, Trang mới trong quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga, Tạp chí kinh tế đối ngoại, số 1.

- Bùi Huy Khoát, 1995, Quan hệ kinh tế - Liên bang Nga thực trạng và triển vọng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

- Nguyễn Quang Thuấn, 2001, Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Liên bang Nga : đối tác chiến lược trong thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 1.

Các nguồn tư liệu thống kê

Chúng tôi đã sử dụng các nguồn tư liệu quan trọng để phục vụ cho đề tài nghiên cứu, bao gồm số liệu thống kê về kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Nga Các thông tin này được thu thập từ các Cổng thông tin điện tử như Hải Quan Việt Nam (https://www.customs.gov.vn), Tổng cục thống kê (https://www.gso.gov.vn), và Cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài (https://dautunuocngoai.gov.vn/fdi).

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu mối quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết để hiểu rõ sự phát triển và tiềm năng hợp tác giữa hai quốc gia Bài viết sẽ phân tích các yếu tố lý luận và thực tiễn ảnh hưởng đến quan hệ thương mại, đồng thời đánh giá những cơ hội và thách thức mà Việt Nam và Nga gặp phải trong quá trình hội nhập Thông qua việc nghiên cứu này, chúng ta có thể nhận diện những chiến lược phù hợp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế song phương, góp phần vào sự phát triển bền vững của cả hai nền kinh tế.

Từ năm 1992 đến 2018, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga đã có những bước phát triển đáng kể, thể hiện qua việc gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và mở rộng lĩnh vực hợp tác Các thành tựu nổi bật bao gồm việc ký kết nhiều hiệp định thương mại và đầu tư, cũng như việc thúc đẩy hợp tác trong các ngành công nghiệp chủ chốt như năng lượng, nông nghiệp và công nghệ thông tin Bên cạnh đó, Việt Nam đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng và duy trì mối quan hệ thương mại bền vững, từ đó góp phần nâng cao vị thế kinh tế của cả hai quốc gia trên trường quốc tế.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic.

Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và phương pháp so sánh.

Kết cấu đề tài

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung đề tài được chia làm 4 chương:

Chương I Khái quát quan hệ Việt – Nga trước năm 1992

Chương II Quan hệ Việt – Nga nhìn từ hai phía.

Chương III Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Việt Nam – Liên bang Nga.

Chương IV Thành Tựu, Hạn chế và triển vọng cho quan hệ hợp tác ViệtNam – Liên bang Nga.

KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA TRƯỚC NĂM 1992

Cơ sở quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga

Năm 1950, Việt Nam và Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao, nhưng do cuộc kháng chiến chống Pháp, quan hệ kinh tế chủ yếu dừng lại ở việc viện trợ trang thiết bị quân sự Đến năm 1955, quan hệ thương mại chính thức bắt đầu, dẫn đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước tăng nhanh qua các năm Hoạt động viện trợ và đầu tư của Liên Xô vào Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ, góp phần tăng khối lượng hàng hóa và nguyên vật liệu trao đổi giữa hai bên.

Từ năm 1955 đến 1975, quan hệ thương mại giữa Liên Xô và Việt Nam chủ yếu diễn ra theo chiều một chiều, với hàng hóa chủ yếu được xuất khẩu từ Liên Xô sang Việt Nam do bối cảnh đặc thù trong nước.

Từ năm 1976 đến 1991, quan hệ thương mại giữa Liên Xô và Việt Nam diễn ra hai chiều thông qua các Hiệp định thương mại và Nghị định thư ký kết hàng năm Tuy nhiên, hàng hóa từ Liên Xô sang Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn về khối lượng và giá trị Cụ thể, kim ngạch buôn bán hai chiều đã tăng từ 5 triệu Rub vào năm 1955 lên gấp 13 lần, đạt mức cao vào năm 1960.

Giai đoạn 1976-1980, khối lượng trao đổi hàng hóa giữa Liên Xô và Việt Nam tăng mạnh, đạt tổng khối lượng bằng 20 năm trước đó Trong những năm 80 tiếp theo, sự gia tăng này tiếp tục diễn ra, đạt đỉnh cao nhất trong giai đoạn 1986-1990 với kim ngạch lên tới 10.192,8 triệu Rub.

Hoạt động trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và Liên Xô diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa, dựa trên nghị định thư đã ký kết, với giá cả hàng hóa được xác định ổn định theo thỏa thuận Mặc dù kim ngạch trao đổi song phương có tăng, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên do nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn và lạc hậu Nguyên nhân chính là cơ chế không phù hợp, thiếu sự chủ động và sáng tạo từ các doanh nghiệp, cùng với việc chưa khai thác được tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Đặc điểm kinh tế Liên bang Nga

Liên bang Nga, quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới lên tới 17,1 triệu km², trải dài trên hai châu lục là châu Âu và châu Á Khoảng 1/3 diện tích của Nga nằm ở châu Âu, trong khi 2/3 còn lại thuộc về châu Á Quốc gia này có biên giới tiếp giáp với nhiều nước, bao gồm Trung Quốc ở phía Đông và phía Nam, CHDCND Triều Tiên ở phía Đông Nam, Mông Cổ, Ca-dắc-xtan, A-đéc-bai-gian và Gru-zia ở phía Nam, U-crai-na ở phía Tây Nam, cùng với Bê-la-rút, Lát-via, Ét-tô-nia, Phần Lan và Na Uy ở phía Tây Ngoài ra, Nga còn giáp với các đại dương như Thái Bình Dương, Bắc Băng Dương, biển Ban tích và Biển Đen.

Cơ cấu hành chính lãnh thổ của Nga bao gồm 89 đơn vị chính thức, được gọi là các chủ thể liên bang Trong đó, có 21 nước cộng hòa, 49 tỉnh, 6 vùng, 1 tỉnh tự trị, 10 khu tự trị, và 2 thành phố trực thuộc Trung ương là Mát-xcơ-va và Xanh Pê-téc-bua.

1 Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của Việt Nam 1985-1995.

Liên bang Nga hiện có dân số khoảng 144,5 triệu người, xếp thứ 6 trên thế giới Đây là một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo, phản ánh sự phong phú trong văn hóa và truyền thống của người dân nơi đây.

100 sắc tộc trong đó sắc tộc Nga là chiếm đa số.

Nước Nga sở hữu một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, bao gồm khí đốt, dầu mỏ, than gỗ, muối mỏ, kim cương, uranium, nhôm, đồng, vàng và thiếc.

Liên bang Nga là một nhà nước cộng hòa, với Tổng thống giữ vai trò nguyên thủ quốc gia và đảm bảo thực thi Hiến pháp trên toàn lãnh thổ Quyền hành pháp được thực hiện bởi Chính phủ liên bang, do Thủ tướng lãnh đạo Quốc hội liên bang, gồm hai viện là Hội đồng liên bang (thượng viện) và Duma quốc gia (hạ viện), nắm giữ quyền lập pháp Hệ thống chính trị của Liên bang Nga được xây dựng theo mô hình đa nguyên, tương tự như các nước phương Tây.

Kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, Nga đã kế thừa 70% lãnh thổ, 61% dân số, 90% tài nguyên dầu khí, 80% vũ khí hạt nhân và 75% tiềm lực công nghiệp của Liên Xô, cùng với hệ thống hạ tầng phát triển và nền khoa học kỹ thuật vững mạnh Hầu hết các viện nghiên cứu và trường đại học lớn của Liên Xô đều nằm trên lãnh thổ Nga, giúp nước này sở hữu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo và trình độ học vấn cao Là một trong hai quốc gia có tiềm lực vũ khí hạt nhân mạnh nhất và là thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nga có những thuận lợi lớn để chuyển mình sang một thời kỳ phát triển mới.

Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nước Nga đã rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, dẫn đến sự tụt hậu so với các quốc gia phát triển Những biểu hiện của khủng hoảng này được thể hiện rõ ràng qua nhiều khía cạnh khác nhau.

Kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự phân chia thành các quốc gia độc lập, dẫn đến sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các khu vực Sự giải thể của Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV, với Liên Xô là trụ cột, đã làm đứt gãy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại quan trọng.

Mục tiêu của Nga khi trở thành một thực thể độc lập trên trường quốc tế là xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung và chuyển sang nền kinh tế thị trường, đồng thời thúc đẩy cải cách dân chủ theo mô hình phương Tây Tuy nhiên, sau vài năm thực hiện, Nga không chỉ không thoát khỏi khủng hoảng mà còn rơi vào một cuộc khủng hoảng mới.

Diễn biến chính trị nội bộ của Liên Xô rất phức tạp, với những mâu thuẫn và đấu tranh quyền lực giữa các phe phái Cuộc tranh luận giữa B Yelsin, người ủng hộ việc thành lập nước cộng hòa tổng thống, và phó tổng thống Ruskoi – Khasbulatov, chủ tịch Xô viết tối cao, người muốn thành lập cộng hòa nghị viện, đã diễn ra quyết liệt Dù B Yelsin giành chiến thắng và Hiến pháp 1993 được thông qua, đưa nước Nga trở thành nước cộng hòa Tổng thống, nhưng mâu thuẫn giữa các lực lượng chính trị vẫn tiếp tục âm ỉ trong nửa sau thập niên 90.

Xã hội đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ các khủng hoảng chính trị và thất bại kinh tế, dẫn đến sự phân hóa sâu sắc trong tư tưởng và thái độ của người dân Tình trạng bất ổn chính trị cùng với khoảng trống pháp luật đã tạo điều kiện cho tội phạm và bạo lực gia tăng, gây thiếu an toàn cho cộng đồng Hơn nữa, các mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo trở thành nguy cơ tiềm ẩn cho chủ nghĩa ly khai, ảnh hưởng trực tiếp đến an sinh xã hội và sự thống nhất của quốc gia.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, đặc điểm chủ yếu của Liên bang Nga đã ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và quan hệ đối ngoại của Nga.

Nền kinh tế đang chuyển mình từ mô hình quản lý kế hoạch hóa, quan liêu với sự chi phối chủ yếu của Nhà nước sang cơ chế quản lý theo thị trường, tương tự như các quốc gia phương Tây Sự chuyển đổi này không chỉ thúc đẩy tính linh hoạt và sáng tạo trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Nhà nước hiện nay đang chuyển sang vai trò định hướng nhằm khai thác các thế mạnh của quốc gia, trong khi đó, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trở thành lực lượng năng động chủ yếu trên thị trường.

Cơ cấu nền kinh tế đang trải qua sự chuyển biến mạnh mẽ với sự thay đổi về chế độ sở hữu, nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân Tư nhân hóa đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ động trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, nơi mà trước đây chỉ có doanh nghiệp nhà nước nắm giữ độc quyền.

QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA, NHÌN TỪ HAI PHÍA

Quan điểm, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam

2.1.1 Chính sách của Nga đối với Việt Nam (1991 - nay).

Từ năm 1991 đến nay, chính sách của Nga đối với Việt Nam đã trải qua nhiều biến động trong chưa đầy ba thập niên Có thể chia giai đoạn này thành hai thời kỳ chính: từ 1991 đến 1993 và từ 1994 đến nay, phản ánh sự thay đổi trong mối quan hệ giữa hai quốc gia.

Giai đoạn 1991 - 1993 là thời kỳ có nhiều biến động trong chính sách đối ngoại của Nga, đánh dấu sự chuyển tiếp từ xã hội cũ sang xã hội mới Thời gian này có ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ giữa Nga và Việt Nam.

Mặc dù Nga chính thức tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô vào ngày 24/8/1991, nhưng đến cuối năm 1991, nước này vẫn duy trì chính sách đối ngoại theo khuôn khổ Liên Xô Chính sách này phản ánh "tư duy chính trị mới" của Mikhail Gorbachev, trong đó nhấn mạnh việc từ bỏ lợi ích giai cấp công nhân, giảm giá trị giải phóng của chủ nghĩa xã hội và đề cao lợi ích chung toàn nhân loại Mục tiêu là thực hiện "phi tư tưởng hóa" các quan hệ quốc tế để đạt được sự hòa dịu với phương Tây, đồng thời hy sinh các đồng minh nhằm nhanh chóng đưa Liên Xô hòa nhập vào hệ thống "xã hội văn minh".

Sau khi lên cầm quyền nước Nga với tư cách là quốc gia kế thừa Liên Xô

Năm 1992, mục tiêu chính là xóa bỏ hoàn toàn cơ sở kinh tế - xã hội của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) và thúc đẩy sự hội nhập nhanh chóng của Liên bang Nga vào cộng đồng quốc tế.

Trong bối cảnh chuyển đổi sang chủ nghĩa tư bản ở châu Âu và sự ảnh hưởng của Mỹ cùng các nước phương Tây, B.N Yeltsin đã thực hiện chính sách đối ngoại “Định hướng Đại Tây Dương” Chính sách này dựa trên nguyên tắc của “tư duy chính trị mới” do Gorbachev đề ra từ tháng 11/1990, với mục tiêu nhanh chóng biến Liên bang Nga thành một quốc gia tư bản Bộ trưởng Ngoại giao Nga, Andrei Kozyrev, nhấn mạnh quyết tâm cắt đứt với nền tảng xã hội cũ, khẳng định rằng Mỹ và các nền dân chủ phương Tây là những đồng minh tự nhiên của Nga dân chủ, vì họ là kẻ thù của chế độ chuyên chế Liên Xô.

Chính quyền B.N Yeltsin đã chọn chính sách đối ngoại hướng Tây vì nhiều lý do, trong đó việc từ bỏ ý thức hệ cộng sản và mong muốn nhanh chóng hội nhập vào nền văn minh tư bản là chủ trương quan trọng Tuy nhiên, thực trạng khó khăn của nước Nga vào đầu những năm 1990 đã tác động trực tiếp đến định hướng đối ngoại này.

Nga hiện đang tồn tại với một chính thể đa nguyên, nhưng nền dân chủ và pháp luật còn yếu kém, cùng với một xã hội dân sự mới bắt đầu hình thành Nền kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác nguyên liệu thô, dẫn đến tình trạng bần cùng hóa trong dân số Hệ thống lập pháp và hành pháp từ thời Liên Xô vẫn tiếp tục hoạt động và chưa sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới Do đó, việc củng cố chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Nga là cần thiết để ngăn chặn nguy cơ đảo lộn chính trị.

Sau nhiều sự cố lớn, Nga không còn đủ sức khôi phục nền kinh tế và rất cần nguồn viện trợ, vốn đầu tư, khoa học - công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại cùng các đối tác mới Nga cho rằng chỉ có thể tìm kiếm những nguồn lực này từ các nước phương Tây, đặc biệt là các nước G7 Thực tế cho thấy, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, việc này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

3 Anderei P Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition), Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.55.

4 Hà Mỹ Hương (2000), “Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay và ngày mai”, Nghiên cứu Quốc tế, tr.24.

Nga quay lại thể chế Liên Xô, chính quyền Bill Clinton và Tây Âu trên danh nghĩa

Mỹ đã viện trợ khoảng 60 tỷ USD cho Nga đến năm 1993, giúp nước này thực hiện "liệu pháp sốc" trong cải cách kinh tế, tăng tốc độ tư nhân hóa và hoàn thành nhanh chóng quá trình chuyển đổi "quỹ đạo kinh tế" Nhờ đó, Nga hướng tới việc trở thành một nhà nước phương Tây thực sự, đồng thời củng cố niềm tin vào "chính sách đối ngoại đầy ảo tưởng".

Từ năm 1991 đến 1993, Nga đã hoàn toàn tập trung vào châu Âu, với mục tiêu chính được xác định bởi B Yeltsin, nhằm định hình lại các hoạt động quốc tế của đất nước.

Nga đang nỗ lực xây dựng mối quan hệ bạn bè ổn định với các nước dân chủ trên toàn cầu, nhằm đảm bảo việc gia nhập vào cộng đồng các quốc gia văn minh một cách hợp pháp và hài hòa Định hướng đối ngoại này có ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách của Nga đối với khu vực phương Đông, đặc biệt là Việt Nam.

1993, chính sách đối với Việt Nam hầu như bị bỏ ngỏ, quan hệ Nga - Việt rơi vào tình trạng “đóng băng”

Nga đã ngừng các cuộc tiếp xúc cấp cao với Việt Nam để phối hợp nỗ lực ngoại giao và thảo luận các vấn đề chính trị quan trọng trong thời kỳ Liên Xô, dẫn đến mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước chỉ mang tính hình thức và phụ thuộc vào sự chủ động từ phía Việt Nam Chuyến thăm Nga của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Đức Lương vào tháng 7 năm 1992 không đạt được cam kết cụ thể nào, ngoại trừ việc thống nhất thành lập Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học - kỹ thuật Năm 1993, Bộ trưởng Ngoại giao Y Iarov đã thăm Việt Nam vào tháng 5, trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cũng có chuyến thăm Nga.

5 Anderei P Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition), Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.9

Hồ Châu (1997) đã nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sau Chiến tranh Lạnh, đồng thời phân tích những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh này Luận án Phó Tiến sĩ của tác giả tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ quốc tế và ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Việt Nam.

(10/1993), hai bên khẳng định khắc phục quan hệ trì trệ, song về cơ bản, chưa có thay đổi thực tế

Nga đang tiến hành giảm hiện diện quân sự tại Việt Nam bằng cách rút các lực lượng quân sự và đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên về nước Định hướng đối ngoại chuyển sang phía Tây cùng với sự suy yếu đáng kể của sức mạnh quân sự đã dẫn đến quyết định triệt thoái hầu như toàn bộ lực lượng quân đội của Nga khỏi vịnh Cam Ranh.

Trong giai đoạn 1991 - 1993, Việt Nam không nằm trong định hướng đối ngoại của Nga, khi cả hai quốc gia đều chuyển hướng ra khỏi mối quan hệ truyền thống với cộng đồng XHCN Thay vào đó, cả Nga và Việt Nam tập trung vào các nước phát triển để phục vụ lợi ích quốc gia của mình Kết quả là, quan hệ Nga - Việt trở nên ngưng trệ và chỉ mang tính hình thức.

Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Việt Nam – Liên bang Nga

Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU FTA)

Hiệp định VN - EAEU FTA (bao gồm: Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan) được chính thức tuyên bố khởi động đàm phán vào tháng 3 năm

Vào ngày 29 tháng 5 năm 2015, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA) đã được ký chính thức tại Cộng hòa Kazakhstan, với sự phê duyệt của Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cùng đại diện của 5 nước thành viên EAEU.

Ngày 27 tháng 7 năm 2016, Ủy ban kinh tế Á - Âu đã có Công thư gửi phíaViệt Nam thông báo về việc các nước thành viên của Liên minh kinh tế Á - Âu đã hoàn tất thủ tục trong nước cần thiết để Hiệp định VN - EAEU FTA chính thức có hiệu lực từ ngày 05 tháng 10 năm 2016

Theo Hiệp định VN - EAEU FTA, Việt Nam và Liên bang Nga cam kết mở cửa thị trường hàng hóa cho nhau với khoảng 90% số dòng thuế, tương ứng với hơn 90% kim ngạch thương mại song phương hiện tại Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của thương mại giữa hai nước, hướng tới năm 2020 Ngoài ra, hai Bên cũng đồng ý tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như phòng vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, quản lý hải quan, rào cản kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, mua sắm Chính phủ, sở hữu trí tuệ và phát triển bền vững, nhằm tối ưu hóa thương mại giữa hai quốc gia.

Ngày 29 tháng 6 năm 2017, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ trưởng phụ trách thương mại Ủy ban Kinh tế Á - Âu đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Ủy ban hỗn hợp về thực thi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (UBHH về thực thi VN - EAEU FTA) Trước đó, phiên họp cấp kỹ thuật UBHH về thực thi VN - EAEU FTA đã diễn ra từ ngày 19 - 22 tháng 6 năm 2017 tại Hà Nội

Trong 7 tháng đầu tiên kể từ khi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA) có hiệu lực, Bộ trưởng đã nhận định rằng kết quả đạt được rất tích cực Theo số liệu từ EAEU, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EAEU đã tăng khoảng 27% so với cùng kỳ năm trước Đặc biệt, kim ngạch xuất nhập khẩu không chỉ tăng đối với các mặt hàng được cắt giảm thuế quan ngay xuống 0%, mà còn đối với những mặt hàng đang trong lộ trình giảm thuế quan.

Việt Nam đã thông báo về việc cộng đồng doanh nghiệp khai thác các ưu đãi từ Hiệp định Thương mại Tự do VN - EAEU Từ khi hiệp định có hiệu lực cho đến cuối tháng 7 năm 2017, Việt Nam đã cấp 9.908 Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu EAV (C/O EAV) cho hàng hóa xuất khẩu sang EAEU, với tổng kim ngạch đạt 354,3 triệu USD.

Xuất khẩu của Việt Nam sang EAEU chủ yếu tập trung vào các mặt hàng như dệt may, giày dép, thủy sản, nông sản, điện thoại và linh kiện Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng C/O EAV chỉ đạt khoảng 20% Các sản phẩm có tỷ lệ tận dụng C/O EAV cao bao gồm giày dép (54,3%), rau quả (59,2%), thủy sản (69,1%), gạo (69,3%), hạt tiêu (75,5%) và dệt may (76,1%) Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, sự gia tăng xuất khẩu sang EAEU đã ghi nhận những kết quả tích cực.

Kể từ khi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EAEU có hiệu lực vào cuối tháng 7 năm 2017, lượng hàng hóa nhập khẩu hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt của Việt Nam đã có xu hướng gia tăng Cụ thể, trong ba tháng cuối năm 2016, đã có 25 dòng hàng đạt tổng kim ngạch khoảng đáng kể theo Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu EAV.

Trong 7 tháng đầu năm 2017, kim ngạch nhập khẩu từ EAEU đã tăng mạnh, đạt 305 triệu USD, tương đương 23% tổng kim ngạch nhập khẩu, với 65 dòng hàng Các mặt hàng chủ yếu hưởng lợi bao gồm lúa mì (100%), ngô (88%), phân bón (25%), nhựa và sản phẩm nhựa (29,2%), giấy và sản phẩm giấy (23,6%), hợp kim nhôm (40,3%) và ô tô chở hàng (46,7%).

Hai Bên đã thống nhất phương hướng hợp tác trong các lĩnh vực thương mại hàng hóa, xuất xứ hàng hóa, cạnh tranh, phòng vệ thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật Cả hai bên sẽ phối hợp xây dựng hệ thống chứng nhận và xác minh xuất xứ điện tử, dự kiến hoàn thành trước cuối năm 2018.

Nga là thị trường chủ yếu trong Liên minh kinh tế Á – Âu và cũng là thị trường truyền thống cho hàng hóa Việt Nam, với tiêu chí tuyển chọn mẫu mã và chất lượng tương đối dễ dàng Hiện tại, Nga đang cần các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như thủy hải sản, bánh kẹo, cà phê, rau củ quả, cùng với dụng cụ y tế, quần áo, giày dép, chăn màn và đồ gỗ Mặc dù kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nga liên tục tăng, nhu cầu từ Nga đối với hàng hóa Việt Nam vẫn còn rất lớn.

Ông Ivan Gumnikov, đại diện Thương vụ Liên bang Nga tại Việt Nam, cho biết rằng sau khi hiệp định này có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam vào Liên minh kinh tế Á – Âu dự kiến sẽ tăng 50%.

FTA này tập trung vào việc giảm rào cản thuế quan đối với hàng dệt may của Việt Nam, giúp sản phẩm tiếp cận thị trường Nga dễ dàng hơn Nhờ vào những ưu đãi thuế quan này, hàng dệt may Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia không tham gia FTA khi xuất khẩu sang Nga.

Theo số liệu từ Hải quan Việt Nam, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EAEU đã tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 3,04 tỷ USD vào năm 2016, tăng 23% so với năm trước Sang năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EAEU tiếp tục tăng lên 3,9 tỷ USD, tương ứng với mức tăng 28,3% so với năm 2016 Đặc biệt, LB Nga đóng góp hơn 90% tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và EAEU.

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu đã chính thức có hiệu lực, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh rằng việc FTA này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam với các nền kinh tế lớn trên toàn cầu.

Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực thương mại

Trong giai đoạn 1992 đến 1994, hoạt động xuất khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Nga có sự tăng trưởng đáng kể với tốc độ bình quân đạt 36% mỗi năm Tuy nhiên, vào năm 1995, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước giảm xuống chỉ còn khoảng 60% so với năm 1994 Đến năm 1996, tình hình cải thiện khi kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trở lại 20% so với năm trước.

Trong giai đoạn 1991-1996, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Liên bang Nga tăng trưởng rất chậm, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm chỉ đạt 6,4% Đây là tỷ lệ tăng trưởng thấp nhất trong lịch sử quan hệ thương mại giữa hai nước.

Trong giai đoạn 1991-1993, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước đã bị ngưng trệ, chủ yếu do chính sách đối ngoại của liên bang Nga Chính sách này ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế với các nước châu Âu – Đại Tây Dương và các nước phương Tây, trong khi trước đó liên bang Nga chưa chú trọng đến các mối quan hệ thương mại này.

+ Việt Nam vẫn còn nợ Nga, vì thế Nga chưa coi là đối tác để làm ăn.

Các điều kiện buôn bán giữa hai nước đã có sự thay đổi căn bản, với phương thức thanh toán chuyển từ nhờ thu tiền sang việc mở tín dụng bằng Rub chuyển nhượng Rub chuyển nhượng hiện nay được hiểu như một khái niệm quy ước giữa hai bên.

Kể từ năm 1990, các công ty Nga đã tùy tiện áp dụng tỷ giá riêng khi tham gia đấu thầu để nhận hàng trả nợ Những công ty thắng thầu theo quy định phải mở tín dụng thư và vay vốn với lãi suất cao, nhưng nhiều công ty không đủ khả năng hoặc không muốn vay Nếu có mở tín dụng thư bằng Rub chuyển nhượng, họ lại yêu cầu các nhà xuất khẩu Việt Nam giảm giá từ 30% đến 50% so với giá đã xuất trước đó để bù đắp cho lãi suất ngân hàng và các rủi ro khác.

+ Tình hình kinh tế liên bang Nga biến động và sa sút, không ổn định, lạm phát cao, đồng Rub mất giá, nhiều rủi ro cao.

Trong giai đoạn 1997 đến 2000, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Liên bang Nga có xu hướng tăng liên tục, mặc dù mức độ tăng không đồng đều Đặc biệt, năm 1999 ghi nhận sự giảm sút kim ngạch xuất nhập khẩu so với năm trước Sự tăng trưởng này chủ yếu nhờ vào sự gia tăng nhanh chóng của kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ Nga cũng tăng nhưng với tốc độ chậm và thiếu ổn định.

Trong giai đoạn 1997-2000, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Nga tăng bình quân 8%, vượt qua mức tăng của giai đoạn 1991-1996 Sự phát triển này cho thấy cả kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và kim ngạch ngoại thương giữa hai nước đã có những bước tiến đáng kể, mặc dù cán cân thương mại vẫn cần được cải thiện.

Nam vẫn là nước nhập siêu với tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Nga, tỷ lệ là 69,2% so với tỷ lệ xuất là 30,8%.

Những kết quả đạt được chủ yếu là do:

Kinh tế Nga đã ổn định với lạm phát được kiểm soát kể từ khi Tổng thống Putin nhậm chức, đồng Rub đã phục hồi và môi trường kinh doanh được cải thiện Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thích nghi tốt với điều kiện kinh doanh mới tại Nga.

Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào tháng 7/1997 đã thúc đẩy Việt Nam xem xét lại chiến lược thị trường, chuyển hướng đa dạng hóa và đa phương hóa Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chú trọng đến các thị trường truyền thống và quen thuộc, thay vì chỉ tập trung vào các nước láng giềng.

Trong giai đoạn 2000-2005, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nga đã tăng trung bình 15% mỗi năm, với giai đoạn 2001-2005 đạt 12% và 2006-2012 đạt 17% Cụ thể, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2000 chỉ đạt 367,1 triệu USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nga là 122,5 triệu USD và nhập khẩu từ Nga là 244,6 triệu USD Đến năm 2004, tổng kim ngạch đã tăng lên 887,3 triệu USD, với xuất khẩu đạt 216,1 triệu USD và nhập khẩu đạt 671,2 triệu USD Năm 2005, kim ngạch thương mại đạt 1,02 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 252 triệu USD và nhập khẩu là 766 triệu USD, cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ trong quan hệ thương mại giữa hai nước.

Năm 2009, mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kim ngạch thương mại hai chiều vẫn đạt hơn 1,82 tỷ USD, tăng 80% so với năm 2005, với xuất khẩu đạt 414,9 triệu USD (tăng 64,7%) và nhập khẩu đạt 1,41 tỷ USD (tăng 84,6%) Sang năm 2010, tổng kim ngạch thương mại hai chiều tiếp tục tăng lên 2,32 tỷ USD (tăng 28%), trong đó xuất khẩu đạt 755 triệu USD (tăng 82,3%) và nhập khẩu đạt 1,75 tỷ USD (tăng 24,1%) so với năm 2009.

Cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa Nga và Việt Nam trong hơn 10 năm qua khá ổn định, phản ánh lợi thế so sánh của mỗi nước Nga chủ yếu xuất khẩu thép cán, máy móc, ô tô và phân bón sang Việt Nam, trong khi Việt Nam xuất khẩu hàng tiêu dùng, may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ và nông sản sang Nga Tuy nhiên, cán cân thương mại vẫn nghiêng về phía Việt Nam, với mức nhập siêu gia tăng.

515 triệu USD, năm 2008 là 297 triệu USD, năm 2009, 2010 là 1 tỷ USD.

Mặc dù quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Nga đang phát triển khả quan, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga chỉ chiếm 0,3% tổng kim ngạch ngoại thương của Nga và 1,5% của Việt Nam So với các mối quan hệ thương mại khác như Nga - Trung Quốc hay Việt Nam - EU, Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Mỹ, tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều giữa Nga và Việt Nam vẫn còn thấp.

Năm 2009, tổng kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các đối tác quốc tế như EU, Mỹ và Trung Quốc lần lượt đạt 14,8 tỷ USD, hơn 14 tỷ USD và trên 21 tỷ USD Tuy nhiên, mục tiêu nâng kim ngạch thương mại Việt – Nga lên 3 tỷ USD vào năm 2010 theo Nghị quyết của Ủy ban Liên chính phủ đã không đạt được, và triển vọng đạt 10 tỷ USD vào năm 2020 cũng gặp nhiều khó khăn Theo báo cáo hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nga năm 2018 chỉ đạt 4,57 tỷ USD.

Hai nước vẫn gặp rào cản trong phát triển kinh tế thị trường do mức độ tự do hóa thương mại còn thấp, ảnh hưởng từ cả chính phủ và các doanh nghiệp.

Thành Tựu, Hạn chế và triển vọng cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga

Ngày đăng: 21/04/2022, 14:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Hà Mỹ Hương (2000), “Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay và ngày mai”, Nghiên cứu Quốc tế, tr.24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay vàngày mai
Tác giả: Hà Mỹ Hương
Năm: 2000
5. Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), “Tuyên bố chung giữa Việt Nam - Liên bang Nga ngày 25/8/1998”, Nhân dân ngày 26/8/1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyên bố chunggiữa Việt Nam - Liên bang Nga ngày 25/8/1998
Tác giả: Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 1998
6. Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga”, Nhân dân ngày 02/3/2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyên bố về quanhệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liênbang Nga
Tác giả: Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2001
7. Ngô Tất Tố (2001), “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực”, Nhân dân, ngày 28/2/2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga phát triển mạnh mẽtrên nhiều lĩnh vực
Tác giả: Ngô Tất Tố
Năm: 2001
1. Nguyễn Quốc Hùng – Nguyễn Thị Thư, Lược sử Liên bang Nga 1917-1991, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.278 Khác
2. Anderei P. Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition), Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.55 Khác
4. Hồ Châu (1997), Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương từ sau Chiến tranh Lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.67 Khác
8. Ngô Quế Anh, Việt Nam – Thành công đầu tiên của Nga trong “Tháng Hướng Đông, Tạp chí Cộng sản, số 13/9/2018 Khác
9. NAM ĐÔNG - QUẾ ANH, FTA giữa EAEU và Việt Nam tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế song phương, Báo Nhân dân, ngày 20/10/2018 Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w