1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện đông anh, hà nội (Chuyên đề ĐH Kinh tế Quốc dân)

69 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 69
Dung lượng 145,13 KB

Cấu trúc

  • PHẦN 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ (5)
    • 1.1 Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội (6)
      • 1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của BHXH (6)
      • 1.1.2 Cơ sở hình thành và đặc trưng của chế độ hưu trí (8)
      • 1.1.3 Vai trò và tác dụng của chế độ hưu trí (11)
    • 1.2 Nội dung cơ bản của chế độ Bảo hiểm hưu trí (12)
      • 1.2.1. Thời gian và mức đóng Bảo hiểm (12)
      • 1.2.2. Độ tuổi nghỉ hưu (13)
      • 1.2.3. Mức và thời gian hưởng trợ cấp (15)
    • 1.3 Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí (16)
      • 1.3.1. Số đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí (16)
      • 1.3.2. Số thu chế độ bảo hiểm hưu trí (17)
      • 1.3.3. Số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí (17)
      • 1.3.4. Số chi trả trợ cấp chế độ bảo hiểm hưu trí (18)
    • 1.4. Kinh nghiệm thực hiện chế độ Bảo hiểm hưu trí ở một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam (19)
      • 1.4.1 Kinh nghiệm của các nước (19)
      • 1.4.2. Bài học cho Việt Nam (21)
  • PHẦN 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, HÀ NỘI (5)
    • 2.1. Giới thiệu về Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh (23)
      • 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển (23)
      • 2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh (25)
      • 2.1.3. Kết quả hoạt động của BHXH huyện Đông Anh (27)
        • 2.1.3.1. Về công tác thu và đốc thu BHXH (27)
        • 2.1.3.2. Công tác chi trả chế độ BHXH (28)
        • 2.1.3.3. Công tác kiểm tra, khởi kiện (31)
        • 2.1.3.4. Công tác cải cách thủ tục hành chính, tổ chức thực hiện quy trình một cửa (31)
        • 2.1.3.5. Công tác chính sách, hồ sơ, giải quyết đơn thư (32)
        • 2.1.3.6. Công tác cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT (32)
        • 2.1.3.7. Công tác giảm định Y tế (33)
        • 2.1.3.8. Các công tác thông tin, tuyên truyền (33)
    • 2.2 Thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên địa bàn huyện Đông Anh (33)
      • 2.2.1. Thuận lợi (33)
      • 2.2.2. Khó khăn (35)
    • 2.3. Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện Đông Anh (35)
      • 2.3.1. Tình hình thu phí bảo hiểm (35)
        • 2.3.1.1. Cơ sở pháp lý (35)
        • 2.3.1.2. Kết quả thu (37)
      • 2.3.2 Tình hình chi trả trợ cấp (40)
        • 2.3.2.1 Cơ sở pháp lý (40)
        • 2.3.2.2 Mô hình tổ chức chi trả (42)
        • 2.3.2.3 Kết quả chi trả (45)
      • 2.3.3. Đánh giá chung (50)
        • 2.3.3.1 Thành tựu đạt được (50)
        • 2.3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân (52)
  • Phần 3 Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chế độ hưu trí tại Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh, Hà Nội (5)
    • 3.1. Giải pháp (59)
      • 3.1.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách (59)
      • 3.1.2. Giải pháp tổ chức thực hiện (61)
    • 3.2. Kiến nghị (65)
      • 3.2.1. Kiến nghị với nhà nước (65)
      • 3.2.2. Kiến nghị với chính quyền địa phương (66)
      • 3.2.3. Kiến nghị với BHXH Việt Nam và BHXH Hà Nội (66)
  • KẾT LUẬN (5)

Nội dung

MỤC LỤC MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG LỜI NÓI ĐẦU 1 PHẦN 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ 3 1 1 Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội 3 1 1 1 Quá trình hình thành và phát triển của BHXH 3 1 1 2 Cơ sở hình thành và đặc trưng của chế độ hưu trí 6 1 1 3 Vai trò và tác dụng của chế độ hưu trí 8 1 2 Nội dung cơ bản của chế độ Bảo hiểm hưu trí 9 1 2 1 Thời gian và mức đóng Bảo hiểm 9 1 2 2 Độ tuổi nghỉ hưu 11 1 2 3 Mức và thời gian hưởng trợ cấp 12 1 3 Một số.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ

Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội

1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của BHXH

Bảo hiểm xã hội (BHXH) có nguồn gốc từ thế kỷ XIII tại Nam Âu, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển Ban đầu, BHXH chỉ mang tính chất sơ khai và phạm vi hạn chế Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIII, các nghiệp đoàn thợ thủ công đã ra đời, tạo ra các quỹ tương trợ để bảo vệ và hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp Tại Anh, vào năm 1973, hội “bằng hữu” được thành lập nhằm giúp đỡ các hội viên khi gặp phải ốm đau hoặc tai nạn nghề nghiệp.

Năm 1883, nước Phổ đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm xã hội (BHXH), trở thành một quyền của con người được xã hội thừa nhận Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc vào năm 1948 khẳng định rằng "tất cả mọi người có quyền hưởng BHXH" Ngày 4/6/1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã ký Công ước Giơnevơ (102), nhấn mạnh sự cần thiết các nước phải thực hiện BHXH cho người lao động và gia đình họ Theo Công ước 102, BHXH bao gồm 9 chế độ trợ cấp khác nhau.

- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

- Trợ cấp khi tàn phế

- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)

Mỗi quốc gia không thể thực hiện đầy đủ 9 chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) do sự khác biệt về phạm vi, đối tượng và nguồn hình thành quỹ Việc áp dụng BHXH ở các nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện cụ thể và hoàn cảnh phát triển của từng quốc gia, dẫn đến sự đa dạng trong hình thức thực hiện.

Trên toàn cầu, có 35 quốc gia đã áp dụng 9 chế độ khác nhau, trong khi 37 quốc gia vẫn chưa triển khai chế độ trợ cấp thất nghiệp Đồng thời, 67 quốc gia chưa thực hiện cả chế độ trợ cấp thất nghiệp lẫn trợ cấp gia đình.

Bảo hiểm xã hội tại Việt Nam có nguồn gốc từ thời phong kiến Pháp thuộc Sau cách mạng tháng 8/1945, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành sắc lệnh 29/SL vào ngày 12/3/1947, khởi xướng các chế độ bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí cho người lao động trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ương Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh và điều kiện kinh tế hạn chế, chỉ một bộ phận lao động xã hội được hưởng quyền lợi từ bảo hiểm xã hội.

Sau khi hòa bình lập lại, vào ngày 27/12/1961, Nhà nước đã ban hành Nghị định 128/CP về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức”, có hiệu lực từ 1/1/1962 Tuy nhiên, sau hơn 20 năm thực hiện, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều hạn chế Để khắc phục điều này, vào ngày 18/9/1985, Chính phủ đã ban hành Nghị định 236/HĐBT nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động, chủ yếu điều chỉnh mức đóng và hưởng BHXH.

Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam hiện vẫn gặp nhiều hạn chế không tương thích với cơ chế mới Để khắc phục điều này, vào ngày 22/6/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP, quy định tạm thời về các chế độ BHXH cho các thành phần kinh tế, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc đổi mới hệ thống BHXH tại Việt Nam.

Bộ luật lao động được Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 15/6/1994, cùng với điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội theo Nghị định 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc cải cách bảo hiểm xã hội tại Việt Nam Những quy định này đã mở rộng đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội, bao gồm công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, đồng thời đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tổ chức quản lý của hệ thống bảo hiểm xã hội.

Các quy định trong văn bản đã nêu rõ các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng theo từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.

Về hệ thống tổ chức quản lí:

Trước năm 1995, việc quản lý chế độ hưu trí và tử tuất thuộc về ngành Lao động Thương binh Xã hội, trong khi Liên đoàn Lao động Việt Nam chịu trách nhiệm chi trả chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và nghỉ ngơi Từ năm 1995, Chính phủ đã hợp nhất bộ phận BHXH của hai ngành thành tổ chức BHXH Việt Nam, trực thuộc Chính phủ với hệ thống quản lý dọc ở cấp tỉnh và huyện.

BHXH chia làm hai giai đoạn:

Trong giai đoạn 1962-1993, quỹ Bảo hiểm xã hội (BHXH) được hình thành chủ yếu từ nguồn thu tiền đóng BHXH, trong đó chỉ có người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ đóng góp Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH trong thời kỳ này là 4,7% trên tổng quỹ lương, với 1% trong số đó được quản lý bởi ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.

Bộ Tài chính quản lý 3,7% quỹ để chi trả chế độ hưu trí và tử tuất, trong khi Tổng Liên đoàn Lao động quản lý phần còn lại để hỗ trợ các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản và tai nạn lao động Đến năm 1987, tỷ lệ này được nâng lên 15%, trong đó 8% do ngành Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý, 2% được giữ lại cho các trường hợp khó khăn đột xuất, và 5% do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.

Trước năm 1987, tỷ lệ đóng góp vào chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) thấp, dẫn đến số người hưởng chế độ cũng ít, trong khi ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ nhiều cho mục tiêu này Tuy nhiên, sau năm 1987, tỷ lệ đóng góp đã được nâng lên, kéo theo số người hưởng chế độ cũng gia tăng đáng kể, đặc biệt từ năm tiếp theo.

Năm 1990, việc thực hiện các Quyết định 176/HĐBT và 111/CP của Chính phủ về việc giảm biên chế trong khu vực nhà nước đã dẫn đến sự gia tăng số lượng người hưởng bảo hiểm xã hội, từ đó tạo ra áp lực lớn lên ngân sách.

Nhà nước phải chi bù rất lớn.

Từ năm 1993, Nghị định 43/CP ngày 1/4/1993 của Chính phủ đã nâng mức thu quỹ BHXH lên 20%, trong đó người lao động đóng 5% và người sử dụng lao động đóng 15% Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính độc lập với ngân sách Nhà nước, đồng thời được bổ sung từ việc đầu tư tiền nhàn rỗi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi nhuận Dự kiến, khoản đầu tư này sẽ được tăng cường trong những năm tới.

Nội dung cơ bản của chế độ Bảo hiểm hưu trí

1.2.1 Thời gian và mức đóng Bảo hiểm

Thời gian đóng bảo hiểm hưu trí, được xác định bằng tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo hiểm, là yếu tố quan trọng để đánh giá sự cống hiến của mỗi cá nhân cho xã hội và cho quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) Thời gian này không chỉ là căn cứ để chi trả cho người lao động theo quy định pháp luật mà còn đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các thành viên tham gia BHXH Việc xác định thời gian đóng phí dựa trên các yếu tố như độ tuổi nghỉ hưu, tỷ lệ đóng góp, tuổi thọ của người về hưu và mức hưởng Nguyên tắc cơ bản là phải tính tổng số thời gian đóng phí BHXH thực tế để hình thành quỹ hưu trí, đặc biệt trong trường hợp người lao động làm việc trong môi trường độc hại hoặc ở vùng sâu vùng xa.

Theo quy định của điều lệ BHXH, thời gian đóng BHXH được sử dụng để giảm tuổi nghỉ hưu Trong các chế độ BHXH bắt buộc, chế độ hưu trí yêu cầu hai yếu tố chính là độ tuổi và số năm đóng BHXH, điều này được quy định tại hầu hết các quốc gia.

Mức đóng cho chế độ hưu trí là một yếu tố quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội Mức thu này được xác định dựa trên tỷ lệ so với thu nhập hoặc tiền lương của người lao động Đối với người làm công ăn lương, thu nhập thường là tiền lương hàng tháng Ở Việt Nam, hiện nay, mức phí bảo hiểm xã hội (BHXH) được thu chung cho tất cả các chế độ, trong đó có phần dành cho bảo hiểm hưu trí Trong trường hợp này, phí bảo hiểm hưu trí được xác lập riêng và tính toán theo một công thức cụ thể.

P: mức phí đóng cho chế độ hưu trí

T: tỷ lệ % đóng BHXH hưu trí nói chung

TBH: tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập hay tiền lương

L: tiền lương hay thu nhập dùng để tính phí BHXH và chế độ hưu trí

Việc xác định phí cho chế độ hưu trí có thể thực hiện riêng biệt hoặc góp chung, tùy thuộc vào điều kiện và mô hình tổ chức của từng quốc gia Nếu phí được xác định riêng, việc tính toán và quản lý chế độ hưu trí sẽ trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt khi mở rộng ra các khu vực với hình thức thu nhập đa dạng Tách biệt như vậy cũng mang lại sự linh hoạt cho người tham gia Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc các chế độ khác sẽ phải được tách riêng, làm cho quản lý bảo hiểm xã hội trở nên phức tạp hơn Ngược lại, nếu không xác định riêng mức thu phí cho từng chế độ, quản lý có thể đơn giản hơn, nhưng lại gặp khó khăn trong việc xác định phí đóng cho người lao động có các hình thức thu nhập khác nhau.

1.2.2 Độ tuổi nghỉ hưu Điều 126 công ước 102 quy định trường hợp những người ở tình trạng sống lâu hơn một độ tuổi quy định là những người được bảo vệ bởi chế độ bảo hiểm hưu trí Độ tuổi quy định này là không quá 65 tuổi, tuy nhiên các nhà quản lý có thẩm quyền ở các nước vẫn có thể ấn định một độ tuổi cao hơn xét theo khả năng làm việc của những người cao tuổi ở quốc gia đó Để những quy định trên đi vào cuộc sống thì hầu hết các quốc gia tham gia công ước đều cụ thể hóa những trường hợp cơ bản được hưởng trợ cấp Trong đó, quy định độ tuổi nghỉ hưu là độ tuổi tại đó mà người lao động do tuổi đã cao hoặc không đủ sức khỏe để tiếp tục làm việc thì sẽ ngững làm việc một cách đều đặn và cơ bản Độ tuổi nghỉ hưu khác với độ tuổi được hưởng trợ cấp chế độ BHXH hưu trí, đó là độ tuổi tối thiểu mà tại đó người lao động tham gia BHXH đạt được những điều kiện quy định để hưởng tiền lương hưu. Độ tuổi hưởng chế độ hưu trí đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chi phí của hệ thống chế độ, bởi vì qua những điều tra tính toán trên phạm vi toàn cầu, tổ chức ILO đã khẳng định nếu độ tuổi nghỉ hưu là 55 tuổi thì chi phí cho chế độ BHXH hưu trí sẽ tăng 50 % so với tuổi nghỉ hưu là 60 tuổi Tuổi hưởng chế độ hưu trí thường được cân nhắc như sau:

- Khả năng làm việc tổng thể của người cao tuổi

Chăm sóc y tế tốt có thể làm chậm quá trình lão hóa ở người cao tuổi Nghiên cứu cho thấy, chế độ phòng ngừa bệnh tật, sinh hoạt lành mạnh, phát hiện và điều trị bệnh sớm, cùng với việc vận động như đạp xe và chơi thể thao, giúp người ở độ tuổi 60 duy trì sức khỏe tương đương với người 30-40 tuổi Quá trình lão hóa khác nhau ở mỗi người; những ai có kế hoạch chăm sóc sức khỏe từ trẻ sẽ có khả năng lao động tốt ở độ tuổi 50-60, đặc biệt là trong môi trường không độc hại và không nặng nhọc Do đó, cần xem xét độ tuổi nghỉ hưu hợp lý để tối ưu hóa nguồn nhân lực và giảm áp lực lên quỹ hưu trí và quỹ BHXH.

- Vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động

Càng ngày người trẻ tuổi càng năng động, tài năng trong thị trường lao động

Nhiều người trẻ tuổi đã thành công trong kinh doanh khi mới 20, 30 tuổi, nhưng số lượng này vẫn còn ít so với những người ngoài 40, 50 tuổi, những người thường có kinh nghiệm làm việc lâu dài, mối quan hệ rộng và tài sản tích lũy Việc nghỉ hưu ở độ tuổi này có thể gây tiếc nuối, nhưng đối với những lao động chân tay trong môi trường độc hại, việc nghỉ hưu sớm là cần thiết và mang ý nghĩa nhân văn Do đó, độ tuổi nghỉ hưu nên được xem xét dựa trên vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động.

- Khả năng kinh tế của chế độ hưu trí

Độ tuổi nghỉ hưu của người lao động là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tài chính của chế độ hưu trí Nếu xác định độ tuổi nghỉ hưu quá sớm, thời gian đóng góp sẽ thấp, dẫn đến nguồn thu của quỹ hưu trí giảm Hệ quả là mức chi cho chế độ hưu trí tăng lên, gây mất cân bằng giữa thu và chi, có thể dẫn đến nguy cơ vỡ quỹ.

Tuổi nghỉ hưu là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống của người lao động và nền kinh tế quốc gia Chính phủ cần cân nhắc độ tuổi nghỉ hưu hợp lý dựa trên mức hưởng thỏa mãn, chi phí và tuổi thọ bình quân của người cao tuổi Ngoài ra, quy định về tuổi nghỉ hưu cũng phải xem xét quy luật sinh - lão - bệnh - tử và điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia Đặc biệt, những người làm việc trong điều kiện lao động nặng nhọc hoặc có sức khỏe yếu có thể được quy định nghỉ hưu sớm hơn so với độ tuổi bình quân.

1.2.3 Mức và thời gian hưởng trợ cấp

Mức hưởng trợ cấp hàng tháng của người về hưu là một chủ đề gây tranh cãi với hai quan điểm chính Quan điểm đầu tiên cho rằng lương hưu chỉ cần đảm bảo mức sống tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc gia, trong khi quan điểm thứ hai cho rằng lương hưu cần đủ cao để người về hưu có mức sống vượt trội hơn mức trung bình xã hội Sự khác biệt này dẫn đến mức đóng góp trước khi nhận trợ cấp cũng sẽ khác nhau Mặc dù cả hai quan điểm đều có lý, nhưng quan điểm thứ hai thường được coi là thuyết phục hơn khi xem xét mức sống của người về hưu và sự hấp dẫn của bảo hiểm xã hội đối với người lao động Dù theo quan điểm nào, lương hưu vẫn phải thấp hơn mức lương khi làm việc, và được tính theo một công thức cụ thể.

LH: tiền lương hưu được hưởng

T: tỷ lệ phần trăm dùng để tính lương hưu

L: tiền lương hay thu nhập dùng để tính lương hưu

Tùy theo quy định pháp luật của từng quốc gia, người nghỉ hưu có thể nhận thêm các quyền lợi như trợ cấp một lần khi nghỉ hưu Đối với những lao động chưa đủ tuổi để nhận lương hưu hàng tháng, họ cũng sẽ được cấp trợ cấp một lần Ngoài ra, người nghỉ hưu còn được hưởng bảo hiểm y tế từ quỹ BHXH Khi người lao động qua đời, gia đình họ sẽ được nhận chế độ tử tuất.

Thời gian hưởng chế độ hưu trí là khoảng thời gian từ khi nghỉ hưu cho đến khi qua đời, và nó khác nhau tùy thuộc vào tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ của mỗi người Trong quản lý BHXH, thời gian hưởng lương hưu thường được tính toán dựa trên số bình quân trong cùng một hệ thống, và thời gian này phải ngắn hơn thời gian đóng BHXH Các yếu tố như tuổi đời khi nghỉ hưu theo quy định pháp luật và tuổi thọ bình quân ảnh hưởng đến thời gian hưởng lương hưu, đồng thời phụ thuộc vào chính sách lao động và BHXH trong từng giai đoạn Thông thường, tuổi nghỉ hưu ổn định trong khoảng từ 55 đến 60 tuổi cho người lao động bình thường, với khả năng điều chỉnh trong các trường hợp đặc biệt Khi tuổi thọ bình quân tăng, thời gian hưởng chế độ hưu trí cũng có xu hướng tăng, điều này yêu cầu các nhà nghiên cứu phải xem xét và điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cho phù hợp.

Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí

1.3.1 Số đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí

Tỷ lệ người lao động tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí so với tổng số lao động trong xã hội phản ánh kết quả mở rộng hoạt động của chế độ hưu trí Chỉ tiêu này cho thấy quy mô và sự phát triển của chế độ hưu trí, đặc biệt quan trọng ở các nước có nền kinh tế kém phát triển, nơi số người tham gia còn hạn chế.

Mọi người đều có quyền tham gia vào bảo hiểm xã hội (BHXH) để hưởng chế độ hưu trí, do đó, trong quá trình phát triển, số người tham gia cần tăng nhanh hơn tốc độ tăng nguồn lao động xã hội Mục tiêu mở rộng chế độ hưu trí được xác định qua tỷ lệ phần trăm số người tham gia và tốc độ tăng của tỷ lệ này qua các năm Bên cạnh đó, cần tính toán tỷ lệ tăng tương đối so với tỷ lệ tăng lao động xã hội để đánh giá hiệu quả của chế độ hưu trí.

1.3.2 Số thu chế độ bảo hiểm hưu trí

Thu bảo hiểm hưu trí là một chỉ tiêu tổng hợp và hiệu quả của nó được đánh giá trên các mặt chủ yếu sau:

- Tỉ lệ về số người đóng BHXH

Việc thu đúng và đủ số người đóng bảo hiểm hưu trí là rất quan trọng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động và hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Đối tượng phải thu chủ yếu là những người lao động thuộc diện đóng BHXH bắt buộc, đăng ký tham gia bảo hiểm hưu trí Số lượng này thường thay đổi do sự biến động trong các doanh nghiệp, đặc biệt là trong khu vực ngoài quốc doanh Mục tiêu là thu 100% đối tượng phải đóng BHXH và bảo hiểm hưu trí, có thể mở rộng ra cho tất cả người lao động có nhu cầu tham gia, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội.

- Thu đủ số tiền theo quy định cho chế độ hưu trí.

Tỷ lệ % tiền thu được = * 100

Số tiền thu được từ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào mức thu theo luật định và số lượng người tham gia đóng bảo hiểm Việc thu đủ không chỉ đảm bảo nguồn tài chính chủ động mà còn giúp ổn định quỹ bảo hiểm xã hội, từ đó duy trì và phát triển các hoạt động của chế độ hưu trí.

Đúng thời gian thu BHXH là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kế hoạch tài chính của chế độ hưu trí, theo quy định pháp luật Việc thu đúng hạn giúp đảm bảo quyền lợi cho người hưởng, đặc biệt trong cơ chế hưu trí dựa trên việc người đóng trả cho người hưởng Hơn nữa, trong chế độ hưu trí theo cơ chế đầu tư ứng trước, việc thu kịp thời còn là điều kiện cần thiết để duy trì và phát triển quỹ hưu trí, từ đó đảm bảo các kế hoạch đầu tư sinh lời trong tương lai.

1.3.3 Số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí

Số lượng người hưởng chế độ hưu trí là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá tình hình thực hiện chế độ này Việc xác định chính xác và đầy đủ đối tượng nhận trợ cấp hưu trí không chỉ đảm bảo quyền lợi cho người lao động và gia đình họ, mà còn giúp quản lý bảo hiểm xã hội (BHXH) hiệu quả hơn, đảm bảo chi trả đúng đối tượng và công bằng giữa những người tham gia BHXH Đối tượng đủ điều kiện nhận trợ cấp hưu trí là những lao động đã tham gia BHXH, đáp ứng yêu cầu về thời gian và mức đóng góp theo quy định của từng quốc gia.

Tỷ lệ số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí so với số đối tượng tham gia sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan cho các nhà quản lý BHXH về tình hình thực hiện chế độ hưu trí Điều này giúp họ đưa ra các kiến nghị nhằm khắc phục và điều chỉnh cho phù hợp, từ đó đảm bảo sự phát triển bền vững của bảo hiểm hưu trí và BHXH trong nền kinh tế thị trường.

1.3.4 Số chi trả trợ cấp chế độ bảo hiểm hưu trí

Trong hoạt động chi trả, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

Để đảm bảo chi trả đúng đối tượng, cần xác định rõ những người đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, liên quan đến công tác quản lý đối tượng Khác với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, việc di chuyển và thay đổi nơi ở của người về hưu phụ thuộc vào khả năng và điều kiện sống của họ Do đó, công tác quản lý cần linh hoạt để vừa đảm bảo quản lý hiệu quả, vừa thực hiện chi trả thuận lợi cho những người đủ điều kiện hưởng chế độ này.

- Chi trả đủ về số lượng:

Chỉ tiêu chi trả hưu trí yêu cầu đảm bảo số lượng và số tiền chi trả đầy đủ cho tất cả các đối tượng hưởng chế độ hưu trí theo quy định pháp luật Luật quy định các mức tiền hưu cụ thể, do đó, việc chi trả phải đảm bảo toàn bộ số tiền này trong quá trình thực hiện cho người về hưu.

- Chi trả kịp thời gian:

Chi trả kịp thời lương hưu là rất quan trọng để đảm bảo người về hưu nhận được thu nhập ổn định đúng hạn Việc này không chỉ giúp cải thiện đời sống của họ mà còn có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý và thanh quyết toán chế độ hưu trí của các cơ quan bảo hiểm Trong bối cảnh hiện nay, khi BHXH đang trải qua nhiều thay đổi để phù hợp với tiến trình đổi mới kinh tế xã hội ở Việt Nam, các chỉ tiêu này càng trở nên thiết yếu trong việc quản lý thực hiện BHXH.

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, HÀ NỘI

Giới thiệu về Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển

Ngày 31/10/1992, BHXH thành phố Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 2654/UB của UBND thành phố, ban đầu mang tên BHXH Hà Nội và trực thuộc Sở Lao động - Thương binh - Xã hội Cơ quan này chịu trách nhiệm về các chế độ BHXH như trợ cấp hưu trí, mất sức lao động, tử tuất, cùng với các chế độ mới như BHXH ngoài quốc doanh Đến giữa năm 1995, BHXH Hà Nội chuyển sang trực thuộc BHXH Việt Nam, tạo ra một hệ thống chuyên ngành tập trung, bao gồm các chế độ BHXH từ Sở Lao động - Thương binh - Xã hội và Liên đoàn lao động thành phố, cùng với nhiệm vụ thu BHXH trước đây do Cục thuế và Sở tài chính đảm nhiệm.

BHXH thành phố Hà Nội.

Nghị định 19/CP ngày 16 tháng 2 năm 1995 của Chính phủ đã quy định về việc thành lập Bảo hiểm xã hội (BHXH) thành phố Hà Nội và các BHXH quận, huyện, tạo thành một hệ thống quản lý dọc theo ba cấp Theo đó, BHXH thành phố Hà Nội bao gồm các cơ quan như BHXH quận Hoàn Kiếm, BHXH quận Ba Đình, BHXH quận Hai Bà Trưng, BHXH quận Đống Đa, BHXH huyện Từ Liêm, BHXH huyện Gia Lâm, BHXH huyện Sóc Sơn, và BHXH huyện Đông Anh Gần đây, hệ thống này đã được mở rộng với sự thành lập thêm BHXH quận Tây Hồ, quận Thanh Xuân, và quận Cầu Giấy.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) thành phố Hà Nội là đơn vị hạch toán thu - chi độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, thuộc hệ thống BHXH Việt Nam Ban đầu, BHXH Hà Nội được giao biên chế 180 người, trong đó 120 người được phân bổ cho các quận huyện, tạo nên cơ cấu tổ chức hợp lý cho đơn vị này.

Nội được phân thành 7 phòng ban như sau:

- Phòng kế hoạch tài vu;

- Phòng nghiệp vụ bảo hiểm (quản lý chế độ thu);

- Phòng máy tính và lưu trữ;

Nhiệm vụ của BHXH thành phố Hà Nội bao gồm tổ chức thực hiện Nghị định 12/CP và Nghị định 45/CP, cùng với các nhiệm vụ khác do BHXH Việt Nam hoặc nhà nước giao BHXH thành phố tập trung vào việc thu BHXH theo địa bàn và thực hiện 5 chế độ BHXH theo luật định Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ này, BHXH thành phố còn thực hiện các nghiệp vụ hỗ trợ như quản lý hồ sơ thu và chi trả chế độ BHXH, quyết toán, lập hồ sơ, quản lý lao động tiền lương, giải quyết khiếu nại, và thực hiện thanh tra, kiểm soát, kiểm toán.

BHXH huyện Đông Anh là một phần quan trọng của BHXH thành phố Hà Nội, với tất cả hoạt động đều nhằm phục vụ mục tiêu chung của BHXH Việt Nam Được thành lập vào tháng 9/1995 và hoạt động dưới sự chỉ đạo sát sao của BHXH thành phố Hà Nội, BHXH huyện Đông Anh thực hiện nhiều chức năng cơ bản để đảm bảo quyền lợi cho người dân.

Bảo hiểm xã hội Huyện đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Giám đốc Bảo hiểm xã hội Thành phố thực hiện các chính sách và chế độ bảo hiểm xã hội, đồng thời quản lý tài chính bảo hiểm xã hội tại địa bàn huyện Bảo hiểm xã hội quận hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp và toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội Thành phố, đồng thời chịu sự quản lý hành chính từ UBND quận.

Bảo hiểm xã hội Huyện Đông Anh là một cơ quan trực thuộc của BHXH

Thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ được giao từ Bảo hiểm xã hội Thành phố, bao gồm việc xây dựng chương trình và kế hoạch công tác hàng năm, trình Giám đốc Bảo hiểm xã hội Tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện hiệu quả.

Hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia bảo hiểm xã hội, đồng thời đôn đốc và theo dõi việc thu nộp bảo hiểm xã hội tại huyện Ngoài ra, thực hiện thu bảo hiểm xã hội theo phân cấp từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh.

Tiếp nhận kinh phí và danh sách từ Bảo hiểm xã hội tỉnh, tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo phân cấp.

Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng, giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả;

Tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến chế độ và chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ quan trọng, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân Các cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết theo quy định hoặc chuyển tiếp đến Bảo hiểm xã hội tỉnh để xem xét, xử lý kịp thời.

Tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả bảo hiểm xã hội ở xã, phường, thị trấn;

Quản lý đối tượng khám chữa bệnh bắt buộc và tự nguyện theo quy định của Bảo hiểm xã hội tỉnh; hướng dẫn và đôn đốc các đơn vị thực hiện thủ tục để khai thác, phát hành hoặc gia hạn thẻ khám chữa bệnh theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội tỉnh.

Giám định chi phí khám chữa bệnh cho người có sổ và thẻ bảo hiểm xã hội tại các cơ sở y tế là một nhiệm vụ quan trọng Quá trình này bao gồm việc tiếp nhận và hướng dẫn bệnh nhân khi họ đến khám, đồng thời giải quyết các vướng mắc để đảm bảo quyền lợi cho những người có bảo hiểm xã hội.

Thực hiện việc thông tin, tuyên truyền, giải thích chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội trên địa bàn;

Quản lý công chức, viên chức, tài chính và tài sản của Bảo hiểm xã hội huyện được thực hiện theo phân cấp từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố.

Với sự cố gắng và nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, BHXH huyện Đông Anh đã đạt được những thành tích như sau:

- Ủy ban Nhân dân Thành phố, Bảo hiểm xã hội Việt Nam tặng 6 bằng khen.

- Ủy ban Nhân dân Thành phố tặng cờ thi đua “ Đơn vị xuất sắc phong trào thi đua”.

Và nhiều giấy khen của Bảo hiểm xã hội TP Hà Nội và Ủy ban Nhân dân huyện Đông Anh,

Chi bộ Đảng luôn đạt chi bộ trong sạch vững mạnh Năm 2006, 2008 được Huyện Ủy tặng danh hiệu "Chi bộ trong sạch vững mạnh xuất sắc tiêu biểu".

2.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh

Tổng số cán bộ công chức viên chức tại Bảo hiểm xã hội Huyện Đông Anh là

Cơ quan BHXH huyện không chia theo phòng nghiệp vụ một cách cụ thể như BHXH Thành phố Hà Nội, nhưng được chia ra các bộ phận:

- Bộ phận quản lý chế độ chính sách BHXH

- Bộ phận chi trợ cấp ốm đau thai sản

- Bộ phận cấp sổ BHXH

- Bộ phận quản lý hồ sơ thu- chi BHXH

Việc phân chia công việc tại cơ quan BHXH huyện Đông Anh không rõ ràng và chỉ mang tính tương đối Mỗi cán bộ được giao quản lý công tác đốc thu tại một số đơn vị nhất định Cơ quan chi trả các chế độ BHXH suốt cả tuần, nhưng yêu cầu cán bộ phải dành một nửa thời gian làm việc tại các cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác như đốc thu BHXH, tuyên truyền về luật Lao động, và theo dõi sự biến động số lao động cũng như đối chiếu giữa số thu và số phải thu.

Cải cách hành chính trong việc chi trả và giải quyết chế độ BHXH diễn ra suốt tuần đã tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia, đảm bảo quyền lợi cho người lao động một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất.

Thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên địa bàn huyện Đông Anh

Sự ra đời của Điều lệ BHXH quy định mức đóng 22% từ năm 2014 đã tạo ra một khung pháp lý rõ ràng, bắt buộc người lao động và chủ sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ đóng phí BHXH đúng theo quy định Điều này giúp khắc phục tình trạng đóng phí một cách tùy tiện trước đây, đảm bảo tính hệ thống và quy củ trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội.

Sự phát triển của nền kinh tế và tốc độ tăng lao động tại huyện cao đã dẫn đến sự gia tăng mức thu BHXH, góp phần vào toàn hệ thống BHXH Việt Nam Tính đến năm 2013, tổng số thu BHXH, BHYT, BHTN đạt 451,98 tỷ đồng, tăng 54,12 tỷ đồng so với năm 2012, tương đương 136% Đến năm 2014, số thu đạt 529,2 tỷ đồng, hoàn thành kế hoạch của Thành phố và tăng 77,2 tỷ đồng so với năm 2013, tương đương 117%.

Nhận thức của người lao động về tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội (BHXH) ngày càng nâng cao, dẫn đến việc thu BHXH trở nên tự nguyện hơn Việc tổ chức tập huấn và hướng dẫn thực hiện BHXH cho các cơ sở liên quan giúp cả người lao động và người sử dụng lao động hiểu rõ hơn về BHXH cũng như tính cưỡng chế của pháp luật trong việc thực hiện Các đơn vị sử dụng lao động đã nhận thức được trách nhiệm của mình đối với nghĩa vụ với Nhà nước và người lao động, từ đó thúc đẩy quá trình đóng BHXH.

BHXH của người lao động và người sử dụng lao động tại Đông Anh đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý quỹ BHXH Việt Nam Với diện tích 18,230 ha và dân số 327,500 người (2008), Đông Anh có nhiều đơn vị và nguồn lao động dồi dào, tạo điều kiện cho việc thu BHXH Trước đây, công tác thu BHXH chưa được chú trọng do thuộc Sở tài chính và cục thuế Tuy nhiên, khi giao nhiệm vụ thu cho cơ quan BHXH, công tác này đã được thống nhất và tập trung quản lý Việc ban hành các văn bản quy định thu BHXH là cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả thu phí BHXH tại huyện Đông Anh.

Huyện Đông Anh có gần 9.500 ha đất nông nghiệp, chiếm hơn 50% diện tích tự nhiên, nhưng chủ yếu nằm trong quy hoạch phát triển công nghiệp và đô thị, chỉ còn gần 2.000 ha dành cho sản xuất nông nghiệp Năm 2014, huyện có 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới, với thu nhập bình quân của người dân trên 30 triệu đồng/năm và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,24% Sự nâng cao đời sống đã dẫn đến nhu cầu về bảo hiểm xã hội, đặc biệt là chế độ hưu trí, ngày càng tăng, giúp người dân nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của chế độ này trong phát triển BHXH huyện Đông Anh và Thành phố Hà Nội.

Năm 2014, do khó khăn kinh tế, nhiều doanh nghiệp tại huyện đã tạm ngừng hoạt động hoặc giảm lao động, dẫn đến việc nghỉ hưởng chế độ BHXH và chấm dứt hợp đồng lao động Một số doanh nghiệp Nhà nước gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ BHXH, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch thu của BHXH huyện Kết quả là, chỉ tiêu nợ đọng vẫn ở mức cao.

Công tác khai thác và phát triển các đơn vị ngoài quốc doanh tại huyện vẫn chưa đạt hiệu quả cao, thể hiện qua số lượng đơn vị đăng ký mới, số lao động tham gia và quỹ lương còn thấp.

Cơ sở vật chất của cơ quan còn nhiều hạn chế, với diện tích phòng làm việc nhỏ hẹp ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của nhân viên Hệ thống công nghệ thông tin chưa hoàn chỉnh, dẫn đến khó khăn trong quản lý và lưu trữ dữ liệu, gây lãng phí thời gian.

Huyện Đông Anh có diện tích rộng lớn với nhiều đơn vị hoạt động và số lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội cao Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ công chức viên chức tại cơ quan BHXH huyện còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc quản lý và giải quyết chế độ BHXH cho người dân tại từng xã.

Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chế độ hưu trí tại Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh, Hà Nội

Ngày đăng: 21/04/2022, 13:29

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng số 2.2: Kết quả chi lương hưu và T/c BHXH năm 2014 - Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện đông anh, hà nội (Chuyên đề ĐH Kinh tế Quốc dân)
Bảng s ố 2.2: Kết quả chi lương hưu và T/c BHXH năm 2014 (Trang 29)
Bảng 2.6: Kết quả thu BHXH theo khối quản lý (2013-2014) - Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện đông anh, hà nội (Chuyên đề ĐH Kinh tế Quốc dân)
Bảng 2.6 Kết quả thu BHXH theo khối quản lý (2013-2014) (Trang 39)
Bảng số 2.9: Nguồn chi trả BHXH và qui mô chi trả chế độ hưu trí - Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện đông anh, hà nội (Chuyên đề ĐH Kinh tế Quốc dân)
Bảng s ố 2.9: Nguồn chi trả BHXH và qui mô chi trả chế độ hưu trí (Trang 48)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w