TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
CÁC KHÁI NIỆM VỀ RỪNG
Năm 1930, Morozov đã định nghĩa rừng là một tổng thể cây gỗ có mối liên hệ tương tác, chiếm một không gian nhất định trên bề mặt đất và trong khí quyển Rừng không chỉ chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất mà còn là một phần quan trọng trong cảnh quan địa lý.
Năm 1952, M.E Tcachenco đã khẳng định rằng rừng là một phần quan trọng của cảnh quan địa lý, bao gồm hệ sinh thái đa dạng với cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật Trong quá trình phát triển, các thành phần này có mối quan hệ sinh học chặt chẽ và tác động lẫn nhau, đồng thời tương tác với môi trường xung quanh.
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 định nghĩa rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật, động vật, vi sinh vật, đất và các yếu tố môi trường khác Trong đó, cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính, với độ che phủ tán rừng từ 0,1 trở lên Rừng được phân loại thành rừng trồng và rừng tự nhiên, nằm trên các loại đất như rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
Thông tư số 34/2009/TT-PTNT ngày 10 tháng 6 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định rằng một đối tượng được xác định là rừng khi đáp ứng đủ ba tiêu chí cụ thể.
Hệ sinh thái rừng bao gồm các loài cây lâu năm thân gỗ, đặc biệt là cau dừa với chiều cao từ 5,0 mét trở lên, cùng với các loại cây khác như tre nứa Những cây này không chỉ cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗ mà còn mang lại nhiều giá trị khác như bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và tạo cảnh quan Rừng mới trồng và rừng tái sinh sau khai thác có chiều cao trung bình, góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ sinh thái.
Để được công nhận là rừng, cây sinh trưởng chậm phải đạt chiều cao tối thiểu 1,5 m, trong khi cây sinh trưởng nhanh cần cao trên 3,0 m và mật độ tối thiểu là 1.000 cây/ha Các hệ sinh thái nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản có sự hiện diện của một số cây lâu năm như cây thân gỗ, tre nứa, và cau dừa không được xem là rừng.
- Độ tàn che của tán cây là thành phần chính của rừng phải từ 0,1 trở lên
- Diện tích liền khoảnh tối thiểu từ 0,5 ha trở lên, nếu là dải cây rừng phải có chiều rộng tối thiểu 20 mét và có từ 3 hàng cây trở lên
Cây rừng trên các diện tích tập trung dưới 0,5 ha hoặc dải rừng hẹp dưới 20 mét được gọi là cây phân tán.
PHÂN LOẠI RỪNG
a) Phân loại trạng thái rừng theo hiện trạng
Theo quan điểm phân loại của Loeschau rừng Việt Nam đã đƣợc phân loại theo hiện trạng gồm 4 loại rừng:
Đất loại I là những khu vực đồi núi trọc, chưa có rừng hoặc đã mất rừng do khai thác quá mức, cháy rừng hoặc các nguyên nhân khác Trên loại đất này, chỉ có thảm cỏ, cây bụi và cây gỗ tái sinh từ hạt hoặc chồi, với chiều cao tương đương thảm cỏ hoặc thảm cây bụi.
Rừng phục hồi loại II bao gồm các cây tiên phong có đường kính nhỏ, thường là rừng non hoặc rừng sào phục hồi tự nhiên sau khi bị mất do cháy hoặc canh tác nương rẫy Loại rừng này có trữ lượng chưa đáng kể, nhưng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi hệ sinh thái.
- Loại III: Rừng tự nhiên đã bị tác động tại các mức độ khác nhau, chúng trong giai đoạn phân hóa (hoặc đang phục hồi hoặc đang thoái hóa)
- Loại IV: Rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh giàu phục hồi hoàn toàn b) Phân loại rừng theo nhân tố sinh thái phát sinh
Dựa trên quan điểm sinh thái về sự phát sinh quần thể thực vật, Thái Văn Trừng đã phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu rừng khác nhau.
Các kiểu rừng kín vùng thấp bao gồm: rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới, rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới, rừng kín rụng lá hơi ẩm nhiệt đới, và rừng kín lá cứng hơi khô nhiệt đới.
Rừng thưa bao gồm ba kiểu chính: kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới, kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô nhiệt đới và kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp Những kiểu rừng này đặc trưng bởi sự phát triển của cây cối trong điều kiện khí hậu khô hạn, tạo nên hệ sinh thái đa dạng và phong phú.
- Các kiểu trảng, chuông: Kiểu trảng cây to, cây bụi, cây cỏ cao khô nhiệt đới; Kiểu truông bụi gai hạn nhiệt đới
Các kiểu rừng kín vùng cao bao gồm: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng kín hỗn hợp cây lá rộng và lá kim ẩm á nhiệt đới núi thấp, cùng với rừng kín cây lá kim ôn đới ẩm núi vừa.
Các kiểu quần hệ khô lạnh vùng cao bao gồm kiểu quần hệ khô lạnh và kiểu quần hệ lạnh Phân loại rừng được thực hiện theo thông tư số 34/2009/TT-PTNT, giúp xác định các đặc điểm và sự phân bố của các loại rừng trong khu vực này.
- Phân loại rừng theo mục đích sử dụng: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất
- Phân loại rừng theo nguồn gốc hình thành: Rừng tự nhiên, rừng trồng
- Phân loại rừng theo điều kiện lập địa: Rừng núi đất, rừng núi đá, rừng ngập nước, rừng trên đất cát
- Phân loại rừng theo loài cây: Rừng gỗ, rừng tre nứa, rừng cau dừa, rừng hỗn giao gỗ và tre nứa
Rừng được phân loại theo trữ lượng thành hai nhóm chính: rừng gỗ và rừng tre nứa Đối với rừng gỗ, có các loại như rừng rất giàu, rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo và rừng chưa có trữ lượng Còn đối với rừng tre nứa, việc phân loại dựa trên loài cây, cấp đường kính và cấp mật độ.
Đất chưa có rừng bao gồm các loại như đất có rừng trồng nhưng chưa phát triển thành rừng, đất trống có cây gỗ tái sinh, đất trống không có cây gỗ tái sinh và núi đá không có cây.
CÁC CHỈ SỐ THỰC VẬT NDVI VÀ NBR
a) Chỉ số NDVI (Nomarlized Difference Vegetation Index - chỉ số khác biệt thực vật chuẩn hóa)
NDVI, hay chỉ số khác biệt thực vật, là tỷ lệ giữa bước sóng màu đỏ và bước sóng cận hồng ngoại (NIR) so với tổng các bước sóng, giúp đánh giá mật độ và độ dày của thảm thực vật trên bề mặt.
* Chỉ số thực vật NDVI được tính toán theo công thức:
( ) Trong đó: - NIR (Near Infrared) giá trị điểm ảnh kênh cận hồng ngoại
- RED là giá trị điểm ảnh trên kênh đỏ Đồi với Landsat 8: NIR = Band 5, RED= Band 4
NDVI có giá trị từ -1 đến +1, với giá trị thấp cho thấy độ phủ thực vật kém và giá trị cao cho thấy độ phủ thực vật tốt Giá trị âm của NDVI chỉ ra rằng khu vực đó không có thực vật Theo bảng phân loại của USGS, chỉ số NDVI được sử dụng để phân loại các loại lớp phủ thực vật khác nhau.
Bảng 1.1 Phân loại NDVI theo chất lƣợng thực vật trong lớp phủ bề mặt
Giá trị NDVI Lớp phủ mặt đất
0.66 High-severity burn (Mức độ cháy cao)
Chỉ số NBR sử dụng băng tần hồng ngoại ngắn, nên chỉ có thể triển khai trên các ảnh có dải sóng ngắn như Landsat và MODIS Hơn nữa, kỹ thuật dNBR rất nhạy cảm với độ ẩm của thực vật.
Nghiên cứu về sự biến động của thực vật và đất trước và sau khi xảy ra cháy rừng đã chỉ ra rằng mưa có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu Do đó, thời điểm nghiên cứu được chọn chủ yếu là mùa khô Tại tỉnh Điện Biên, các biến động về diện tích rừng chủ yếu do cháy rừng hoặc việc phá rừng để làm nương, sau đó người dân thường đốt để lấy đất canh tác.
CÁC NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ ĐỊA KHÔNG GIAN GIÁM SÁT MẤT RỪNG VÀ SUY THOÁI RỪNG
Công nghệ không gian địa lý đã được áp dụng từ sớm để giám sát tài nguyên rừng, với việc sử dụng ảnh hàng không từ đầu thế kỷ 20 để khoanh vẽ trạng thái rừng Ảnh hàng không, được lưu trữ trên giấy hoặc dưới dạng số, đã giúp nhiều quốc gia như Canada, Mỹ và Anh xây dựng bản đồ tài nguyên rừng Ưu điểm của ảnh hàng không là cung cấp cái nhìn tổng quát về phân bố rừng và ghi nhận sự biến đổi theo thời gian, với khả năng chụp ở nhiều bước sóng khác nhau, phản ánh thông tin không thể thấy bằng mắt thường Tuy nhiên, việc chụp, lưu giữ, hiệu chỉnh và giải đoán ảnh hàng không rất khó khăn, đòi hỏi trình độ và kinh nghiệm cao, dẫn đến kết quả không đồng nhất và tốn kém thời gian cũng như nhân lực Tại Việt Nam, công nghệ giải đoán bằng mắt cũng được áp dụng cho ảnh vệ tinh trong phân loại rừng, nhưng đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Trong 35 năm qua, ảnh vệ tinh đã trở thành công cụ chủ yếu trong việc xây dựng bản đồ tài nguyên rừng, dần thay thế ảnh hàng không nhờ vào phương pháp xử lý số hiệu quả (Lambin và các cộng sự, 2001) Phương pháp này cho phép xử lý nhanh chóng và phân loại đối tượng trên diện rộng mà không cần thực địa, mang lại kết quả khách quan dựa vào cấp độ xám của pixel Ảnh vệ tinh không chỉ giúp xây dựng bản đồ tài nguyên rừng với quy mô và tỷ lệ khác nhau mà còn cho phép đánh giá biến động hiện trạng rừng theo thời gian Nhờ những ưu điểm này, nhiều chuyên gia và nhà nghiên cứu đã sử dụng ảnh vệ tinh để khoanh vẽ lớp phủ thực vật trên bề mặt trái đất từ quy mô nhỏ đến toàn cầu (Yichun et al., 2008).
Hiện nay, trên thế giới có nhiều loại vệ tinh cung cấp ảnh với độ phân giải không gian, phổ, số lượng kênh phổ và chu kỳ bay chụp khác nhau, từ ảnh đa phổ đến ảnh siêu phổ, với bước sóng từ nhìn thấy đến sóng siêu cao tần Độ phân giải không gian của các ảnh này dao động từ dưới 1m đến vài km, và chu kỳ bay chụp có thể từ hàng ngày đến hàng tháng Theo Navulur (2006), ảnh vệ tinh được phân loại theo độ phân giải không gian thành bốn nhóm: ảnh có độ phân giải thấp (trên 30m), trung bình (10m - 30m), cao (2 - 10m) và rất cao (dưới 2m) Mỗi loại ảnh có những đặc điểm riêng về độ phân giải, bước sóng, chu kỳ bay chụp và giá thành, do đó, việc lựa chọn ảnh vệ tinh phù hợp trong xây dựng bản đồ phân loại rừng là rất quan trọng, thường dựa trên các yếu tố như mục tiêu của bản đồ, giá thành ảnh và điều kiện khí hậu.
Trong việc xây dựng bản đồ phân loại rừng, các loại ảnh viễn thám phổ biến được sử dụng bao gồm Landsat TM và ETM+, SPOT, MODIS, NOAA-AVHRR, IKONOS và QuickBird, cùng với những yêu cầu kỹ thuật cần thiết cho việc giải đoán ảnh.
Andrea S Laliberte và cộng sự (2004) đã xây dựng bản đồ xâm lấn của cây bụi ở phía Nam New Mexico từ năm 1937 đến 2003 bằng cách phân vùng ảnh và phân loại đối tượng trên 11 ảnh hàng không từ 1937 đến 1996 và ảnh QuickBird năm 2013 Nghiên cứu cho thấy độ che phủ của cây bụi tăng từ 0,9% năm 1937 lên 13,1% năm 2003, trong khi thảm cỏ giảm từ 18,5% xuống 1,9% Kết quả cũng chỉ ra rằng phương pháp phân loại dựa trên đối tượng có nhiều ưu điểm hơn so với phân loại dựa trên pixel trong việc tách lớp phủ cây bụi trên ảnh vệ tinh có độ phân giải cao.
Yang Jiang và Yan Li (2013) đã sử dụng phương pháp phân loại định hướng đối tượng để xây dựng bản đồ lớp phủ rừng khu vực Hàng Châu cho các năm 2000, 2005 và 2010 từ ảnh Landsat TM/ETM+ Nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích sự phân bố và biến động rừng tại Hàng Châu, đồng thời thống kê và đánh giá động thái của rừng Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở dữ liệu quan trọng cho chính quyền địa phương trong việc đưa ra quyết định bảo vệ rừng hiệu quả.
Nghiên cứu của Charlie Navanugraha (1996) tập trung vào sự thay đổi tại ba tiểu lưu vực của hệ thống sông Chiangmai, với tổng diện tích 6.692 km2 Các nhà khoa học đã sử dụng ảnh viễn thám LandSat từ năm 1985 đến 1995 nhằm đánh giá sự thay đổi sử dụng đất trong các diện tích rừng nhiệt đới và dự báo xu hướng sử dụng đất trong tương lai Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi và phân tích sự thay đổi môi trường để có những biện pháp bảo vệ và quản lý tài nguyên thiên nhiên hiệu quả hơn.
Nghiên cứu chỉ ra rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa các nhân tố kinh tế xã hội và tình trạng rừng Cụ thể, những khu vực có mật độ dân số cao thường chứng kiến sự suy giảm diện tích rừng Điều này cho thấy rằng sự gia tăng dân số tỷ lệ thuận với việc mất đi diện tích rừng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý tài nguyên rừng trong bối cảnh phát triển dân số.
Nghiên cứu của Muh Dimyati và các cộng sự (1996) tại Yogyakarta đã sử dụng Viễn thám và GIS để đánh giá sự thay đổi sử dụng đất và thảm thực vật Bằng cách phân tích ảnh viễn thám LandSat từ năm 1972 và 1984 cùng với bản đồ hiện trạng SDĐ năm 1990, nghiên cứu chỉ ra sự gia tăng đất thổ cư và giảm đất nông nghiệp Nguyên nhân chính của những thay đổi này là do tăng dân số và sự mở rộng của các tuyến giao thông Kết quả nghiên cứu đã khuyến cáo Chính phủ và các cơ quan chức năng cần có chính sách sử dụng đất hợp lý và bền vững.
Nghiên cứu của Simone R Freitas và các cộng sự (2005) đã chỉ ra sự suy giảm đáng kể diện tích rừng ở Việt Nam, với 1,2 triệu ha rừng nguyên sinh bị chặt phá trong giai đoạn 1990-1995 để phục vụ cho nông nghiệp, đồng cỏ và các hoạt động khác như xây dựng Mặc dù vậy, khoảng 410.000 ha rừng đã được tái sinh trong cùng thời gian này Kết quả nghiên cứu, dựa trên 158 cảnh ảnh vệ tinh LandSat TM, đã cung cấp một bộ cơ sở dữ liệu chính xác cho việc quản lý tài nguyên thiên nhiên, hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và các nghiên cứu khoa học tiếp theo.
Robin S Reid và các cộng sự (2002) đã tiến hành nghiên cứu sự thay đổi lớp phủ tại San José, Costa Rica, sử dụng ảnh vệ tinh LandSat TM Nghiên cứu này theo dõi biến động trong khoảng thời gian 7 năm, bắt đầu từ tháng 12.
Nghiên cứu từ năm 1991 đến tháng 1 năm 1997 đã chỉ ra sự thay đổi thực vật ở các khu vực phân tán không tập trung và khu vực tập trung, cùng với sự biến đổi độ ẩm bề mặt Đặc biệt, quá trình đô thị hóa tại các khu đồi thấp và gần khu dân cư, cũng như tại các khu vực đồng cỏ, đã tác động mạnh mẽ đến thảm thực vật Hơn nữa, việc chặt phá rừng để phát triển nương rẫy, chủ yếu trồng cây chuối, cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự biến đổi này.
Trong hai thập kỷ qua, công nghệ Viễn thám và GIS đã đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu và quản lý tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam, mang lại nhiều kết quả tích cực Đặc biệt trong quản lý tài nguyên rừng, Viễn thám và GIS đã được sử dụng để xây dựng bản đồ hiện trạng rừng, phân vùng trọng điểm cháy rừng và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng Những ứng dụng này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng.
Chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi tài nguyên rừng toàn quốc đã được thực hiện qua các giai đoạn từ 1991 đến 2015, sử dụng các phương pháp như điều tra thực địa, kế thừa tài liệu và công nghệ viễn thám kết hợp với GIS Các dữ liệu hình ảnh từ máy bay, Landsat ETM, SPOT và VNRedsat1 đã được sử dụng để xây dựng bản đồ hiện trạng rừng Qua việc so sánh kết quả hiện trạng từ giải đoán ảnh viễn thám với các bản đồ trước đó, chương trình đã xác định được diễn biến diện tích rừng và đất lâm nghiệp Kết quả ban đầu đã tạo ra cơ sở dữ liệu quý giá về tài nguyên rừng.
Bài viết trình bày việc sử dụng 14 ảnh vệ tinh kết hợp với số liệu thống kê ngành lâm nghiệp để theo dõi và thống kê diễn biến diện tích rừng tại các địa phương Qua việc giải đoán ảnh Landsat 7, đã xây dựng bản đồ rừng tỷ lệ 1/100.000 cho 61 tỉnh thành phố, bản đồ tỷ lệ 1/250.000 cho 6 vùng lâm nghiệp và bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000 cho toàn quốc Đồng thời, từ ảnh Spot 5, bản đồ hiện trạng rừng đến cấp xã tỷ lệ 1:25.000 cũng đã được xây dựng cho 21 tỉnh Chương trình còn tổng hợp, phân tích và đánh giá biến động tài nguyên rừng qua các thời kỳ, xác định nguyên nhân gây biến động tài nguyên rừng.
- Công trình nghiên cứu của Nguyễn Đình Dương và cộng sự (2004)
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Mục tiêu chung: Cung cấp cơ sở khoa học cho việc ứng dụng công nghệ địa không gian trong giám sát mất rừng, suy thoái rừng tại Việt Nam
+ Xác định đặc điểm hiện trạng rừng tỉnh Điện Biên
+ Xây dựng quy trình kỹ thuật giám sát mất rừng, suy thoái rừng bằng công nghệ địa không gian
+ Xác định nguyên nhân mất rừng, suy thoái rừng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng tỉnh Điện Biên.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào đặc điểm hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp tại tỉnh Điện Biên, bao gồm tình hình mất rừng và suy thoái rừng Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến quy trình kỹ thuật giám sát để theo dõi và đánh giá tình trạng mất rừng cũng như suy thoái rừng trong khu vực này.
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ diện tích rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Điện Biên
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2015 đến hết tháng 12/2016.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Nội dung 1 Nghiên cứu đặc điểm hiện trạng rừng ở tỉnh Điện Biên
- Nội dung 2 Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật giám sát mất rừng, suy thoái rừng bằng công nghệ địa không gian
- Nội dung 3 Nghiên cứu xác định nguyên nhân mất rừng, suy thoái rừng tỉnh Điện Biên
- Nội dung 4 Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng ở tỉnh Điện Biên.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hệ thống MRV (Giám sát - Báo cáo - Kiểm chứng) cho phép cập nhật thông tin kịp thời về tình trạng và diễn biến tài nguyên rừng Nghiên cứu này tập trung vào việc xây dựng mô hình giám sát mất rừng và suy thoái rừng, nhằm phục vụ công tác theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp, cũng như quản lý và bảo vệ rừng tại tỉnh Điện Biên.
Tổng hợp một số tiêu chí, yêu cầu và phương pháp nghiên cứu cơ bản thực hiện đề tài đƣợc thể hiện trong Phụ lục 1
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
2.4.1 Phương pháp kế thừa và xử lý số liệu
Các tài liệu thống kê hàng năm về lâm nghiệp, quy hoạch sử dụng đất, niên giám thống kê và báo cáo kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên cung cấp cơ sở quan trọng để phân tích và tổng hợp thực trạng tài nguyên rừng tại địa phương Việc phân tích những tài liệu này không chỉ giúp khái quát diễn biến tài nguyên rừng mà còn định hướng cho các bước nghiên cứu tiếp theo.
Dựa trên kết quả của các cuộc điều tra và kiểm kê rừng, bài viết cập nhật những thay đổi về rừng tại tỉnh Điện Biên, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về đặc điểm hiện trạng rừng ở khu vực này.
2.4.2 Phương pháp nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật trong giám sát mất rừng, suy thoái rừng a) Xác định khu vực quan tâm, lựa chọn khái niệm, hệ thống phân loại thảm thực vật rừng và các tiêu chí đánh giá sự thay đổi thảm thực vật rừng để áp dụng đáp ứng các mục tiêu của giám sát mất rừng, suy thoái rừng
* Xác định khu vực cần quan tâm:
Vùng quan tâm là khu vực thiết yếu để giám sát tình trạng mất rừng và suy thoái rừng Quy mô và nguồn lực cần thiết để thực hiện việc giám sát này có thể thay đổi tùy thuộc vào cấp độ quản lý, bao gồm quốc gia, tỉnh, huyện, xã hoặc các đơn vị tương đương.
Nghiên cứu này áp dụng quy trình kỹ thuật giám sát mất rừng và suy thoái rừng ở cấp tỉnh, huyện và xã, dựa trên đơn vị cơ bản là lô rừng theo các chủ quản lý từ cơ sở.
* Đề tài chọn vùng nghiên cứu, đối tượng điều tra khảo sát và quy mô nghiên cứu cụ thể như sau:
Tỉnh Điện Biên được chọn làm đối tượng nghiên cứu nhằm áp dụng quy trình kỹ thuật giám sát mất rừng và suy thoái rừng thông qua công nghệ địa không gian, dựa trên các kết quả tổng kết từ thực tiễn.
Tỉnh Điện Biên được chọn vì có diện tích rừng phong phú với nhiều kiểu và trạng thái khác nhau, nhưng tài nguyên rừng đang chịu nhiều biến động do tác động của điều kiện tự nhiên và con người Đặc biệt, kết quả kiểm kê rừng năm 2015 đã được hoàn thành, cung cấp cơ sở quan trọng để xác minh các phương pháp và kết quả nghiên cứu của đề tài.
Tại tỉnh Điện Biên, nghiên cứu sâu về huyện Mường Nhé tập trung vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu và quy trình giám sát mất rừng, suy thoái rừng thông qua công nghệ địa không gian Đề tài tiến hành khảo sát thực tế tại các xã, huyện nhằm thu thập dữ liệu và thông tin về tình hình phân bố tài nguyên rừng, đặc điểm rừng cũng như các tác động đến tài nguyên rừng tại địa phương Đồng thời, nghiên cứu sẽ làm rõ các nguồn dữ liệu và chất lượng dữ liệu địa không gian hiện có, xác định mốc thời gian và sự kiện tác động lớn nhất đến rừng, cũng như các nguyên nhân dẫn đến mất rừng và suy thoái rừng trong quá khứ và hiện tại.
20 Đề tài tiến hành chọn ngẫu nhiên các vị trí suy thoái rừng với các thông tin Phụ lục 2 và Phụ lục 3
Đề tài nghiên cứu tập trung vào việc xác định khái niệm về rừng, hệ thống phân loại rừng và các tiêu chí đánh giá diễn biến rừng dựa trên Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT Nghiên cứu đã tham vấn ý kiến chuyên gia để điều chỉnh các bất cập trong Thông tư, nhằm xây dựng tiêu chí đánh giá mất rừng và suy thoái rừng, cũng như lập bản đồ hiện trạng rừng phù hợp với điều kiện sử dụng viễn thám Đơn vị cơ bản để đánh giá là các lô rừng theo chủ quản lý, với việc phân loại vùng có rừng và không có rừng Giám sát suy thoái rừng phức tạp hơn so với mất rừng, do đó nghiên cứu đánh giá độ chính xác của các tiêu chí trong từng điều kiện cụ thể tại khu vực Đồng thời, đề tài cũng chú trọng vào việc lựa chọn và thu thập dữ liệu không gian, dữ liệu mặt đất và thông tin bổ trợ để phục vụ cho việc đánh giá.
Các nghiên cứu tổng quan cho thấy việc kết hợp các nguồn dữ liệu viễn thám mang lại hiệu quả giải đoán cao nhất về cả kinh tế và độ chính xác Trong bối cảnh lâm nghiệp thực tiễn ở Việt Nam, đề tài này sử dụng và kiểm tra ảnh Landsat 8 để xây dựng bản đồ cấp huyện và tỉnh, nhờ vào độ phân giải trung bình 30 m và khả năng miễn phí của ảnh Landsat.
21 ứng dụng quan trọng trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt là giám sát mất rừng và suy thoái rừng, được sử dụng để tính toán các giá trị NDVI và NBR cho hai thời điểm khác nhau nhằm hỗ trợ so sánh Đề tài sử dụng dữ liệu GIS từ các bản đồ nền, địa hình, địa giới hành chính, hệ thống giao thông và lưới điểm khống chế mặt đất của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng với các bản đồ điểm tham chiếu và ranh giới lô khoảnh rừng từ Viện Điều tra quy hoạch rừng Thực tiễn được điều chỉnh bằng công cụ GPS và sự tham gia của cán bộ kỹ thuật và cộng đồng địa phương Ngoài ra, đề tài còn kế thừa và chọn lọc tài liệu liên quan đến giám sát, báo cáo và kiểm chứng tình trạng mất rừng, suy thoái rừng tại Việt Nam, cũng như các kết quả kiểm kê rừng qua các năm để theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Điện Biên.
2.4.3 Các phương pháp xử lý, thuật toán phân loại tư liệu viễn thám và phân tích hậu phân loại
Để xây dựng quy trình kỹ thuật giám sát mất rừng và suy thoái rừng, cần tính toán các chỉ số NDVI và NBR tại hai thời điểm (một trong quá khứ và một hiện tại) nhằm so sánh và đánh giá Việc giải đoán hiện trạng rừng trong quá khứ giúp kiểm chứng độ chính xác của tư liệu viễn thám và các phương pháp giải đoán Để thực hiện điều này, cần dựa vào ảnh vệ tinh, bản đồ và tài liệu đã công bố, cùng với phỏng vấn tại hiện trường dựa trên hệ thống lưới điểm được chọn theo phương pháp rút mẫu phân tầng Đối với việc giải đoán ảnh hiện tại, cần căn cứ vào các điểm khảo sát thực tế.
22 tham gia đánh giá và cung cấp thông tin của người dân địa phương nhằm tăng độ chính xác của các kết quả giải đoán
Quá trình giải đoán ảnh viễn thám phải thông qua các bước và phương pháp cơ bản sau đây:
Phương pháp tiền xử lý ảnh viễn thám là bước quan trọng để hiệu chỉnh các sai lệch do sensor, thời tiết và góc chiếu của mặt trời Quy trình này bao gồm đăng nhập ảnh, hiệu chỉnh hình học và xạ, sử dụng các điểm tham chiếu điều tra mặt đất Đặc biệt, mô hình số độ cao ASTER DEM và bản đồ nền địa hình tỷ lệ 1/10000 giúp tạo DEM với độ phân giải cao Việc phát hiện vùng mây và thiếu dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm Pancroma và Model maker trong ENVI/Erdas Imagine Ngoài ra, các phương pháp chuẩn hóa ảnh và tổ hợp ảnh đa phổ, đa thời gian được áp dụng để giảm thiểu sai số trong phân tích biến đổi rừng Sau khi tiền xử lý, các ảnh viễn thám được tổ hợp theo loại và thời gian, cung cấp dữ liệu đầu vào cho quá trình phân tích và giải đoán.
- Nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp giải đoán và phương pháp thành lập bản đồ rừng:
Hiện nay, có hai phương pháp tiếp cận trong giải đoán ảnh viễn thám: giải đoán dựa trên điểm ảnh (pixel based) và giải đoán dựa trên đối tượng (object based) Các thuật toán phổ biến được sử dụng trong giải đoán ảnh viễn thám bao gồm ISODATA, K-mean và Maximum.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH ĐIỆN BIÊN
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
3.1.1 Vị trí địa lý Điện Biên là tỉnh miền núi cực Tây của tổ quốc, cửa ngõ phía Tây Bắc của vùng Bắc Bộ đồng thời cũng là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2 quốc gia Trung Quốc và Lào Là đầu mối giao lưu của vùng Tây Bắc Việt Nam với các tỉnh Bắc Lào và Tây Nam Trung Quốc; cách thủ đô Hà Nội gần 500 km về phía Tây, có tọa độ địa lý từ 20 0 54' đến 22 0 33' vĩ độ Bắc và từ
102 0 10' đến 103 0 36' kinh độ Đông Có địa giới hành chính nhƣ sau:
+ Phía Bắc giáp tỉnh Lai Châu;
+ Phía Đông giáp và Đông bắc: tỉnh Sơn La;
+ Phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam - nước CHND Trung Hoa;
+ Phía Tây và Tây Nam giáp với 2 tỉnh Luông Pha Băng và Phong Xa
Tỉnh Điện Biên đóng vai trò quan trọng trong quốc phòng và an ninh của Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ cũng như toàn quốc Nơi đây nổi tiếng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, một sự kiện đã gây chấn động toàn cầu Trong lịch sử Việt Nam, vùng Tây Bắc và tỉnh Điện Biên luôn là tiền đồn chiến lược, góp phần bảo vệ đất nước.
Tỉnh Điện Biên có tổng diện tích tự nhiên lên tới 954.125,06 ha, bao gồm 10 đơn vị hành chính: Thành phố Điện Biên Phủ (trung tâm tỉnh), Thị xã Mường Lay, và các huyện Mường Nhé, Mường Chà, Tủa Chùa, Tuần Giáo, Mường Ảng, Điện Biên, Nậm Pồ, và Điện Biên Đông.
Tỉnh Điện Biên có địa hình phức tạp, với độ cao giảm dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng từ Tây sang Đông Địa hình nơi đây được hình thành chủ yếu bởi các dãy núi, tạo nên một cảnh quan đa dạng và độc đáo.
Tỉnh Điện Biên có địa hình chủ yếu là đồi núi cao, trải dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với độ cao từ 200 m đến hơn 1.800 m Địa hình này chiếm khoảng 90% diện tích tự nhiên của tỉnh và phân bố chủ yếu tại các huyện.
Nhiều xã trong khu vực nằm ở độ cao tuyệt đối 700 m so với mực nước biển như Si Pa Phìn, Phình Giàng, Pú Nhi, Na Son, trong khi địa hình chủ yếu là đồi núi cao và thấp Địa hình đồi núi thấp có dạng uốn nếp, với độ cao dưới 700 m, xen lẫn là các thung lũng và sông suối nhỏ hẹp, thường có độ dốc dưới 250, tập trung dọc theo các con sông lớn như sông Mã, sông Nậm Núa, sông Nậm Mức và các suối như Nậm Pồ, Nậm Lay Các thung lũng này có tiềm năng phát triển nông nghiệp, nhưng chỉ có thung lũng Mường Thanh, với diện tích hơn 150 km², là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh Điện Biên và vùng Tây Bắc, trong khi các vùng khác ở các huyện Mường Chà, Tuần Giáo, Mường Nhé có diện tích nhỏ hơn.
3.1.3 Khí hậu, thời tiết và thủy văn a) Đặc điểm khí hậu
Khí hậu tỉnh Điện Biên mang đặc trưng của vùng Tây Bắc với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao, được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô Tỉnh này được phân thành hai tiểu vùng khí hậu chính, bao gồm tiểu vùng khí hậu Mường Chà và tiểu vùng khí hậu trên cao nguyên Sơn La, nằm ở thượng nguồn sông Mã.
Mùa mưa ở Việt Nam diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10, đặc trưng bởi thời tiết nóng, ẩm và lượng mưa lớn Mưa thường tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7 và 8, chiếm từ 80 đến 90% tổng lượng mưa trong năm Thời tiết trong mùa này có diễn biến bất thường và đa dạng.
Mùa khô ở Việt Nam diễn ra từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, đặc trưng bởi thời tiết khô hanh, ít mưa và lạnh Trong khoảng thời gian này, tổng lượng mưa chỉ chiếm từ 20% đến 22% tổng lượng mưa cả năm.
Nhiệt độ bình quân hàng năm tại khu vực này đạt 22,3°C, với nhiệt độ tháng cao nhất ghi nhận là 27°C và tháng thấp nhất là 17°C Nhiệt độ cao nhất trong ngày có thể lên tới 36,8°C, trong khi nhiệt độ thấp nhất trong ngày là 0,6°C.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.000 mm đến 2.000 mm, với mức cao nhất rơi vào các tháng 6, 7, 8, đạt từ 400 mm đến 500 mm mỗi tháng Trong mùa mưa này, lượng mưa chiếm khoảng 86% tổng lượng mưa cả năm, dẫn đến nguy cơ xảy ra lũ quét và sạt lở đất Ngược lại, mùa khô, đặc biệt là vào các tháng 12 và 1, lượng mưa giảm xuống chỉ còn 50 - 60 mm mỗi tháng.
Điện Biên có độ ẩm tương đối lớn, với mức trung bình nhiều năm đạt 84%, phân bố đồng đều khắp các vùng trong tỉnh Trong mùa mưa, độ ẩm cao lên tới 88%, trong khi mùa khô, độ ẩm có thể giảm xuống chỉ còn khoảng 70%.
Khu vực Điện Biên có lượng bốc hơi hàng năm khá lớn, với tháng 3 và tháng 4 ghi nhận mức bốc hơi cao nhất, đạt trên 100 mm/tháng Thời điểm này thường rơi vào mùa khô hanh, có gió Lào và nắng nhiều Ngược lại, vào các tháng 6, 7 và 8, lượng bốc hơi giảm do có mưa nhiều và độ ẩm không khí tăng cao.
Số giờ nắng bình quân hàng năm dao động từ 1.820 đến 2.035 giờ Trong đó, tháng 6, thuộc mùa lũ, ghi nhận số giờ nắng thấp nhất với dưới 130 giờ, trong khi các tháng ít mưa có số giờ nắng cao nhất, vượt quá 190 giờ.
Tỉnh Điện Biên chịu ảnh hưởng từ nhiều hướng gió khác nhau Gió Đông Nam thổi vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9, mang theo hơi nước, tạo thời tiết mát mẻ và gây ra mưa rào Vào mùa Đông, gió mùa Đông Bắc xuất hiện, mang theo không khí lạnh và khô hanh Từ tháng 3 đến tháng 5, gió Tây Nam (gió Lào) thường xuất hiện, tạo ra thời tiết khô và nóng, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông lâm nghiệp và đời sống Tốc độ gió trung bình ở Điện Biên là 0,9 m/s, thấp hơn so với vùng miền núi Đông Bắc, nơi có tốc độ gió đạt 1,8 m/s.
ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI
3.2.1 Dân số, dân tộc, lao động a) Dân số
Dân số tăng đồng nghĩa với nhu cầu về lương thực và nhà ở cũng tăng
Sự gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu ngày càng cao về lương thực và nhà ở, khiến cho cây gỗ bị khai thác nhiều hơn và đất rừng bị chuyển đổi thành đất canh tác Điều này đã góp phần làm mất rừng và suy thoái rừng.
Điện Biên, tỉnh vùng núi cao, có dân số khoảng 557.411 người theo số liệu năm 2016, với tỷ lệ nam nữ gần như cân bằng (nam: 278.742 người, nữ: 278.669 người) Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 58 người/km², thấp hơn so với mật độ trung bình của vùng Tây Bắc (93 người/km²) và cả nước (265 người/km²) Thành phố Điện Biên Phủ có mật độ dân số cao nhất với 817 người/km², trong khi huyện Mường Nhé có mật độ thấp nhất chỉ 21 người/km² Đáng chú ý, 85% dân số tỉnh Điện Biên sinh sống tại các khu dân cư nông thôn.
Tốc độ tăng dân số của Điện Biên hiện nay đã giảm xuống còn 1,77% mỗi năm trong giai đoạn 2012 - 2016, nhưng vẫn cao hơn mức tăng dân số trung bình của vùng Tây Bắc là 1,5%.
31 cả nước (1,1%) Trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng dân số của tỉnh có xu hướng giảm từ 1,82 % năm 2013 xuống còn 1,76% năm 2015
Bảng 3 1 Hiện trạng dân số tỉnh Điện Biên giai đoạn 2012-2015 Đơn vị hành chính cấp huyện Năm
1 Thành phố Điện Biên Phủ 51.769 52.884 53.998 55.072 56.112
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2015) b) Dân tộc
Toàn tỉnh có 21 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất với 38,2%, tiếp theo là dân tộc H’Mông 34,8%, dân tộc Kinh 17,0% và dân tộc Khơ Mú 3,9% Các dân tộc khác như Dao, Hà Nhì, Giáy, La Hủ, Lào, Lự, Hoa, Kháng, Mảng, Tày cũng góp mặt Mật độ dân cư ở đây thưa thớt, sống phân tán trong các bản làng gần rừng và trong rừng Đời sống văn hóa và dân trí của người dân còn thấp, chủ yếu canh tác dựa vào nương rẫy, và họ thuộc diện nghèo khó nhất so với cả nước.
Năm 2015, tỉnh có 279.035 lao động, chiếm 53,2% tổng dân số, trong đó lao động nông, lâm nghiệp là 207.323 người (74,3%), còn lại là lao động phi nông nghiệp (25,7%) Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ đạt 18,9%, chủ yếu tập trung ở các ngành dịch vụ, công nghiệp và hành chính, trong khi số lao động qua đào tạo cho lâm nghiệp rất thấp Điều này cho thấy lực lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là trong lĩnh vực lâm nghiệp.
3.2.2 Hiện trạng các ngành kinh tế
Theo số liệu thống kê năm 2015, cơ cấu kinh tế của tỉnh chủ yếu bao gồm ba nhóm ngành: nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22,32%, công nghiệp và xây dựng chiếm 41,45%, và dịch vụ chiếm 36,23% Cơ cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo hướng tích cực với tốc độ ngày càng nhanh, trong đó nông lâm nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng.
Trong những năm gần đây, Điện Biên đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định trong khu vực Tây Bắc, với GDP bình quân 5 năm (2001-2015) đạt 11,2%/năm Cụ thể, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng bình quân 4,73%, công nghiệp và xây dựng đạt 9,78%, trong khi dịch vụ tăng trưởng 12,8% (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên năm 2015).
Kinh tế tỉnh Điện Biên phụ thuộc lớn vào đầu tư từ ngân sách Nhà nước, với 80% nguồn thu đến từ Trung ương trợ cấp Phần thu tại địa phương chỉ chiếm khoảng 20% tổng thu ngân sách, cho thấy sự hạn chế trong khả năng tự chủ tài chính Đặc biệt, do là tỉnh nghèo, Điện Biên gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư tại chỗ cho công tác bảo vệ và phát triển rừng.
33 a) Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Trong những năm gần đây, sản xuất công nghiệp ở Điện Biên đã phát triển nhanh chóng và đa dạng nhờ vào chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước và chủ trương của tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội Sự hỗ trợ tích cực từ các Bộ ngành Trung ương đã giúp tỉnh cải tạo, nâng cấp và mở rộng các cơ sở sản xuất, đưa ngành công nghiệp vào thế ổn định và phát triển Năm 2015, tổng giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt 2.396,83 tỷ đồng, chiếm 12,5% tổng giá trị sản phẩm toàn tỉnh.
Các cơ sở sản xuất công nghiệp tại tỉnh chủ yếu tập trung vào chế biến nông, lâm sản và thực phẩm, chiếm hơn 55% tổng số cơ sở Tiếp theo là lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng như dệt may và nhựa, cùng với cơ khí sửa chữa nhỏ Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trong khai thác đá, than và vật liệu xây dựng.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tại tỉnh đã phát triển nhanh chóng và ổn định, đóng góp quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu lương thực - thực phẩm, đặc biệt ở các vùng cao và xa Năm 2015, giá trị sản xuất của ngành này đạt 4.279 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng 18,2%/năm Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng đã có những chuyển biến tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tỉnh Điện Biên nổi bật với nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn, bao gồm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và văn hóa - lịch sử Những sản phẩm này đã góp phần quan trọng vào sự gia tăng lượng du khách, từ 151,5 nghìn lượt khách vào năm 2008 lên con số ấn tượng trong những năm tiếp theo.
253,75 ngàn lƣợt khách năm 2015, bình quân thời kỳ tăng 5,0%, riêng khách Quốc tế tăng bình quân 20,3% Doanh thu du lịch năm 2015 đạt 237 tỷ đồng
3.2.3 Kết cấu hạ tầng a) Giao thông vận tải:
Tỉnh Điện Biên sở hữu một mạng lưới giao thông đường bộ phát triển, với ba tuyến Quốc lộ chiến lược kết nối Điện Biên với các tỉnh lân cận và quốc tế Quốc lộ 279 dài 117km nối Tuần Giáo qua thành phố Điện Biên Phủ đến cửa khẩu Tây Trang; Quốc lộ 12 dài 195km kết nối từ thành phố Điện Biên Phủ đến cửa khẩu Ma Lù Thàng (Lai Châu); và Quốc lộ 6 nối Điện Biên với Thủ đô Hà Nội cùng các tỉnh Tây Bắc khác Bên cạnh đó, sân bay Điện Biên tại thành phố Điện Biên Phủ cung cấp các chuyến bay thẳng đến Hà Nội, tạo thuận lợi cho việc di chuyển Hệ thống đường từ trung tâm các huyện đến các xã cũng rất thuận tiện, với phần lớn được rải nhựa và rải cấp phối.
Địa hình đồi núi phức tạp với đất dốc và đường quanh co gây nhiều khó khăn cho việc thi công và bảo trì các tuyến đường, đặc biệt là trong mùa mưa bão khi sạt lở đất xảy ra thường xuyên, làm gián đoạn giao thông và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của người dân địa phương Để hỗ trợ sản xuất và đời sống, hầu hết các huyện trong tỉnh đã được đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi quan trọng như công trình thủy lợi Nậm Khẩu Hu, kênh Pe Luông, hồ chứa nước Na Hươm, hệ thống kênh mương Noong Luông tại xã Mường Phăng, và công trình thủy lợi Phú Ma ở Chung Chải.
35 thủy nông Pa Có ở Chà Nƣa; công trình thủy nông Đề Dê ở Xá Tổng, công trình thủy lợi Mường Lạn ở xã Mường Lạn; công trình thủy nông Chiềng Sinh
Kênh hữu Chiềng Sinh 1 tại Chiềng Sinh cùng với hệ thống kênh lớn nhỏ trải dài khoảng 400 km trên các huyện Hiện nay, 100% các xã đã được kết nối với điện lưới quốc gia, tuy nhiên, nhiều thôn bản vùng cao vẫn chưa có hệ thống điện Tại thành phố, 100% hộ dân sử dụng điện, trong khi tỷ lệ này ở nông thôn đạt 87,14% Về cấp nước, tất cả các đô thị trong tỉnh đã có hệ thống cấp nước sinh hoạt, với các nhà máy nước sạch hiện đại tại Điện Biên, Điện Biên Đông, Tuần Giáo và Tủa Chùa Tuy nhiên, khu vực nông thôn vẫn gặp khó khăn trong việc cung cấp nước, đặc biệt là ở các xã vùng cao, nơi người dân thiếu nước sinh hoạt, nhất là vào mùa khô.