TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số đặc điểm về Linh trưởng ở Việt Nam
1.1.1 Phân loại học thú linh trưởng ở Việt Nam
Theo phân loại của Brandon - Jone và cộng sự (2004), khu hệ thú Linh trưởng ở Việt Nam bao gồm 24 loài và phân loài thuộc 3 họ: họ Cu li (Loridae), họ Khỉ (Cercopithecidae) và họ Vượn (Hylobatidae).
Theo hệ thống phân loại học phân tử các loài linh trưởng Đông Dương
(Christian, 2007) [31] thì Khu hệ thú linh trưởng ở Việt Nam có 25 loài và phân loài thuộc 3 họ: Họ cu li – Loridae, họ khỉ - Cercopithecidae, họ Vượn – Hylobatidae
Trong phần này, đề tài sẽ tập trung mô tả phân loại học và khu phân bố của họ
Các loài Vượn gộp chung thành họ Vượn (Hylobatidae) được gọi là khỉ giả nhân nhỏ, phân bố trên toàn bộ các vùng rừng mưa nhiệt đới ở Đông Nam Á [4, 15,
Các loài vượn, sống hoàn toàn trên cây và chủ yếu ăn quả, thể hiện lối vận động đặc trưng với sự đu tay và tập tính treo thân độc đáo Tư thế đứng thẳng thường xuyên cho thấy sự chuyên hóa cao độ của chúng đối với môi trường sống và chế độ ăn hàng ngày.
Các nghiên cứu trước đây về phân loại vượn chia thành hai nhóm gồm
Symphalangus và Hylobates là hai nhóm vượn có sự khác biệt rõ rệt Nhóm Symphalangus nặng hơn và sở hữu giọng hót sâu hơn, cùng với bao cổ họng bên ngoài và màng chân giữa các ngón 2 và 3 Các nghiên cứu về di truyền học, đặc điểm giải phẫu xương sọ và âm thanh đã phân loại vượn thành các giống khác nhau, trong đó giống Symphalangus có bộ nhiễm sắc thể 2n = 50, còn giống Nomascus có bộ nhiễm sắc thể 2n = 52.
Bunopithecus có 2n = 38 và giống Hylobates có 2n = 44 [1] (Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Các loài thuộc họ Hylobatidae
Số lượng bộ nhiễm sắc thể
Loài và phân loài Vùng phân bố
Bunopithecus 38 Hoolock hoolock Assam, Banglades,
H agilis albibarbis Phía đông Borneo
H muelleri abbotti Tây bắc Borneo
Symphalangus 50 S syndactylus Bán đảo Malay
N concolor Bắc Việt Nam, Yunan
N gabriellae Nam Việt Nam, Bắc Lào,
N.leucogenys Lào, Bắc Việt Nam, Nam
N l Siki Trung Lào, miền trung
Nguồn (Geissmann và cộng sự, 2000)
1.1.3 Một số đặc điểm giống Nomascus
Vượn mào hoang dã có trọng lượng cơ thể trung bình từ 7 đến 8 kg, tương đương với giống Bunopithecus (7 kg), lớn hơn giống Hylobates (khoảng 5 kg) nhưng nhỏ hơn giống Symphalangus (khoảng 11 kg) Đặc điểm nổi bật của chúng là sọ có trán cao và tròn, cùng với các cạnh trên ổ mắt phẳng.
Bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội của loài này là 2n = 52 Về đặc điểm hình thái, con đực có túm lông trên đầu dựng đứng và phát triển hơn, tạo thành mào, trong khi con cái trưởng thành có đám lông đen trên đầu, tương phản với phần lông màu nhạt xung quanh Có sự khác biệt rõ rệt về màu sắc giữa hai giới: con đực thường có lông màu đen (có hoặc không có mảng lông má sáng), trong khi con cái có lông màu vàng nhạt, vàng da cam hoặc be nhạt, thường có mảng lông chẩm màu đen và có thể có đám lông bụng tối Trong quá trình phát triển, con non sinh ra có lông màu đen giống con đực trưởng thành, và khi đến tuổi trưởng thành sinh dục (khoảng 5 - 8 năm), con cái sẽ thay đổi màu lông lần thứ hai, mang màu sắc đặc trưng của con cái trưởng thành.
Phân loại học phân tử giống Nomascus
Theo nghiên cứu của Theo Roos Christian và cộng sự (2007), phân loại học phân tử dựa trên trình tự gen cytochrome b ty thể đã được thực hiện trên 64 cá thể vượn và một cá thể Hylobates lar làm đối chứng, với 44 dạng khác nhau Sự khác biệt giữa các cặp cá thể dao động từ 0,1% đến 8,2%, trong đó mức độ khác biệt lớn nhất được ghi nhận giữa hai loài N nasutus và N hainanus, đạt 6,8%.
Bảng 1.2: Tỉ lệ sai khác giữa các cặp nucleotit giữa các loàithuộc giống Nomascus
Theo thông báo mới nhất từ năm 2010, các nhà khoa học Đức và Việt Nam đã công bố sự xuất hiện của một loài vượn mới mang tên vượn mào đen má hung Trung bộ N.anamensis.
Dựa trên các dữ liệu về các cặp khác nhau và mối quan hệ phát sinh chủng loại, các loài N nasutus, N hainanus, N concolor, N gabriellae và N leucogenys đã được công nhận là các loài riêng biệt.
Dựa trên sơ đồ phát sinh chủng loại của giống Nomascus như trên thì loài
N.concolor được coi là loài đơn
Hình 1.1: Sơ đồ mối quan hệ chủng loại phát sinh giữa các loài vượn giống
Phân bố của thú Linh trưởng Việt Nam
1.2.1 Phân bố thú Linh trưởng
Việt Nam là một trong những trung tâm đa dạng sinh học với địa hình và khí hậu phong phú, tạo ra sự phân hóa tự nhiên theo độ cao Các vùng núi thấp, trung bình và cao được hình thành, với các vành đai Á nhiệt đới và ôn đới xuất hiện ở độ cao khác nhau, từ 500m đến 1400m Địa hình chia cắt kết hợp với khí hậu đã hình thành các loài thực vật và kiểu rừng đa dạng, tạo ra môi trường sống cho nhiều loài động vật Dãy Bạch Mã - Hải Vân đóng vai trò như một rào cản tự nhiên, phân chia sự phân bố của các loài như Khỉ đuôi dài và VĐMV ở phía Nam, trong khi phía Bắc có sự hiện diện của nhiều loài Voọc khác nhau.
Voọc mông trắng (Trachypithecus francoisi delacouri), Khỉ mốc (Macaca assamensis) [7] Bảng 1.3 đã thể hiện sự phân bố thú Linh trưởng Việt Nam
Bảng 1.3: Vùng phân bố thú Linh trưởng
TT Tên loài Tên khoa học Vùng phân bố
1 Cu li lớn Nycticebus coucang (Boddaer,
Thừa Thiên Huế trở ra Bắc
2 Cu li nhỏ Nycticebus pygmaeus (Boddaer,
Từ Bắc vào đến Bình Phước
3 Khỉ cộc Macaca artoides (Geoffroy,
Từ Bắc vào Nam nhưng không gặp ở đảo, kể cả quần đảo gần bờ
TT Tên loài Tên khoa học Vùng phân bố
4 Khỉ mốc Macaca assamensis (M'Clelland,
Phân bố phía từ Bắc đến Quảng Bình
5 Khỉ đuôi lợn Macaca nemestrina
Từ Bắc đến Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ (Bình Phước)
6 Khỉ vàng Macaca mulatta (Zimmermann,
Phân bố từ phía Bắc đến Gia Lai
7 Khỉ đuôi dài Macaca fascicularis fascicularis(
8 Khỉ đuôi dài côn đảo
Bà tỉnh Bà Rịa Vũng Tầu
9 Voọc xám Trachypithecus phayrei (Blyth,
Vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ
10 Voọc bạc gecman Trachypithecus cristatus germani
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
11 Voọc bạc Trachypithecus cristatus margarita(Elliot, 1909)
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
12 Voọc má trắng Trachypithecus francoisi francoisi
Vùng phân bố hẹp ở Đông Bắc
13 Voọc đầu trắng Trachypithecus francoisi poliocephalusTrouesart, 1911
14 Voọc mông trắng Trachypithecus francoisi delacouri Osgood, 1932
Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa
15 Voọc gáy trắng Trachypithecus francoisi Bắc Trung Bộ nay
TT Tên loài Tên khoa học Vùng phân bố hatinhensis Dao, 1970 chỉ còn ở Phong
16 Voọc đen tuyền Trachypithecus francoisi ebenus
17 Voọc mũi hếch Rhinopithecus avunculus
Bắc Cạn, Tuyên Quang, Yên Bái,
18 Chà vá chân nâu Pygathrix nemaeus nemaeus
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng và Đắk Lắk
19 Chà vá chân đen Pygathrix nemaeus gripes Milne-
Vùng phân bố loài này từ 11 0 22' N đến 14 0 29' N Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Phước
20 Chà vá chân xám Pygathrix nemaeus cinerea Tilo nadler, 1997
21 Vượn đen hải nam Nomascus nasutus sso(?)
22 Vượn đen tuyền Nomascus concolor concolor
Vùng phân bố nằm giữa sông Hồng và sông Đà cùng một số tỉnh Sơn La, Yên Bái
23 Vượn đen má Nomascus leucogenys neucogenys Lai Châu, Sơn La,
TT Tên loài Tên khoa học Vùng phân bố trắng (Ogilby, 1840) Hòa Bình, Thanh
24 Vượn đen siki Nomascus leucogenys siki
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế
25 Vượn đen má vàng(má hung)
Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai
(Nguồn: Phạm Nhật, 2002) 1.2.2 Phân bố của giống Nomascus
Vượn mào (Nomascus) chỉ phân bố ở Đông Dương, bao gồm Việt Nam, Lào, phía đông Campuchia và Tây-Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam và đảo Hải Nam) Sông Mê Kông đóng vai trò là giới hạn phía tây của các vùng phân bố của chúng, ngăn cách chúng với giống Hylobates Hiện nay, các khu vực phân bố của vượn mào đã bị chia cắt mạnh, tạo thành những mảnh rừng còn nguyên sinh, biệt lập và nhỏ.
Vượn đen tuyền (N concolor) phân bố chủ yếu ở miền Trung và miền Tây tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cũng như tại Bắc Lào với khoảng 9 đàn trong khu vực rộng 20km² thung lũng Nam Kan, tỉnh Bokeo Tại Việt Nam, loài này được tìm thấy ở các khu vực giữa sông Hồng và sông Đà, với các mẫu vật được thu thập ở Lào Cai, Yên Bái và Sơn La.
Theo nghiên cứu của Lê Trọng Đạt và cộng sự (2006), quần thể vượn đen tuyền tại Sơn La và Yên Bái đang suy giảm đáng kể, từ 39 nhóm với 91 cá thể vào năm 2000-2001 xuống còn 25 nhóm với 68 cá thể vào năm 2006.
Vượn má trắng (N leucogenys) có phân bố rộng rãi ở Trung Quốc, từ miền cực Nam tỉnh Vân Nam đến phía đông sông Hắc Long Giang Tại Lào, loài này xuất hiện ở nửa bắc đất nước, với sông Mê Kông làm giới hạn phía Tây Ở Việt Nam, vượn má trắng phân bố tại các tỉnh miền Tây-Bắc, kéo dài đến phía Tây sông Đà, trong khi giới hạn phía Nam của phân loài nằm ở phía nam sông Cả (Nghệ An).
Vượn má trắng siki (N siki) phân bố chủ yếu ở phía bắc miền Trung Việt Nam và miền Trung Lào, với sông Mêkông làm ranh giới phía Tây Ở Việt Nam, giới hạn phân bố phía Bắc của loài này là hạ lưu sông Cả, trong khi giới hạn phía Nam vẫn chưa được xác định.
Vượn mào đen má hung Trung bộ (N annamensis) là một loài vượn mới được phát hiện và công bố vào năm 2010, thuộc chi Nomascus trong họ Hylobatidae Loài này có những đặc điểm âm thanh riêng biệt, khác biệt với các loài vượn mào má sáng màu khác, đặc biệt ở tần số và nhịp độ khi gọi bầy và cảnh báo kẻ thù Vượn mào đen má hung phân bố chủ yếu ở Nam Lào, Nam Việt Nam và Đông-Bắc Campuchia, nhưng ranh giới phân bố của loài vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Vượn đen má vàng (N gabriellae) phân bố chủ yếu ở Nam Lào, Nam Việt Nam và đông-bắc Campuchia Ranh giới phân bố của loài này vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng có thể giới hạn phía bắc ở các tỉnh như Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Bình Định, Phú Yên và Đắk Lắk Gần đây, loài này đã được phát hiện tại Khu Bảo tồn Nam Nung - Đắk Nông và Vườn quốc gia Bù Gia Mập - Bình Phước, với khoảng 400 cá thể theo nghiên cứu kinh tế của Vườn.
Một số đặc điểm Vượn đen má vàng – Nomascus gabriellae
Tên thường gọi: Vượn má vàng
Tên khoa học: Nomascus gabriellaeThomas, 1909
Geissmann đã phân loại tất cả vượn mào vào một loài duy nhất thuộc giống Hylobates, cụ thể là "H concolor" Vượn đen má vàng được xem là một phân loài, mang tên "H concolor gabriellae" Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã đề xuất VĐMV là một loài riêng biệt dựa trên đặc điểm tiếng hót và các tính năng khác Phân tích phân tử cũng chỉ ra rằng khoảng cách giữa các giống phụ vượn lớn hơn khoảng cách giữa tinh tinh và con người Kết quả này dẫn đến việc công nhận cả bốn giống phụ là giống đầy đủ, và tên khoa học đã được thay đổi từ "Hylobates concolor gabriellae" thành Vượn đen má vàng (Nomascus gabriellae) Loài này phân bố chủ yếu ở miền Nam Lào, miền Nam Việt Nam và Đông Campuchia.
1.3.2 Đặc điểm hình thái Đặc điểm nhận biết: Bô ̣ lông của con đực trưởng thành có màu đen, má có mầu vàng nhạt hoặc cam nhạt Con đực cũng có một nhóm các sợi lông dựng đứng (đỉnh) trên đầu, do đó giống Nomascus có tên gọi là "Vượn mào" Các cá thể cái trưởng thành của VĐMV có bô ̣ lông màu vàng sáng nhạt hoặc màu da cam với một bản vá màu đen trên đầu Con non mới sinh của Vượn đen má vàng có bộ lông màu vàng tươi sáng Màu sắc của bộ lông sẽ thay đổi vào khoảng cuối năm của năm đầu tiên, chuyển gần như hoàn toàn từ màu vàng sang màu đen trừ hai bên má vẫn màu vàng Vượn đực trưởng thành có bộ lông màu đen của chúng và hai bên má vẫn màu vàng
1.3.3 Đặc điểm sinh học và sinh thái của VĐMV
Vượn đen má vàng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ trong tự nhiên, nhưng giống như các loài vượn khác, chúng di chuyển kiếm ăn trên cây vào ban ngày và thích nghi sống dưới tán rừng Loài này thường cư trú trong các khu rừng già trên đỉnh núi cao, nơi có nhiều cây cao to dễ di chuyển, và không sống ở các khu rừng thưa hay tre nứa Vượn đen má vàng sống theo nhóm nhỏ từ hai đến ba cá thể, hiếm khi có bốn, mỗi nhóm đều có khu vực riêng và hoạt động tích cực vào ban ngày, hót vào buổi sáng sớm, trong khi buổi trưa và ban đêm nghỉ ngơi trên các ngọn cây Loài vượn này còn được xem là chỉ thị của hệ sinh thái, do đó chúng là đối tượng quan trọng trong các dự án bảo tồn.
Loài này được tìm thấy trong rừng nhiệt đới thường xanh (Eames & Robson,
Vượn đen má vàng sinh sống tại miền Nam Lào, miền Nam Việt Nam và Đông Campuchia, thường xuất hiện trong các khu rừng vùng đất thấp Chúng được nghiên cứu và ghi nhận bởi Geissmann vào năm 1995 và 2000, cũng như Đào Văn Tiến vào năm 1983.
Tình trạng và bảo tồn
- Sách đỏ Việt Nam phần I Động vật: Loài này bị suy giảm đến nguy cấp được xếp phân hạng EN A1c,d C2a
- Phụ lục IBNghị định 32/2006/NĐ- CP, ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
- Danh lục đỏ thế giới (IUCN, 2012): Nguy cấp ENA2cd
- Công ước CITES: Phụ lục I
Các mối đe dọa lớn nhất đối với loài hiện nay bao gồm săn bắn (Rawson, 2011) và sự suy thoái cùng mất sinh cảnh do hoạt động canh tác nông nghiệp, cũng như khai thác gỗ hợp pháp và trái phép (Duckworth et al).
1995, 1999; Eames & Robson, năm 1993; Geissmann, 1995b; Geissmannet al.,
Loài này hiện không được bảo vệ hiệu quả ở bất kỳ đâu, bao gồm cả các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia (Geissmann, 1995b; Geissmann et al., 2000).
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần bảo tồn quần thể Vượn đen má vàng (Nomascu gabriellae) và đa dang sinh học tại Khu BTTN Nam Nung
Xác định được tình trạng bảo tồn và phân bố của quần thể VĐMV tại KBTTN Nam Nung
Bài viết xác định các đặc điểm sinh cảnh của Vườn Dã Ngoại Vườn Quốc Gia Nam Nung và đề xuất các giải pháp quản lý cũng như bảo tồn quần thể VĐMV tại khu vực này Những giải pháp này nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển bền vững hệ sinh thái, đồng thời đảm bảo sự đa dạng sinh học trong khu bảo tồn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là loài Vượn đen má vàng và sinh cảnh của chúng tại Khu BTTN Nam Nung, Đắk Nông
Vùng lõi Khu BTTN Nam Nung, Đắk Nông
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2012 đến tháng 4/2013
Nội dung nghiên cứu
1 Nghiên cứu hiện trạng và phân bố của loài VĐMV
2 Nghiên cứu một số đặc điểm của sinh cảnh VĐMV
3 Nghiên cứu các mối đe dọa đến loài và sinh cảnh VĐMV
4 Nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo tồn loài và sinh cảnh VĐMV
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp kế thừa tài liệu Đề tài đã tiến hành thu thập tất cả các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu Sau đó tiến hành rà soát, đánh giá và kế thừa có chọn lọc các thông tin Các tài liệu thu thập bao gồm:
- Bản đồ quy hoạch sử dụng đất, bản đồ Quy hoạch rừng đặc dụng, bản đồ hành chính
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật thành lập khu rừng đặc dụng
- Các luận chứng điều chỉnh Quy hoạch
- Báo cáo về đa dạng sinh học
- Báo cáo về dân sinh- kinh tế -xã hội; An ninh – quốc phòng
- Các nghiên cứu, dự án thực hiện trong KBT
- Các báo cáo, bài báo khoa học liên quan đến đối tượng nghiên cứu
- Các văn bản pháp lý và chính sách
Phương pháp này nhằm thu thập thông tin sơ bộ về hiện trạng, phân bố và các mối đe dọa đến loài Vượn đen má vàng cùng sinh cảnh của chúng Những thông tin này sẽ hỗ trợ thiết kế các hoạt động điều tra thực địa Đối tượng phỏng vấn bao gồm 20 người, trong đó có 8 cán bộ kiểm lâm và 12 thợ săn, cũng như những người có kinh nghiệm đi rừng tại địa phương Thông tin thu thập được liên quan đến hiện trạng, phân bố, mối đe dọa và tình hình quản lý, bảo tồn tại khu bảo tồn Kết quả phỏng vấn được ghi vào mẫu biểu chuẩn đã chuẩn bị sẵn.
2.4.3 Phương pháp điều tra thực địa
Phương pháp điều tra theo điểm được sử dụng để xác định số lượng đàn Vượn trong KBT, với tổng cộng 20 điểm nghe được lập và mỗi điểm được lặp lại 03 lần Các điểm nghe được bố trí cách nhau từ 1,5-2km, tùy thuộc vào địa hình khu vực nghiên cứu, và được chọn là các đỉnh núi để dễ dàng phát hiện tiếng hót của đàn vượn Thời gian điều tra diễn ra từ 5h00 đến 9h00 sáng, với việc xác định đàn vượn dựa trên sự khác biệt về góc phương vị và khoảng cách từ điểm nghe.
Số lượng cá thể được quan sát trực tiếp và phân tích qua tiếng hót của con đực, cái Các thông tin được ghi vào mẫu biểu (Phụ lục 1,2)
Phương pháp tính diện tích vùng điều tra
Diện tích vùng điều tra được xác định bằng tổng diện tích các sinh cảnh nơi phân bố của Vượn, được tính theo từng trạng thái rừng trong khu bảo tồn Việc tính toán này được thực hiện thông qua phần mềm MapInfo 10.5.
Phương pháp phân loại sinh cảnh và điều tra các đặc điểm lâm học
Sinh cảnh sống của Vượn được xác định thông qua việc quan sát trực tiếp hoặc gián tiếp qua tiếng hót, với tất cả các điểm quan sát được ghi lại tọa độ GPS và chuyển tải lên bản đồ Đề tài tiến hành lập các ô tiêu chuẩn kích thước 20x50m, với ba ô cho mỗi sinh cảnh sống, được chọn ngẫu nhiên Trong mỗi ô tiêu chuẩn, các cây có đường kính D≥ 6cm sẽ được đo đếm các chỉ tiêu như D1.3, Hvn và độ tàn che Việc phân loại các sinh cảnh sống của VĐMV dựa trên hệ thống phân loại rừng của Loeschau.
Phân loại trạng thái rừng : Hệ thống phân được chia ra 4 loại như sau:
1 Loại I: Đất không có rừng, đây là nhóm không có rừng hoặc hiện tại chưa thành rừng, chỉ có trảng cỏ, trảng cây bụi hay tre nứa mọc rải rác, độ che phủ dưới 30%, tuỳ theo hiện trạng mà nhóm này được chia thành 3 kiểu trạng thái phụ:
- Kiểu I A : Trảng cỏ: trạng thái này được đặc trưng bởi lớp thực bì, cỏ lau lách
- Kiểu I B : Trảng cây bụi: nó đặc trưng bởi lớp thực bì là cây bụi và một số cây thân gỗ nhỏ, tre nứa mọc rải rác
Kiểu I C là loại cây bụi có sự hiện diện của cây gỗ rải rác tái sinh, với số lượng cây gỗ tái sinh có chiều cao trên 1m đạt ít nhất 1000 cây/ha Tuy nhiên, trong kiểu này, số lượng cây gỗ có đường kính lớn hơn 6cm lại rất hạn chế.
2 Loại II: Đất rừng non phục hồi sau nương rẫy hoặc sau khai thác trắng, kiểu rừng này là rừng cây gỗ có đường kính nhỏ, nó có thể chia thành 2 kiểu phụ:
Rừng cây tiên phong phục hồi sau nương rẫy thuộc kiểu II A, đặc trưng bởi lớp cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh với cấu trúc một tầng Các cây trong rừng này thường đồng tuổi, có đường kính nhỏ hơn 10cm và tổng diện tích bề mặt dưới 10m²/ha Rừng này thường chưa có trữ lượng hoặc chỉ có trữ lượng nhỏ, khoảng 25-30m³.
Kiểu II B là trạng thái rừng cây tiên phong phục hồi sau khai thác kiệt, chủ yếu bao gồm những cây non ưa sáng với thành phần loài phức tạp và không đồng đều về tuổi Trong khu vực này, tổ thành loài cây ưu thế không rõ ràng, có thể vẫn tồn tại một số cây lớn, nhưng trữ lượng không đáng kể Đường kính cây cao thường không vượt quá 20cm, với tổng diện tích lá (G) lớn hơn 10m²/ha và trữ lượng gỗ dao động từ 30-60m³.
3 Loại III: Rừng thứ sinh qua khai thác chọn, đây kiểu rừng đã bị tác động khai phá của con người ở nhiều mức độ khác nhau làm cho kết cấu rừng có sự thay đổi Tuỳ theo mức độ tác động, khả năng tái sinh và cung cấp lâm sản mà có thể phân loại khác nhau:
Kiểu III A là rừng thứ sinh đang phục hồi sau quá trình khai thác chọn kiệt, được coi là rừng nghèo Khả năng khai thác trong khu vực này bị hạn chế do cấu trúc rừng đã bị phá vỡ hoàn toàn hoặc thay đổi cơ bản Trạng thái này có thể được phân chia thành một số kiểu phụ khác nhau.
Rừng kiểu phụ III A1 là khu vực rừng mới được khai thác chọn kiệt, với tán rừng bị phá vỡ thành các mảng lớn Trong tầng trên, chỉ còn sót lại một số cây cao có phẩm chất kém, cùng với sự xuất hiện của nhiều dây leo, bụi dậm và tre nứa xâm lấn Độ tàn che của rừng ở mức S401000 cây/ ha
Kiểu phụ III A2 là giai đoạn phục hồi của rừng sau khai thác kiệt, với đặc trưng là sự hình thành của tầng giữa chiếm ưu thế, bao gồm những cây có đường kính từ 20-30cm Rừng thường có từ hai tầng trở lên, trong đó tầng trên có tán không liên tục, chủ yếu từ những cây cũ còn lại và một số cây lớn khỏe mạnh vượt tán Độ tàn che của rừng đạt S>0,3, tổng diện tích tán G 2m²/ha, với trữ lượng từ 80-120m³ Mật độ tái sinh có thể được chia nhỏ tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
- IIIA2-1: là trạng thái rừng thiếu tái sinh (mật độ cây tái sinh mục đích có chiều cao H>1m là nhỏ hơn1000 cây/ha)
- IIIA2-2: là trạng thái đủ tái sinh với mật độ >1000 cây/ha
+ Kiểu phụ III A3 : Rừng đã có quá trình phục hồi tốt (rừng giàu) Độ tàn che của rừng S>0,5, G16-21m 2 /ha, GD>40120m 3
- Kiểu III B: Rừng khai thác ít, trữ lượng rừng còn cao, chia làm 2 kiểu phụ: + Kiểu phụ III B1 : Rừng có độ tàn che S>0,5, G&m 2 /ha, GD>402- 5m 2 /ha,M>250m 3
+ Kiểu phụ III B2 : Rừng có độ tàn che S>0,5, G&-30 m 2 /ha, GD>402- 5m 2 /ha, trữ lượng>250m 3 /ha
4 Loại IV: Rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh phục hồi tốt, ít bị tác động, trữ và sản lượng cao, có độ tàn che S>0,6, G>30 m 2 /ha, GD>40>5m 2 /ha
Xác định tổ thành tầng cây cao
Xác định công thức tổ thành tầng cây cao và cây tái sinh theo phương pháp của Nguyễn Hữu Hiếu
- Tính số lượng cá thể bình quân của loài theo công thức sau:
Trong đó: X là số cá thể trung bình mỗi loài
N là tổng số cá thể điều tra
A là số loài điều tra được
Chọn những loài có số cây điều tra lớn hơn XTB để tham gia vào công thức tổ thành
- Xác định tỷ lệ phần trăm cho từng loài:
Trong đó: ni là tổng số cây của loài i
ni là tổng số cây của các loài tham gia vào công thức tổ thành
- Viết công thức tổ thành: Xác định hệ số tổ thành như sau: Ki = k
Sau đó tiến hành viết công thức tổ thành cho từng trạng thái rừng theo nguyên tắc:
+ Những loài nào có hệ số tổ thành Ki lớn thì viết trước
Các loài có hệ số tổ thành Ki ≥ 1 sẽ được ghi rõ hệ số Ki, trong khi những loài có hệ số Ki < 1 sẽ không ghi hệ số mà thay vào đó là dấu cộng (+) nếu Ki ≥ 0.5 và dấu trừ (-) nếu Ki < 0.5.
Xác định độ tàn che
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
Khu BTTN Nam Nung tọa lạc tại trung tâm tỉnh Đắk Nông, bao gồm các xã Quảng Sơn (huyện Đắk Glong), Đắk Hòa (huyện Đắk Song) và các xã Đức Xuyên, Nam Nung (huyện Krông Nô) Khu vực này có tọa độ địa lý đặc trưng, góp phần vào sự đa dạng sinh học và cảnh quan thiên nhiên của tỉnh Đắk Nông.
Từ 12 o 12 ' đến 12 o 20 ' vĩ độ Bắc
Phía Bắc giáp phần đất còn lại của xã Nam Nung
Phía Đông giáp phần đất còn lại của xã Đức Xuyên
Phía Nam giáp phần đất còn lại của xã Quảng Sơn
Phía Tây giáp phần đất còn lại của xã Đắk Hòa
Vùng đệm của Khu bảo tồn Nam Nung có tổng diện tích 9.037 ha, trải dài qua các xã Nam Nung và Đức Xuyên thuộc huyện Krông Nô, cùng với xã Quảng Sơn thuộc huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông.
Khu BTTN Nam Nung có tổng diện tích 20.156 ha, trong đó diện tích được quản lý trực tiếp là 10.849 ha Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt chiếm 6.156 ha, phân khu phục hồi sinh thái 4.693 ha, và không có diện tích cho phân khu hành chính dịch vụ.
Vùng đệm có diện tích 9.037 ha (Chưa có hoạt động quản lý của KBT vì đang chịu sự quản lý và là hiện trường sản xuất của các CTLN)
Hình 3.1: Khu BTTN Nam Nung, huyên Krong Nô, tỉnh Đăk Nông
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam Nung có địa hình đa dạng từ núi thấp đến trung bình, với độ cao giảm dần từ đỉnh Nam Jer Bri (1.578m) xuống các vùng xung quanh Nơi thấp nhất là suối Đắk Pri, chỉ khoảng 600m so với mặt biển, nằm ở phía Đông Bắc của khu bảo tồn Địa hình bị chia cắt với độ dốc biến động từ 10° đến 35°, trong khi sườn phía Đông Bắc ít dốc hơn và khô ráo hơn so với sườn phía Tây Nam ẩm ướt Các thung lũng trong khu bảo tồn rất hẹp, tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa hai kiểu rừng nhiệt đới và á nhiệt đới núi thấp.
- Đá mẹ cấu tạo nên lập địa KBTTN Nam Nung gồm: Đá mácma axít (Granit, gneiss, bazan, syenite, Sa thạch khối ) và đá phiến thạch sét (Đá Sét)
Đá mácma axít, bao gồm các loại đá như Granit, gneiss, syenite và sa thạch khối, có hàm lượng silic cao trong thành phần Do đó, sản phẩm phong hóa chủ yếu tạo thành là cát với kích thước hạt chiếm ưu thế.
Đá Bazan và Đá sét (phiến thạch sét) có thành phần cấu tạo chứa một tỷ lệ lớn hạt sét, dẫn đến việc sản phẩm phong hóa chủ yếu tạo ra các hạt mịn với nhiều hạt sét.
Mẫu chất trong lập địa khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) bao gồm ba loại chính: tàn tích, sườn tích và một phần nhỏ lũ tích Tàn tích vẫn giữ nhiều đặc tính của đá mẹ, trong khi lũ tích và sườn tích đã trải qua sự biến đổi do tác động của nước, nhiệt độ, sinh vật và thời gian, dẫn đến những tính chất khác biệt so với đá gốc Một ví dụ điển hình là sự hình thành vùng quặng bô xít dưới thảm rừng phía nam khu BTTN.
Quá trình laterit hóa chỉ xảy ra trong điều kiện nhiệt đới trên các loại đá silicat như granit, gneiss, bazan, syenite và đá sét Sự hình thành bauxite yêu cầu điều kiện phong hóa mạnh mẽ hơn so với laterit sắt, cùng với hệ thống thủy văn thoát nước tốt, giúp hòa tan và rửa trôi kaolinite để hình thành gibbsit Đới giàu nhôm thường nằm ngay dưới lớp mũ sắt, với gibbsit là dạng tồn tại chủ yếu của hydroxit nhôm trong bauxit laterit Tại Việt Nam, bauxit Tây Nguyên được hình thành từ đá bazan theo phương thức này.
KBTTN có các nhóm đất chính sau:
Đất Feralít mùn vàng nhạt thường xuất hiện ở những vùng núi cao trên 1000m, với đặc điểm nổi bật là tầng thảm mục dày và quá trình Feralít kém điển hình Quá trình mùn hoá ở đây diễn ra tương đối mạnh, chủ yếu do điều kiện khí hậu tại đai cao này, nơi có nhiệt độ thấp và độ ẩm cao.
+ Đất feralít đỏ vàng hay vàng đỏ phát triển trên đá Granit, gneiss, syenite,
Sa thạch khối, núi thấp (dưới 1000m)
Đất có màu sắc rực rỡ với khoáng sét Kaolinit bị rửa trôi nhiều, có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình và rất ít khoáng vật nguyên sinh, ngoại trừ thạch anh Đất có phản ứng chua với tỉ số SiO2/R2O3 ≤ 2,0 và Fe2O3 > Al2O3, trong khi nhôm tự do không thiếu Chất hữu cơ trong đất phân giải mạnh, với axit fulvic chiếm ưu thế hơn axit humic Tại các khu vực còn rừng, tỉ lệ mùn khá cao, nhưng ở những nơi mới mất rừng, tỉ lệ mùn chỉ ở mức trung bình Đất nghèo Lân và Kali, chủ yếu phân bố trên sườn núi Nam Jer Bri và đỉnh dông dãy núi Nam Nung.
+ Đất feralít đỏ vàng hay vàng đỏ phát triển trên đá Sa thạch, đá Sét (Phiến thạch sét), núi thấp (dưới 1000m)
Đất có màu sắc rực rỡ, chủ yếu chứa khoáng sét Kaolinit, với thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng Đất ít chứa khoáng vật nguyên sinh, ngoại trừ thạch anh bền Đặc điểm đất có phản ứng chua, với tỉ số SiO2/R2O3 ≤ 2,0 và Fe2O3 = Al2O3, cho thấy nhôm tự do không thiếu Chất hữu cơ trong đất phân giải mạnh, nơi có rừng có tỉ lệ mùn cao, trong khi nơi mất rừng có tỉ lệ mùn trung bình và thấp Đất phân bố trên sườn Bắc và Đông Bắc dãy núi Nam Nung, cũng như trên đỉnh các dông núi phụ thuộc địa phận xã Nam Nung, Đức Xuyên.
Đất đỏ nâu và đỏ vàng phát triển trên đá Bazan ở vùng đồi núi thấp dưới 1000m, với quá trình laterít hóa điển hình tạo ra tầng khoáng sản bauxit laterit Tỉ số SiO2/R2O3 nhỏ hơn 2,0, trong khi Fe2O3 thấp hơn Al2O3, cho thấy sự hiện diện đáng kể của nhôm tự do Dưới lớp đất mặt dày từ 1-9m thường có tầng quặng bauxit laterit dày, với gibbsit là sản phẩm chính của quá trình tích tụ hydroxit nhôm Ở những nơi có rửa trôi mạnh, tầng bauxit nông và có thể lộ ra bề mặt, khiến cây cối phát triển kém Đất đỏ Bazan có thành phần khoáng sét chủ yếu là Kaolinít, với cơ giới từ đất thịt trung bình đến đất thịt nặng, màu sắc từ đỏ nâu đến đỏ vàng, và chất hữu cơ phân giải mạnh với axít fulvic.
Axit humic là một thành phần quan trọng trong đất đỏ Bazan, nơi có độ pH KCl từ 3,8 đến 4,5, cho thấy đất có phản ứng chua Đất này có hàm lượng mùn tổng số thấp, hàm lượng đạm tổng số ở tầng mặt ở mức trung bình, trong khi hàm lượng lân và kali tổng số dao động từ trung bình đến thấp Ngoài ra, các yếu tố dễ tiêu trong đất cũng ở mức thấp Đất đỏ Bazan chủ yếu phân bố ở phía Nam KBT, thuộc địa phận xã Quảng Sơn.
+ Tổ hợp đất thung lũng vùng thấp
Tổ hợp đất thung lũng rất nhỏ và rải rác, bao gồm đất dốc tụ chân núi, đất do lũ tích và đất hỗn hợp nơi trũng, thường phân bố theo đám và dải hẹp ven khe suối Những loại đất này thường xuất hiện trong các thung lũng hẹp hoặc chân núi, có thành phần cơ giới nhẹ, chủ yếu là đất cát pha và thịt nhẹ, với màu sắc xám hoặc vàng nhạt, lẫn nhiều sỏi sạn và các cấp hạt thô như cát, sỏi và đá vụn.
Khí hậu khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung thuộc loại nhiệt đới ẩm, với hai mùa rõ rệt trong năm Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, trong đó tháng 12 và tháng 1 là thời điểm khô hạn, với lượng mưa chỉ chiếm 13-15% tổng lượng mưa hàng năm Ngược lại, mùa mưa diễn ra từ tháng 4 đến tháng 11, chiếm tới 90% lượng mưa cả năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7 và 8 Mỗi năm có hai tháng chuyển mùa, tạo nên sự chuyển đổi rõ rệt giữa hai mùa này.
Khái quát về đặc điểm kinh tế xã hội
Vùng đệm Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam Nung có diện tích 9.307 ha, trải dài qua ba xã: Quảng Sơn (huyện Đắk Glong) và các xã Đức Xuyên, Nam Nung (huyện Krông Nô) Dân số trong vùng đệm ban đầu chỉ có 356 người thuộc dân tộc M'Nông, nhưng đến năm 2011, con số này đã tăng lên hàng ngàn người, bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau như M'Nông, Mường, Thái, H'Mông, Kinh, cùng với công nhân từ các công ty lâm nghiệp và bộ đội.
Mặc dù đất lâm nghiệp chiếm diện tích lớn trong vùng đệm, nhưng chủ yếu do các công ty lâm nghiệp quản lý và khai thác Thu nhập từ sản xuất nông-lâm nghiệp của người dân rất thấp do thiếu vốn và đất đai đã bị sang nhượng hoặc cầm cố Với nguồn thu nhập chính hạn chế, người dân phải dựa vào việc thu hái lâm sản từ các rừng sản xuất của các công ty lâm nghiệp và khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) để đảm bảo cuộc sống hàng ngày.
Trước đây, khu bảo tồn thiên nhiên không có dân cư sinh sống, dẫn đến áp lực từ người dân địa phương chủ yếu đến từ bên ngoài Các hoạt động gây đe dọa đến đa dạng sinh học bao gồm lấn chiếm đất rừng để trồng cà phê và cao su, săn bắn động vật, khai thác lâm sản trái phép và cháy rừng Nạn khai thác lâm sản trái phép và săn bắt động vật diễn ra thường xuyên, gây nhiều khó khăn cho công tác bảo vệ tại khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung.
Tập quán sản xuất đốt rừng làm nương rẫy, khai thác lâm sản tùy tiện và chăn thả gia súc tự do đang gây khó khăn cho quá trình phục hồi hệ sinh thái rừng Thiếu các biện pháp trồng rừng lấy củi, trồng cây thuốc quý và quản lý chăn thả gia súc, các hoạt động kinh tế này ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên thực vật trong khu BTTN, đẩy nhanh sự cạn kiệt nguồn tài nguyên sinh vật, đặc biệt là các loài gỗ quý, động vật và cây dược liệu quý.
Gần đây, người dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển trang trại và trồng rừng kinh tế như cà phê, cao su, bời lời và chăn nuôi bò để cải thiện thu nhập và đời sống Do đó, cần có hướng dẫn và đầu tư hợp lý trong việc trồng rừng kinh tế, cũng như quy hoạch khu vực chăn thả gia súc theo hướng thâm canh để đạt năng suất cao hơn cho cộng đồng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hiện trạng và phân bố của loài VĐMV
Theo kết quả điều tra, trong tổng số 20 điểm nghe tại KBT, đã phát hiện 14 điểm có tiếng hót của Vượn, xác định được ít nhất 21 đàn VĐMV Trong số đó, 2 đàn được ghi nhận nhờ thông tin từ người dân địa phương và cán bộ điều tra rừng Nếu áp dụng hệ số điều chỉnh 0.63 từ nghiên cứu trước đó, số lượng đàn Vượn thực tế có thể lên tới khoảng 33 đàn Diện tích phân bố của các đàn Vượn trong KBT khoảng 6,500ha, tương đương với mật độ 0.51 đàn/km², thấp hơn so với mật độ 0.66 đàn/km² tại KBT Kon Cha Răng.
Bảng 4.1: Số lượng đàn Vượn đen má vàng tại KBTTN Nam Nung
Số lượng ngày điều tra
Diện tích điều tra (ha)
Phía Nam và trung tâm
Theo bảng 4.1, phần lớn các đàn Vượn tập trung chủ yếu ở khu vực Quảng Sơn, phía Nam và trung tâm KBT, Đắk Môn và Nam Nung, với sự phân bố chủ yếu nằm trong vòng màu đỏ của hình 4.1 Đề tài không ghi nhận bất kỳ đàn Vượn nào khác.
Vượn nào ở khu vực Nậm Nia và Đức Xuyên, mặc dù nỗ lực điều tra là tương tự so với các khu vực khác trong KBT
Hai đàn Vượn đã được phát hiện bên ngoài khu bảo tồn, cụ thể là trong vùng đệm gần Quảng Sơn Kết quả này chỉ ra rằng các đàn Vượn chủ yếu phân bố tại những khu rừng ít bị tác động trong khu bảo tồn Ngược lại, các khu vực như Đức Xuyên và Nậm Nia cho thấy rừng ở đây bị tác động nhiều hơn.
Đặc điểm sinh cảnh của Vượn đen má vàng tại khu vực nghiên cứu
Kết quả điều tra cho thấy rừng tự nhiên KBTTN Nam Nung bao gồm hai kiểu rừng chính, dựa trên tiêu chuẩn phân loại thảm thực vật của tiến sĩ Thái Văn.
Trừng): Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp và rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp
Kiểu Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp có 2 kiểu phụ lớn:
- Kiểu phụ Rừng kín thường xanh ẩm cây lá rộng á nhiệt đới núi thấp
- Kiểu phụ Rừng kín thường xanh ẩm cây lá rộng xen cây lá kim á nhiệt đới núi thấp
Kiểu rừng này phân bố ở độ cao từ 1.000 m đến 1.578 m, chiếm khoảng 50% diện tích rừng trong khu vực Nó tập trung xung quanh các đỉnh cao như Nam Jer Bri, Đỉnh chóp nón (1.458 m) và trên đỉnh dông núi Nam Nung, nằm ở ranh giới các xã Quảng Sơn, Nam Nung và Đức Xuyên.
Thực vật ở khu vực này từng rất đa dạng, với các diện tích rừng chưa khai thác có cấu trúc tầng thứ rõ rệt và cây cối lớn Tuy nhiên, những khu rừng đã qua khai thác chỉ còn lại ít cây nhỏ và cấu trúc bị thay đổi Các loài cây điển hình của rừng á nhiệt đới núi thấp bao gồm Đỗ quyên, Việt quất (họ Đỗ quyên), Chò xót, Súm chè (họ Chè), và nhiều loài khác như Lòng trứng, Trứng gà (họ Re), Dẻ (họ Dẻ), Giổi, Mỡ, Vàng tâm (họ Ngọc lan) Ngoài ra, nhiều loài cây nhiệt đới cũng phát triển ở độ cao này như Sến mật lá mềm, Sao xanh, Dầu mít (họ Dầu), Màu cau, Nhọc đen (họ Na), và Xoan nhừ (họ Anacardiaceae) Các họ thực vật khác như Thầu dầu, Sau Sau, Đậu, Nhân sâm, Hoa hồng cũng góp mặt, cùng với một số loài khác như Vầu đắng và Sặt trên các đỉnh cao.
Le của họ Tre (Bambusoideae) là cây bản địa chủ yếu trong kiểu rừng này, có nguồn gốc từ khu hệ thực vật Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa Các loài thực vật có nguồn gốc á nhiệt đới từ Himalaya và Ấn-Miến thuộc bộ Tùng Bách phân bố ở đây rất ít.
Tầng tán rừng bao gồm nhiều lớp khác nhau: Tầng tán trên (A1), Tầng tán chính (A2), Tầng tán dưới (A3), Tầng cây bụi (B) và Tầng thảm tươi (C) Những tầng này tạo nên cấu trúc đa dạng của rừng trong kiểu rừng á nhiệt đới núi thấp.
Theo phân loại của Loschaus, rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đất có nhiều kiểu phụ nhân tác, bao gồm các trạng thái IB, IC, IIA, IIB, IIIA1, IIIA2 và IIIA3 Tại khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung, đã quan sát thấy các trạng thái IA, IB, IC, IIA, IIB, IIIA1, IIIA2, IIIA3, cùng với một số trạng thái IVA (theo đám).
Kiểu Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới thường phân bố ở độ cao dưới 1000m, nhưng nhờ vào độ dốc, hướng phơi và vị trí gần xích đạo, nó có thể xuất hiện đến độ cao 1100m Loại rừng này rất phổ biến và chiếm gần 50% diện tích của Khu Bảo Tồn (KBT).
Kiểu Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới có 2 kiểu phụ lớn:
- Kiểu phụ Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới cây lá rộng
- Kiểu phụ Rừng kín thường xanh mưa ẩm cây lá rộng xen cây nửa rụng lá mùa khô chủ yếu là cây họ Dầu (Rừng bán khộp)
Rừng Tây Nguyên và Miền Trung nổi bật với sự đa dạng của các loài thực vật đặc trưng, bao gồm nhiều cây thuộc các họ thực vật nhiệt đới Những loài cây phổ biến như Dầu nước, Sao đen, Sao xanh, và các loại cây khác thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae) cùng với Đa, Sung, và Mít thuộc họ Dâu tằm (Moraceae) Bên cạnh đó, các loài lan như Kim tuyến, Thủy tiên, và Hoàng thảo thuộc họ Phong lan (Orchidaceae) cũng rất phong phú Các cây như Sấu, Sơn, và Dâu da thuộc họ Điều (Anacardiaceae) cũng góp phần làm phong phú thêm hệ sinh thái nơi đây Ngoài ra, các loài như Vàng kiêng, Gáo trắng, và Gáo giấy thuộc họ Cà phê (Rubiaceae) cùng với Dáng hương, Trắc, và Cẩm lai thuộc họ Đậu (Fabaceae) tạo nên sự đa dạng cho cảnh quan rừng Những loài cây khác như Muồng, Lim xẹt, và Gõ đỏ thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae) cũng rất phổ biến, cùng với các cây như Đái bò, Bản xe thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae) Rừng còn có các loài như Trám đen, Trám nâu, và Trám trắng thuộc họ Trám (Burseraceae), cũng như Nhãn, Trừng thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae) Thêm vào đó, Máu chó lá to, Máu chó lá nhỏ thuộc họ Máu chó (Myrticaceae) và các loài như Nụ, Bứa, và Sơn vé thuộc họ Bứa (Clusiaceae) cũng hiện diện trong hệ sinh thái phong phú này.
Xoan (Meliaceae); Ươi, Sảng họ Trôm (Sterculiaceae); Nhội, Vạng trứng, Mọ họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); Bưởi Bung, Thôi Chanh họ Cam quýt (Rutaceae);
Cọ, Đùng đình, và Lá nón thuộc họ Cau dừa (Arecaceae); Trầu bà, Ráy, và Thiên niên kiện nằm trong họ Ráy (Araceae); Sa nhân, Sẹ, và Nghệ thuộc họ Gừng (Zingiberaceae); Dây Đàn hương thuộc họ Đàn hương (Santalaceae); Đại cán và Tầm gửi thuộc họ Tầm gửi (Loranthaceae); Cẩm cang và Thổ phục linh thuộc họ Cẩm cang (Smilacaceae); Củ nâu cũng là một trong những loài thực vật đáng chú ý.
Củ mài họ Củ nâu (Dioscoreaceae); Lồ ô, Sặt, Vầu đặc họ phụ Tre trúc (Bambusoideae); Mắc niễng thuộc họ Sến (Sapotaceae), và một số họ khác nữa
Rừng này chủ yếu bao gồm các loài thực vật bản địa và những cây có nguồn gốc từ khu hệ thực vật Bắc Việt Nam, Nam Trung Hoa, cũng như từ Mã Lai, Indonesia và Ấn-Miến.
Kết cấu tầng thứ của rừng á nhiệt đới núi thấp điển hình ở nơi ít bị phá hoại thường có 3 tầng:
- Một tầng cây gỗ có 2 tầng phụ (A1, A2,)
- Một tầng cây bụi thưa (B)
Tầng cây cỏ và thực vật quyết định (C) đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái Bên cạnh đó, còn có các loài thực vật không xác định tầng thứ như dây leo, thực vật phụ sinh và kí sinh, cùng với tre nứa, góp phần làm phong phú thêm đa dạng sinh học.
Tầng tán rừng có hai tầng phụ chính: A1+A2 và A3
Các trạng thái rừng trong kiểu rừng nhiệt đới núi thấp
Theo phân loại của Loschaus, rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới bao gồm các trạng thái: IB, IC, IIA, IIB, IIIA1, IIIA2, IIIA3 Khu nghiên cứu cho thấy có hai kiểu rừng chính: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới tại vùng núi thấp (độ cao >1.000m) và rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
Hình 4.2:Bản đồ hiện trạng rừng KBTTN Nam Nung
4.2.1 Thành phần các loài thực vật bậc cao tại khu vực nghiên cứu
Theo số liệu điều tra từ 09 OTC, đã thống kê được 43 loài thực vật bậc cao thuộc 23 họ có mặt tại KVNC Kết quả này được tóm tắt trong bảng 4.2.
Bảng 4.2: Thành phần các loài thực vật bậc cao tại
STT Ngành Số họ % Họ Số loài % Loài
Kết quả từ bảng 4.2 cho thấy ngành Thông (Pinophyta) có 1 họ chiếm 4,35% tổng số họ và 2 loài chiếm 4,65% tổng số loài Trong khi đó, lớp Mộc lan (Hai lá mầm) - Magnoliopsida (Dicotyledoneae) chiếm ưu thế với 23 họ, tương đương 95,65% tổng số họ, và 41 loài, chiếm 95,35% tổng số loài Đặc biệt, họ Dầu, họ Măng cụt và họ Đậu là những họ có tỷ lệ cao, trong đó họ Dầu có số cá thể lớn nhất, như được thể hiện rõ trong hình 4.3.
Hình 4.3: Biểu đồ tổng hợp theo họ, loài thực vật bậc cao trong KVNC
4.2.2 Đặc điểm cấu trúc tổ thành rừng trong khu vực VĐMV phân bố
Tổ thành rừng đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc sinh thái, ảnh hưởng đến hình thái và tính bền vững của rừng Đây là chỉ tiêu chính để đánh giá sự ổn định và đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng Sự phức tạp của tổ thành rừng phản ánh khả năng bảo vệ và duy trì cân bằng sinh thái, cho thấy rằng tổ thành rừng càng đa dạng thì tính thống nhất và cân bằng càng cao.
Các mối đe dọa đến loài và sinh cảnh VĐMV
Trong KBT, có tổng cộng 7 mối đe dọa được ghi nhận, bao gồm: săn bắt động vật, khai thác gỗ, cháy rừng, lối mòn trong rừng do hoạt động săn bắn, khai thác và thu hái lâm sản, khai thác lâm sản ngoài tự nhiên (LSNG), chặt cây trồng cà phê, cao su và nương rẫy, cùng với chăn thả gia súc Kết quả chi tiết về các mối đe dọa này được trình bày trong bảng 4.8.
Bảng 4.8: Kết quả đánh giá các mối đe dọa
STT Các mối đe dọa
Săn bắt động vật hoang dã ( Bẫy, súng)
2 Khai thác gỗ trái phép 6 7 6 19 2
Chặt cây trồng cà phê, cao su và nương rẫy
5 Chăn thả gia súc tự do 1 1 1 3 7
(đi lại săn bắn, khai thác và thu hái lâm sản)
Theo bảng 4.7, săn bắt động vật hoang dã được xác định là mối đe dọa lớn nhất đối với quần thể VĐMV, ảnh hưởng đến diện tích, cường độ và tính cấp thiết Các mối đe dọa tiếp theo bao gồm khai thác gỗ trái phép, cháy rừng và lối mòn trong rừng do hoạt động săn bắn, khai thác và thu hái lâm sản Những yếu tố này đang làm suy giảm số lượng và mất sinh cảnh của loài VĐMV.
Săn bắt là nguyên nhân chính gây suy giảm số lượng động vật hoang dã trong khu vực điều tra Trước đây, hoạt động này chủ yếu phục vụ nhu cầu thực phẩm của người dân địa phương, nhưng trong những năm gần đây, nhu cầu đã mở rộng ra cả thương mại, với việc tiêu thụ thịt thú rừng, nuôi động vật cảnh và sản xuất đồ lưu niệm Điều này dẫn đến tình trạng săn bắt, mua bán và vận chuyển động vật hoang dã trái phép gia tăng Nhiều người dân, trước đây chỉ săn bắt khi nông nhàn, giờ đã chuyển sang nghề săn bắt như một nguồn thu nhập chính.
Nghề săn bắt động vật hoang dã mang lại lợi nhuận cao, thu hút người dân địa phương xung quanh khu bảo tồn tham gia Một thợ săn có kinh nghiệm chia sẻ rằng, trong quá trình săn bắn, anh đã bắt gặp nhiều loài như Chà vá chân đen (Pygathryx nigripes) và Vượn đen má vàng (Nomascus gabriellae) Chà vá chân đen thường đi theo đàn đông, dễ dàng bị săn bắt do không nhanh nhạy như các loài khác Ngược lại, việc săn Vượn đen má vàng đòi hỏi nhiều công sức hơn; thợ săn phải dậy sớm để nghe tiếng hót của chúng và chờ đợi cơ hội Tuy nhiên, nếu bắn trúng nhiều cá thể trong một đàn, lợi nhuận sẽ giảm do số lượng động vật bị giết.
Người dân sử dụng nhiều dụng cụ săn bắt như súng, bẫy và chó để săn các loài thú Những loài thú sống trên cây như khỉ, vọoc, chà vá chân đen cùng với các loài thú lớn là mục tiêu chính trong hoạt động săn bắt này.
Bò tót và bò rừng là những loài thú mà thợ săn thường nhắm đến, và súng được coi là công cụ hiệu quả để tiêu diệt chúng Đối với các loài thú nhỏ và trung bình, việc sử dụng bẫy dây phanh và bẫy cạm đường lại mang lại hiệu quả cao hơn, theo nhận định của các thợ săn địa phương và cán bộ khu bảo tồn Nam Nung.
Trong quá trình điều tra tại khu vực gần trạm Quảng Sơn, tôi phát hiện nhiều bẫy săn được đặt dọc theo các đường đồng mức, sử dụng dây phanh xe đạp và cách nhau khoảng 3-4 mét Theo thông tin từ thợ săn, loại bẫy này có khả năng bắt được nhiều loài thú nhỏ và trung bình Họ kiểm tra bẫy định kỳ từ 2-3 ngày một lần vào mùa cao điểm, hoặc 1-2 tuần một lần khi bận rộn với công việc gia đình Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện một số lều săn cũ trong rừng, bên trong còn sót lại nhiều lông sóc và chim.
Hình 4.5: Ảnh bẫy dây cáp
Các loài thú săn bắt có thể được sử dụng làm thực phẩm cho gia đình, chế biến cao hoặc bán ra thị trường, đặc biệt là những loài có giá trị kinh tế cao Thợ săn cho biết, Chà vá chân đen (Pygathryx nigripes) thường được nấu cao hơn là làm thực phẩm do thịt của chúng mỏng và không ngon, trong khi bộ da có thể được dùng để nhồi mẫu trưng bày Vượn đen má vàng (Nomascus gabriellae) cũng là mục tiêu săn bắt để nhồi mẫu trưng bày và nuôi dưỡng các cá thể chưa trưởng thành Ngoài ra, nhiều loài thú khác như cầy giông Tây Nguyên cũng được thợ săn khai thác vì giá trị thực phẩm và trưng bày.
(Viverra tainguyensis), Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus), Cầy hương
Trong quá trình điều tra phỏng vấn, chúng tôi đã ghi nhận sự hiện diện của một số loài động vật hoang dã như Viverricula indica, Bò tót (Bos gaurus), Bò rừng (Bos javanicus), Lợn rừng (Sus scrofa), Nai (Cervus unicolor), Sơn dương (Capricornis sumatraensis) và Báo gấm (Neofelis nebulosa) Đặc biệt, một số cá thể của các loài này được nuôi và làm mẫu vật trong các gia đình tại khu vực chợ Quảng Sơn, Nam Nung và Đức Xuyên.
Hoạt động khai thác gỗ trái phép tại KBT Nam Nung đang gây ra tác động nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài sinh vật Việc khai thác không chỉ lấy đi những cây gỗ quý giá mà còn phá hủy cấu trúc của tầng tán cây, làm giảm khả năng di chuyển và kiếm ăn của động vật, đặc biệt là loài VĐMV Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã nghe thấy tiếng cưa xăng và phát hiện nhiều gốc cây đã bị chặt hạ Ngoài ra, người dân tại các xã xung quanh chủ yếu sử dụng gỗ để xây dựng nhà, trong khi mái nhà thường được lợp bằng tôn.
Việc sử dụng gỗ để xây dựng và sửa chữa nhà ở tại KBT Nam Nung đang đặt ra thách thức lớn cho Ban quản lý và chính quyền địa phương, khi chưa có giải pháp thay thế vật liệu này Người dân vẫn phải vào rừng khai thác gỗ, dẫn đến áp lực lớn lên tài nguyên của khu bảo tồn Hoạt động khai thác gỗ không chỉ làm suy giảm chất lượng sinh cảnh mà còn gây biến đổi môi trường sống, ảnh hưởng đến số lượng động vật trong khu vực Sự tác động này buộc các loài động vật phải di chuyển đến nơi an toàn hơn, từ đó ảnh hưởng đến tốc độ sinh sản và phát triển của chúng, đặc biệt là các loài động vật quý hiếm.
Cháy rừng là một nguyên nhân chính gây hủy hoại sinh cảnh, làm mất nơi cư trú của động vật hoang dã và giảm tính đa dạng sinh học Tại KBT Nam Nung, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 thường xảy ra cháy rừng do các cây thuộc họ dầu rụng lá, tạo điều kiện cho các vụ cháy Các hoạt động như đốt rừng để trồng cà phê, cao su, làm lều săn bắn, khai thác gỗ, và thu hoạch lâm sản ngoài gỗ đều góp phần vào nguy cơ cháy rừng Theo bảng đánh giá các mối đe dọa, cháy rừng được xếp hạng thứ 3, khiến đây trở thành một vấn đề đáng lo ngại cho Ban quản lý.
4.3.4 Lối mòn trong rừng (đi lại săn bắn, khai thác gỗ và thu hái lâm sản)
Việc tạo ra các đường mòn trong rừng do hoạt động nông nghiệp, trồng rừng cao su và cà phê, chăn thả gia súc, thu hái lâm sản ngoài gỗ và bắt ong lấy mật đã ảnh hưởng đến điều tra tại khu vực NVNC Những con đường này không chỉ phục vụ cho việc di chuyển giữa các khu vực mà còn được sử dụng cho săn bắn và khai thác gỗ trái phép Sự hình thành của các đường mòn này có thể dẫn đến sự chia cắt sinh cảnh sống, gây trở ngại cho sự giao lưu của các loài động vật.
4.3.5 Khai thác lâm sản ngoài gỗ
Việc khai thác sản phẩm phi gỗ từ khu bảo tồn (KBT) như măng, nấm hương và mộc nhĩ đã trở nên phổ biến, cùng với các sản phẩm cây cảnh, đồ thủ công mỹ nghệ và thuốc như phong lan, song mây, cây mật nhân và nấm linh chi Tuy nhiên, hoạt động khai thác này của người dân địa phương đang làm giảm số lượng và trữ lượng các loài lâm sản ngoài gỗ trong KBT Việc khai thác thương mại thường xuyên hiện nay đang đe dọa sự tồn tại của các loại lâm sản này, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sinh cảnh do tác động của con người.
Thả rông gia súc vào rừng là một tập tục lâu đời của người dân miền núi, nhưng việc cấm chăn thả gia súc vào rừng gặp nhiều khó khăn Mặc dù Ban quản lý KBT đã thực hiện các biện pháp tuyên truyền và nghiêm cấm hành vi này, tình trạng thả rông trâu bò vẫn diễn ra, đặc biệt ở các vùng giáp ranh với thôn bản Việc chăn thả gia súc trong rừng gây áp lực lên môi trường sống của động vật hoang dã, dẫn đến cạnh tranh về thức ăn và nước uống Hơn nữa, việc tiếp xúc thường xuyên giữa gia súc và động vật hoang dã có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh, ảnh hưởng tiêu cực đến quần thể động vật.
4.3.7 Chặt cây trồng cà phê, cao su và nương rẫy
Một số giải pháp bảo tồn loài và sinh cảnh VĐMV tại Khu bảo tồn thiên nhiên
Bảo tồn và phát triển loài VĐMV cần gắn liền với việc đảm bảo cuộc sống ổn định cho người dân xung quanh khu bảo tồn Các chiến lược bảo tồn và phát triển bền vững phải chú trọng đến việc phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương Hiệu quả của hoạt động bảo tồn sẽ cao hơn khi lợi ích từ tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học được chia sẻ, đồng thời khuyến khích sự tham gia tự nguyện của cộng đồng vào các hoạt động bảo tồn.
4.4.1 Nâng cao năng lực quản lý và thực thi pháp luật trong việc quản lý bảo vệ rừng
Củng cố tổ chức và xây dựng kế hoạch cho hợp lý
Hệ thống tổ chức của Ban quản lý KBT còn yếu kém, thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn và phương tiện cần thiết Điều này khiến lực lượng quản lý không đủ mạnh để đối phó hiệu quả với lâm tặc, trong khi chúng ngày càng hoạt động một cách có tổ chức và tinh vi hơn.
Để nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng, cần tăng cường thể chế cho các nhà lãnh đạo liên quan, đồng thời cung cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cần thiết Chính quyền tỉnh cần chịu trách nhiệm đối với khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) và tiếp tục củng cố tổ chức cán bộ Việc đào tạo lại, nâng cao nghiệp vụ và áp dụng quy định chặt chẽ hơn, cũng như sa thải những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, sẽ giúp nâng cao năng lực và củng cố bộ máy quản lý.
Quy hoạch cán bộ là cần thiết để rà soát và chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ của KBT, nhằm thực thi hiệu quả các nhiệm vụ Cần củng cố tổ chức các trạm và đội cơ động kiểm lâm để nâng cao năng lực đội ngũ Đồng thời, tiếp tục sắp xếp và củng cố bộ máy tổ chức một cách tinh gọn và hiệu quả.
Xây dựng và hoàn thiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh
Hoạch định cắm mốc giới trên thực địa KBT cần sự tham gia của đại diện từ các cấp tỉnh, huyện, xã, thôn bản, và chủ rừng tại những khu vực đã giao rừng hoặc bị lấn chiếm Đồng thời, cần thực hiện các biện pháp theo đề án giao rừng cho ban quản lý KBT để đảm bảo hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng.
KBT cần chủ động hợp tác với UBND huyện và chính quyền địa phương các xã giáp ranh để cùng nhau thực hiện công tác phòng chống cháy rừng và bảo vệ khu vực rừng.
KBT cần tái cấu trúc mạng lưới bảo vệ rừng trong cộng đồng tại các xã, đảm bảo rằng những khu vực có nguy cơ cháy rừng và bị tàn phá từ bên ngoài được bảo vệ bởi đội ngũ chuyên trách hợp lý Đồng thời, cần thiết lập chế độ đãi ngộ phù hợp để khuyến khích và hỗ trợ những người tham gia bảo vệ rừng.
Để ngăn chặn các hành vi vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, cần thực hiện chế độ tuần tra rừng định kỳ Việc này bao gồm giao ban giữa các trạm Kiểm lâm liền kề về tình hình rừng thông qua các tuyến tuần tra quy định.
Xây dựng trụ sở các trạm Kiểm lâm một cách hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện ổn định cho cán bộ trong công tác và sinh hoạt, từ đó nâng cao hiệu quả công việc và hoàn thiện mạng lưới trạm Kiểm lâm.
Về phương tiện làm việc và nhân lực tại các trạm Kiểm lâm:
+ Nhân lực: Bảo đảm biên chế Kiểm lâm theo định mức trên diện tích rừng được giao bảo vệ
Mỗi trạm cần được trang bị đầy đủ các phương tiện cần thiết để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong công tác phòng chống cháy rừng Các dụng cụ bao gồm dao phát, xẻng, cuốc, kẻng báo cháy, và bình cứu hỏa, cùng với tủ thuốc chữa bệnh và xe máy Ngoài ra, bản đồ khu vực, máy định vị toàn cầu (GPS), ống nhòm, thước dây, thước kẹp kính, và điện thoại cố định cũng là những trang bị quan trọng Trạm còn cần có vũ khí, công cụ hỗ trợ, sổ tay điều tra, nhật ký giao ban hàng ngày, và các văn bản hướng dẫn, nội quy công tác để đảm bảo hoạt động hiệu quả và an toàn.
Cơ quan Hạt Kiểm lâm được tổ chức gọn nhẹ, không chia thành các tổ mà phân công trách nhiệm cá nhân cho từng lĩnh vực công việc như Kỹ thuật lâm sinh, Phòng chống cháy và sâu bệnh, Địa chính, Pháp chế, Hành chính đời sống và Kế toán.
Cần hoàn thiện hệ thống bảng thông báo nội quy ra vào Khu Bảo Tồn (KBT) tại các đường chính từ các thôn, bản lên rừng, với mỗi thôn, bản có từ 1 đến 2 bảng Đồng thời, lắp đặt các biển báo nhắc nhở về việc cấm chặt phá và phòng chống cháy rừng.
Tăng cường hoạt động thực thi pháp luật
Để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, việc tăng cường thanh kiểm tra thi hành pháp luật là vô cùng cần thiết Khi luật pháp không được thực thi nghiêm minh, mọi nỗ lực tuyên truyền và nâng cao nhận thức sẽ khó đạt được thành công Người dân chỉ thực sự lo ngại khi pháp luật không được xử lý nghiêm khắc, và sự tiếp tay của một số cán bộ cho lâm tặc sẽ làm giảm lòng tin của họ vào hệ thống pháp luật Do đó, việc thi hành pháp luật một cách nghiêm túc là vũ khí hiệu quả để bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Tổ chức và duy trì hoạt động tuần tra giám sát dựa vào thôn bản, thiết lập hệ thống tuần tra của dựa vào cộng đồng
Kiểm soát súng là một vấn đề quan trọng, đặc biệt khi súng vẫn còn trong tay người dân Để giải quyết tình trạng này, cần thực hiện các chương trình hành động như khuyến khích giao nộp súng tự nguyện và áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với những người sử dụng súng trái phép Đồng thời, cần xử lý kịp thời những cá nhân sở hữu và giấu súng, cũng như cấm bán đạn và vật liệu săn bắn tại các thôn bản trong vùng đệm.
Nâng cao trình độ chuyên môm nghiệp vụ cho cán bộ KBT
Để nâng cao chất lượng cán bộ, KBT chú trọng quy hoạch và đào tạo, ưu tiên tiếp nhận sinh viên có học lực khá Đồng thời, KBT sẽ tăng cường đào tạo chuyên môn, ngoại ngữ và tin học Những cán bộ thuộc diện quy hoạch sẽ cam kết theo học thạc sĩ hoặc tiến sĩ và làm việc lâu dài tại KBT.
Kết luận
Dựa trên các nghiên cứu về đặc điểm sinh học và mối tương quan giữa các đặc điểm thực vật với sự phân bố của VĐMV tại Khu BTTN Nam Nung, tỉnh Đắk Nông, chúng tôi đã rút ra một số kết luận quan trọng.
1 Tổng số có 21 đàn VĐMV được ghi nhận tại KBT (ước tính khoảng 33 đàn) Mật độ của vượn là 0.0051 đàn/km 2 , phân bố trong diện tích khoảng 6,500ha Các đàn Vượn phân bố chủ yếu tại khu vực Quảng Sơn, khu vực phía Nam và trung tâm KBT, Đắk Môn và Nam Nung, những nơi rừng ít bị tác động trong KBT
2 Đề tài đã thống kê được 43 loài thực vật bậc cao thuộc 23 họ có mặt tại KVNC Công thức tổ thành chính là: 1,35 Dau + 1,03 Tram + 0,9 Gio + 0,57 Thn + 0,58 Dg +0,38 Bgl +0,38 Bua + 0,36 Re + 0,32 Sgl + 0,30 Sad + 0,27 Mgd + 0,25 Kha + 3,31 Lk Trong khu vực nghiên cứu có 3 trạng thái rừng chính: Trạng thái IIB, IIIA1 và IIIA2
3 Đề tài đã xác định được 7 mối đe dọa chính có ảnh hưởng đến loài và sinh cảnh VĐMV Trong đó, săn bắt động vật hoang dã là mối đe dọa lớn nhất đến quần thể VĐMV về diện tích ảnh hưởng, cường độ và tính cấp thiết Tiếp đến là mối đe dọa về khai thác gỗ trái phép, cháy rừng, Lối mòn trong rừng (đi lại săn bắn, khai thác và thu hái lâm sản)
4 Đề tài đã đề xuất được 4 nhóm giải pháp chính giúp quản lý và bảo tồn loài đó là: Nâng cao năng lực quản lý và thực thi pháp luật trong việc quản lý bảo vệ rừng; Cải thiện sinh kế cho cộng động địa phương; Nâng cao nhận thức cộng đồng; và phát triển chương trình nghiên cứu khoa học.
Tồn tại
Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian hạn chế, với điều tra thực địa diễn ra vào mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, do mùa mưa không đủ thời gian cho việc thực hiện.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đã tiến hành khảo sát 9 OTC cho 3 trạng thái rừng Tuy nhiên, số lượng mẫu thu thập còn hạn chế, điều này đã ảnh hưởng đến độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
Do địa hình hiểm trở nên khó khăn cho việc di chuyển vì vậy một số đặc điểm thực vật được đo bằng phương pháp mục trắc.
Kiến nghị
Ban quản lý KBT Nam Nung cần duy trì hoạt động phối hợp với Công an và Huyện đội để thành lập đội liên ngành, tổ chức tuần tra trong và ngoài KBT Việc này nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các vi phạm cũng như tác động của người dân vào rừng.
Ban quản lý KBT Nam Nung đã hợp tác với Công an và Huyện đội để triển khai phương án thu hồi và quản lý chặt chẽ súng săn, đồng thời xử lý các vi phạm một cách nghiêm minh.
Để nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng, cần tăng cường công tác tuần tra và bổ sung lực lượng tại các trạm như Trạm Quảng Sơn và Đức Xuyên Việc này nhằm ngăn chặn tình trạng khai thác gỗ và săn bắt trái phép Đồng thời, cần có chính sách đãi ngộ hợp lý để đảm bảo sự yên tâm cho lực lượng bảo vệ rừng trong công tác của họ.
Nghiêm cấm săn bắn động vật hoang dã và buôn bán động vật hoang dã trong cộng đồng địa phương Đồng thời, cần cung cấp hỗ trợ về vốn và kỹ thuật để người dân tham gia chăn nuôi động vật hoang dã, từ đó nâng cao đời sống vật chất, cải thiện sinh kế và giảm thiểu tác động tiêu cực đến tài nguyên động vật rừng, đặc biệt là loài VĐMV.
Chương trình phục hồi rừng được triển khai nhằm cải thiện sinh cảnh cho loài VĐMV và nâng cao chất lượng rừng, từ đó giảm thiểu nguy cơ cạnh tranh sinh cảnh sống với các loài linh trưởng khác trong khu vực.
Nghiên cứu mức độ cạnh tranh thức ăn giữa các loài linh trưởng và VĐMV là cần thiết để hỗ trợ công tác bảo tồn loài VĐMV cùng với sinh cảnh của chúng tại khu bảo tồn.
Ban quản lý KBT và các cơ quan chức năng địa phương cần thiết lập các chính sách hỗ trợ người dân phát triển kinh tế bền vững, nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng.
Nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ tài nguyên rừng, đặc biệt là VĐMV, là rất quan trọng Các hoạt động giáo dục bảo tồn như chiếu phim và tổ chức họp dân để truyền đạt các văn bản pháp luật liên quan đến công tác bảo tồn sẽ giúp tăng cường hiểu biết và ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường.