1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu khả năng tái sinh cây sâm ngọc linh (panax vietnamensis ha et grushv ) phục vụ công tác bảo tồn tại vùng núi ngọc linh thuộc xã trà linh, huyện nam trà my, tỉnh quảng nam​

87 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên cứu khả năng tái sinh cây Sâm ngọc linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) phục vụ công tác bảo tồn tại vùng núi Ngọc Linh thuộc xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam
Tác giả Lê Thanh Sơn
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Tập
Trường học Trường Đại học Lâm nghiệp
Chuyên ngành Lâm học
Thể loại luận văn thạc sỹ
Năm xuất bản 2007
Thành phố Hà Tây
Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 2,44 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu (11)
    • 1.1 Trên thế giới (11)
      • 1.1.1 Chi Sâm (Panax L.) và sơ bộ về sự phân bố của các loài (11)
      • 1.1.2 Vài nét về hiện trạng các loài sâm hiện nay (14)
      • 1.1.3 Vấn đề nhân trồng một số loài sâm (15)
    • 1.2 ở Việt Nam (17)
      • 1.2.1 Các loài thuộc chi Sâm (Panax L.) đã biết ở Việt Nam (17)
      • 1.2.2 Lịch sử phát hiện và nghiên cứu về Sâm ngọc linh ở Việt Nam (18)
      • 1.2.3 Những nghiên cứu về hoá học và dược lý (20)
      • 1.2.4 Hiện trạng và vấn đề bảo tồn Sâm ngọc linh (21)
  • Chương 2 mục tiêu, đối tượng, giới hạn, nội dung và phương pháp nghiên cứu (24)
    • 2.1 Mục tiêu nghiên cứu (24)
      • 2.1.1 Về khoa học (24)
      • 2.1.2 VÒ thùc tiÔn (24)
    • 2.2 Đối tượng nghiên cứu (24)
    • 2.3 Địa điểm nghiên cứu (24)
    • 2.4 Giới hạn nghiên cứu (25)
    • 2.5 Nội dung nghiên cứu (25)
    • 2.6 Phương pháp nghiên cứu (26)
      • 2.6.1 Cách tiếp cận của đề tài (26)
      • 2.6.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể (28)
  • Chương 3 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu (30)
    • 3.1 Điều kiện tự nhiên (30)
      • 3.1.1 Vị trí địa lý (30)
      • 3.1.2 Diện tích, địa hình và đất đai (31)
      • 3.1.3 KhÝ hËu, thuû v¨n (32)
    • 3.2 Điều kiện kinh tế – xã hội (34)
      • 3.2.1 D©n sè, d©n téc (34)
      • 3.2.2 Kinh tế, văn hoá, xã hội (35)
  • Chương 4 Kết quả và bàn luận (37)
    • 4.1 Vài nét về thảm thực vật rừng, nơi có Sâm ngọc linh mọc tự nhiên (37)
    • 4.2 Những đặc điểm hình thái và sinh thái cơ bản của Sâm ngọc linh (38)
      • 4.2.2 Đặc điểm sinh thái (40)
    • 4.3 Tình hình sinh trưởng, phát triển và tái sinh tự nhiên của Sâm ngọc linh (44)
      • 4.3.1 Chu trình sinh trưởng phát triển hàng năm (44)
      • 4.3.2 Sự ra hoa kết quả và tái sinh tự nhiên (46)
    • 4.4 Kết quả nghiên cứu nhân giống từ hạt (49)
      • 4.4.1 Tiêu chuẩn quả chín để lấy hạt giống (49)
      • 4.4.2 Cách xử lý hạt trước khi gieo (50)
      • 4.4.3 Làm vườn ươm và kỹ thuật gieo hạt (54)
    • 4.5 Kết quả nghiên cứu nhân giống từ một phần thân rễ (củ) (59)
      • 4.5.1 Nghiên cứu nhân giống từ đầu mầm thân rễ (59)
      • 4.5.2 Khả năng nhân giống khác (63)
    • 4.6 Chăm sóc và bảo vệ cây con ở vườn ươm (66)
      • 4.6.1 Chăm sóc cây con ở vườn ươm (66)
      • 4.6.2 Bảo vệ (67)
    • 4.7 Sự sinh trưởng, phát triển của cây mọc từ hạt và từ đầu mầm trong giai đoạn vườn ươm (68)
      • 4.7.1 Cây mọc từ hạt (68)
      • 4.7.2 Cây mọc từ đầu mầm (70)
    • 4.8 Tiêu chuẩn cây giống đưa ra trồng (71)
      • 4.8.1 Cây giống từ hạt (71)
      • 4.8.2 C©y gièng tõ ®Çu mÇm (72)
    • 4.9 Vài nét về trồng Sâm ngọc linh dưới tán rừng tự nhiên (74)
  • Chương 5 Kết luận và khuyến nghị (77)
    • 5.1 KÕt luËn (77)
    • 5.2 Khuyến nghị (79)
  • Tài liệu tham khảo (80)

Nội dung

Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Trên thế giới

1.1.1Chi Sâm (Panax L.) và sơ bộ về sự phân bố của các loài

Chi Sâm (Panax L.) thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae) được Carlvon Linné xác định từ năm 1753, với loài điển hình là Panax quinquefolium L Loài này chủ yếu phân bố ở Bắc Mỹ, cùng với loài Panax trifoliatus L.

Sang thế kỷ 19 và 20, người ta công bố thêm một số loài nữa như:

- P ginseng Meyer., 1842 ở Viễn Đông Nga, Đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên [27], [38], [39],[47].

Vào nửa sau thế kỷ 20, sau nhiều lần thay đổi trong phân loại chi Panax L tại Trung Quốc, các nhà khoa học đã xác lập thêm nhiều loài và thứ mới, bao gồm P notoginseng (Burkill) Chen, P wangianus S.C Sun, và P zingiberensis Một trong những loài được ghi nhận là P bipinnatifidus Seem, 1868, xuất hiện tại Ấn Độ.

Wu et Feng; P stipuleanatus Tsai et Feng và P bipinnatifidus var angustifolius

Loài mới được công bố gần đây nhất là Sâm ngọc linh/ Sâm việt nam (Panax vietnamensisHa et Grushv., 1985) [41].

Trong quá trình nghiên cứu về các loài sâm mọc tự nhiên, đã có nhiều điểm phân bố mới được ghi nhận Tuy nhiên, do giá trị kinh tế cao, một số loài sâm đã bị khai thác cạn kiệt Để đáp ứng nhu cầu, các loài như Nhân Sâm (P ginseng Meyer), Tam thất (P notoginseng (Burkill) Chen), Giả nhân sâm (P pseudoginseng Wall) và Tây dương sâm (P quinquefolius L.) đã được trồng thêm trong nước và nhập khẩu sang nhiều quốc gia khác Sự phân bố của các loài này được thể hiện trong bảng 1-1.

Bảng 1-1 Các loài thuộc chi Panax L trên thế giới và sự phân bố

TT Các loài và dưới loài Mọc tự nhiên Trồng Tài liệu tham khảo

Trung Quèc, TriÒu Tiên, Nga Trung Quốc, Triều Tiên,

Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Nga, Canada…

Canada, Mü Trung Quèc, Mü 19,33,34

Y Wu et K M Feng (Tam thÊt)

Canada, Mỹ Trung Quốc, Nhật Bản,

Có thể ở Nê Pan Nhật Bản, Trung Quốc,

Triều Tiên, Hàn Quốc, Việt Nam (?)

9 P bipinnatifidus Seemann Trung Quèc, Ên Độ, Nê Pan, Mianma, Việt Nam

10 P bipinnatifidus Seemann var. angustifolius (Burkill) Wen

Trung Quèc, Ên §é, Ne Pan

Trong số 12 loài và dưới loài đã được đề cập, có 11 loài và dưới loài là cây mọc tự nhiên, trong khi một số loài đã được trồng Đặc biệt, loài Giả nhân sâm (P pseudoginseng) vẫn chưa rõ nguồn gốc.

* Như vậy toàn bộ chi Sâm (PanaxL.) trên thế giới hiện đã biết chắc chắn có

Chi Panax L bao gồm 11 loài và 1 dưới loài, chủ yếu phân bố ở Bắc bán cầu Chúng xuất hiện tại vùng rừng núi ven biển phía Đông Bắc Mỹ, bao gồm Bắc Hoa Kỳ và Tây – Nam Canada, với hai loài tiêu biểu là P quinquefolius và P trifoliatus, cùng với khả năng có mặt của loài P notoginseng.

Vùng Đông Bắc á (gồm Viễn Đông Nga, Đông Bắc Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản) có 2 loàiP ginsengvàP japonicus

Trung tâm phân bố của chi Panax L trải dài từ vùng Tây – Nam Trung Quốc đến phía Bắc Việt Nam, đặc biệt là tại hai tỉnh biên giới Vân Nam (Trung Quốc) và Lào Cai (Việt Nam) Khu vực này có tới 7 loài và dưới loài mọc tự nhiên, cùng với 2 loài trồng là P notoginseng (nhập từ Bắc Mỹ) và P pseudoginseng, loài không tìm thấy trong tự nhiên nhưng có thể có nguồn gốc từ khu vực cận Himalaya thuộc Nê Pan hoặc là kết quả của lai tự nhiên.

Trung tâm phân bố của chi Sâm (Panax L.) trên thế giới nằm ở Bắc Mỹ, nơi có ba loài chính: P notoginseng, P quinquefolius và P trifoliatus.

Giới hạn cuối cùng về phía Nam của chi Panax L là loài Sâm ngọc linh (Panax vietnamensis) ở Miền Trung của Việt Nam, tại 14 o 15’ vĩ độ Bắc.

Sâm ngọc linh được xem là loài thực vật đặc hữu của Miền Trung Việt Nam Mặc dù có một số ý kiến cho rằng loài này cũng xuất hiện tại núi Langbian, Lâm Đồng, nhưng cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy mẫu Sâm ngọc linh tại khu vực này.

Tóm lại, trên thế giới Sâm ngọc linh mới chỉ thấy ở Miền Trung của Việt Nam trên núi Ngọc Linh thuộc 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum.

1.1.2Vài nét về hiện trạng các loài sâm hiện nay

Tất cả các loài thuộc chi Sâm (Panax L.) đều có giá trị kinh tế cao và được sử dụng làm thuốc Tuy nhiên, sau nhiều năm bị khai thác, các loài sâm tự nhiên đang rơi vào tình trạng cạn kiệt Nhân sâm (P ginseng) đã được trồng từ hàng trăm năm trước, trong khi các loài như Tam thất (P notoginseng) và Giả nhân sâm (P pseudoginseng) cũng đã được canh tác lâu đời tại Trung Quốc.

Quốc, nhưng hiện cũng chưa rõ xuất xứ, cũng như chúng được đưa vào trồng từ bao giê [19],[27],[47],[44].

Những loài thuộc chi Panax đã được trồng với qui mô lớn hiện nay ở các quốc gia có thể kể đến như là:

+ Nhân sâm (P ginseng): Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Liên Bang Nga và Mỹ.

+ Tam thất (P notoginseng): Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

+ Giả Nhân sâm (P pseudoginseng): Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc(?) và Việt Nam

+ Tây dương sâm (P quinquefolius): Mỹ, Trung Quốc.

Ngoài ra một số loài khác như Sâm nhật (P japonicus), Sâm gừng (P. zingiberensis) cũng có trồng rải rác ở Nhật Bản và Trung Quốc nhưng không nhiÒu.

Một số loài như P wangianus, P bipinnatifidus, P stipuleanatus và Sâm ngọc linh (P vietnamensis) hiện đang có nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên, đặc biệt là ở các khu vực như Vân Nam (Trung Quốc), biên giới Ấn Độ, Nê Pan, Myanma và miền Trung Việt Nam Trong số này, chỉ có hai loài là Sâm vũ diệp (P bipinnatifidus) và Sâm ngọc linh (P vietnamensis) được ghi danh trong Danh lục Đỏ của IUCN (2003), trong khi Sâm vũ diệp cũng được bảo tồn trong Sách Đỏ Trung Quốc (1996).

1.1.3Vấn đề nhân trồng một số loài sâm

Theo các tài liệu hiện có, hầu hết các loài thuộc chi Sâm (Panax L.) trên thế giới có phạm vi phân bố rất hạn chế Các loài như P quinquefolius, P pseudoginseng, P wangianus, P zingiberensis, P trifoliatus và P vietnamensis chỉ được biết đến tại một điểm phân bố duy nhất.

Một số loài như P ginseng, P japonicus, P stipuleanatus và P bipinnatifidus có từ hai điểm phân bố trở lên, nhưng kích thước quần thể của chúng rất nhỏ Do đó, khi bị khai thác, chúng dễ bị suy giảm nghiêm trọng và có nguy cơ tuyệt chủng Để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, việc nghiên cứu và phát triển trồng trọt là điều cần thiết.

Nhân sâm (P ginseng) được biết tới khoảng 4.000 năm trước đây [33],[34],[37],[39] đồng thời đây cũng là loài có lịch sử trồng trọt tới vài trăm năm

Nhân sâm hiện nay chủ yếu được trồng tại Trung Quốc, tiếp theo là Hàn Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản Mặc dù Liên Bang Nga và Mỹ cũng có trồng Nhân sâm, nhưng quy mô chưa rõ ràng Tổng sản lượng Nhân sâm toàn cầu hàng năm có thể lên đến hàng ngàn tấn.

Tam thất (P notoginseng) là loài sâm được trồng phổ biến thứ hai sau Nhân sâm, với quy mô hàng ngàn héc ta tại Trung Quốc, đặc biệt ở châu Vân Sơn (tỉnh Vân Nam) và một số khu vực khác như Quảng Tây và Quảng Đông Ngoài Trung Quốc, Tam thất cũng được trồng rộng rãi ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Triều Tiên Đồng thời, loài Tây dương sâm (P quinquefolius) cũng được trồng nhiều ở Mỹ và đã được đưa về trồng tại Trung Quốc trong những năm gần đây.

Các loài sâm như Nhân sâm, Tam thất, Giả nhân sâm, và Tây dương sâm thường được trồng ở vườn có mái che do đặc điểm sinh thái ưa ẩm và bóng râm Để phát triển sản xuất lớn, việc chọn giống và nghiên cứu kỹ thuật nhân giống đã được chú trọng Mặc dù có tài liệu về việc tạo giống Nhân sâm và Tam thất qua nuôi cấy mô tế bào, nhưng theo các nghiên cứu từ Liên Xô và Trung Quốc, phương pháp trồng Nhân sâm chủ yếu vẫn dựa vào cây giống gieo từ hạt.

ở Việt Nam

1.2.1Các loài thuộc chi Sâm (Panax L.) đã biết ở Việt Nam ở Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay chi Panax chắc chắn có 5 loài, trong đó có 3 loài mọc tự nhiên là Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidus Seem.), Tam thất hoang (P stipuleanatus Tsai et Feng) và Sâm ngọc linh (P vietnamensis Ha et Grushv.) Hai loài nhập trồng là Tam thất (P pseudoginsengWall.) và Nhân sâm (P. ginsengMeyer) [19].

Loài Sâm vũ diệp (P bipinnatifidus) phân bố tự nhiên tại vùng núi Hoàng Liên Sơn, bao gồm huyện Sa Pa và huyện Bát Xát ở tỉnh Lào Cai, cũng như huyện Than Uyên ở tỉnh Lai Châu, với độ cao từ 1.800m đến 2.400m Trên thế giới, loài này cũng xuất hiện ở Nam Trung Quốc, Bắc Myanma, Đông-Bắc Ấn Độ và Nê Pan.

Loài Tam thất hoang (P stipuleanatus) phân bố tự nhiên tại vùng núi Hoàng Liên Sơn, bao gồm huyện Sa Pa và huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai, cùng với huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu, ở độ cao từ 1.800m đến 2.400m Trên thế giới, loài này chỉ được phát hiện tại vùng Đông – Nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, gần biên giới Việt Nam, ở độ cao từ 1.200m đến 1.700m Tam thất hoang được bổ sung vào hệ thực vật Việt Nam vào những năm đầu thập kỷ 90 và là loài đặc hữu của vùng Nam Trung Quốc – Bắc Việt Nam.

Cả hai loài đã bị khai thác cạn kiệt, kết hợp với việc môi trường sống bị thu hẹp và phá hủy do nạn phá rừng trồng Thảo quả, dẫn đến tình trạng cực kỳ hiếm hoi và nguy cơ tuyệt chủng cao.

Viện Dược liệu phối hợp với Bộ KH & CN đang triển khai chương trình bảo tồn hai loài Sâm vũ diệp và Tam thất hoang tại dãy Hoàng Liên Sơn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, và chương trình này đang đạt được kết quả khả quan.

Sâm ngọc linh (P vietnamensis) là loài thực vật đặc hữu của miền Trung Việt Nam, chủ yếu phân bố tại các huyện Tu Mơ Rông, Đăk Glei (tỉnh Kon Tum) và Nam Trà My, Phước Sơn, Hiên (tỉnh Quảng Nam) Loài này thường sinh trưởng ở vùng núi Ngọc Linh, với độ cao trên 1.500m, tạo nên môi trường lý tưởng cho sự phát triển của nó.

Sâm ngọc linh được cho là còn tồn tại ở núi Lang Bian, tỉnh Lâm Đồng Tuy nhiên, loài này hiện đã trở nên cực hiếm do tình trạng khai thác quá mức trong nhiều năm và việc đốt nương làm rẫy, dẫn đến sự thu hẹp diện tích tự nhiên Hiện tại, sâm ngọc linh chỉ còn tập trung tại hai điểm bảo tồn, trong đó có Chốt sâm ở xã Măng.

Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum) và Trạm Dược liệu Trà Linh (xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam) [15],[19].

Theo tiêu chuẩn phân hạng của Danh lục Đỏ IUCN năm 1994 và 2001, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang và Sâm ngọc linh được Nguyễn Tập đề xuất ở mức phân hạng CR A1 c,d, cho thấy cả ba loài này hiện đang ở tình trạng “Cực kỳ bị nguy cấp”.

Giả nhân sâm và Tam thất (P pseudoginseng) đã được cộng đồng người Hoa ở biên giới huyện Đồng Văn và huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, mang từ Trung Quốc về trồng tại vườn gia đình từ trước năm 1964.

Năm 1973, Viện Dược Liệu cùng một số địa phương gần biên giới Trung Quốc đã nhập giống Tam thất về trồng tại các huyện Sa Pa, Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), Thông Nông, Hà Quảng (tỉnh Cao Bằng) và Thị trấn Phó Bảng, Đồng Văn (tỉnh Hà Giang) Tuy nhiên, hiện nay dường như không còn địa điểm nào duy trì việc trồng giống Tam thất nhập nội này.

Nhân sâm (P ginseng) đã được Viện Dược Liệu nhập giống từ Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Nhật Bản nhiều lần trong giai đoạn 1970 – 1995 nhưng không thành công Đến năm 2001, một cá nhân đã mang hạt giống Nhân sâm từ nước ngoài về và trồng ở Sa Pa Đặc biệt, chỉ sau 3 năm, 30% cây trồng đã ra hoa, đánh dấu thông tin đầu tiên về việc Nhân sâm được trồng và ra hoa, quả tại Việt Nam.

1.2.2Lịch sử phát hiện và nghiên cứu về Sâm ngọc linh ở Việt Nam

Vào năm 1973, đoàn điều tra dược liệu do Dược sĩ Đào Kim Long và Nguyễn Châu Giang dẫn đầu đã phát hiện một loài thuộc chi Panax tại tỉnh Gia Lai - Kon Tum, ở độ cao khoảng 1.800m so với mực nước biển, ban đầu được gọi là Sâm đốt trúc với tên khoa học sơ bộ là Panax articulatus L Mặc dù trước đó, vào năm 1968, kỹ sư Vũ Đức Minh đã thu thập mẫu loài này và đặt tên là Sâm khu 5, ông cũng đã nhận định rằng vùng núi Ngọc Linh có thể có Nhân sâm Từ những năm kháng chiến chống Pháp (1952 - 1953), nhiều cán bộ cách mạng đã được đồng bào chỉ cho cây thuốc này như một thần dược để chữa bệnh Theo bác sĩ Xô Krơn và bác sĩ Xô Lê Tăng, người dân địa phương cho biết gia đình họ đã sử dụng cây thuốc này từ lâu để chữa trị cho những người ốm nặng, bị rắn cắn và các bệnh thông thường như đau bụng và cầm máu vết thương.

Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1976, nghiên cứu sơ bộ của TS Nguyễn Thới Nhâm tại Ba Lan đã chỉ ra rằng thành phần saponin của sâm Việt Nam tương tự như Nhân sâm Đến năm 1978-1979, các tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) và Gia Lai - Kon Tum tiến hành điều tra trữ lượng Sâm Ngọc Linh, ghi nhận 92 điểm sâm tập trung ở 10 xã thuộc hai huyện Đăk Tô và Đăk Glei tỉnh Kon Tum, cùng với 16 điểm sâm ở 3 xã Trà Linh, Trà Nam và Trà Cang huyện Trà.

My tỉnh Quảng Nam Trữ lượng hàng năm có thể khai thác từ 800 đến 1.000kg

Năm 1985, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô, cây Sâm ngọc linh đã được xác định là một loài mới do Hà Thị Dụng và I V Grushvitzky phát hiện Loài cây này, được công nhận với tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., đã chính thức được giới thiệu ra thế giới Tại Việt Nam, Sâm ngọc linh còn được biết đến với tên gọi Sâm việt nam, được nhiều người dân quen thuộc.

1.2.3Những nghiên cứu về hoá học và dược lý

Theo quan điểm về phân loại và dược lý học, các nghiên cứu của các nhà khoa học toàn cầu đã phân chia 12 loài thuộc chi Panax thành hai nhóm chính.

mục tiêu, đối tượng, giới hạn, nội dung và phương pháp nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Hiểu rõ các đặc điểm sinh thái và quá trình tái sinh tự nhiên là nền tảng khoa học quan trọng giúp nâng cao hiệu quả nhân giống Sâm Ngọc Linh, từ đó đáp ứng nhu cầu bảo tồn và phát triển trồng tại chỗ loại cây quý giá này.

Dựa trên kết quả quan sát khả năng ra hoa, kết quả và nảy mầm của hạt, chúng tôi đã lựa chọn phương pháp nhân giống Sâm Ngọc Linh tối ưu bằng hạt, đảm bảo tỷ lệ nảy mầm cao và chất lượng cây giống tốt Đồng thời, các biện pháp xử lý và tận dụng đầu mầm sau khi thu hoạch củ cũng được áp dụng, nhằm phục vụ cho việc nhân rộng và trồng thêm dưới tán rừng tự nhiên tại vùng núi Ngọc Linh.

Việc này không chỉ góp phần bảo tồn mà còn thúc đẩy nhân trồng Sâm Ngọc Linh, tạo ra nhiều dược liệu ngay tại vùng phân bố tự nhiên của nó.

Đối tượng nghiên cứu

Cây Sâm ngọc linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae) là đối tượng nghiên cứu quan trọng, được tìm thấy tự nhiên và được trồng bảo tồn dưới tán rừng tại vùng núi Ngọc Linh.

Địa điểm nghiên cứu

Cuộc điều tra khảo sát được tiến hành tại vùng núi Ngọc Linh, thuộc huyện Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam) và các huyện Đăk Glei, Tu Mơ Rông (tỉnh Kon Tum).

Các nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện tại vườn Sâm ngọc linh, tọa lạc ở thôn Măng Lùng, xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam Địa điểm này có tọa độ 15°02'26'' vĩ độ Bắc và 107°58'33'' kinh độ Đông, nằm ở độ cao 1.920m.

Giới hạn nghiên cứu

Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào lĩnh vực Lâm sinh học, đặc biệt là nghiên cứu đặc tính sinh thái và khả năng tái sinh tự nhiên của cây Sâm ngọc linh Mục tiêu là lựa chọn phương pháp nhân giống và tạo cây con phù hợp với điều kiện địa phương nhằm nhân trồng tại chỗ Chúng tôi không đề cập đến việc chọn tạo giống trong nội dung này.

Đề tài nghiên cứu tập trung vào vườn sâm trồng tại nóc Măng Lùng, xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam Nghiên cứu cũng tiến hành điều tra một số khu vực rừng tự nhiên trong xã Trà Linh, với độ cao trên 1.800m.

Nội dung nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu đề ra, đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau:

Nghiên cứu về thảm thực vật và các loài cây đi kèm trong quần thể tự nhiên tại vùng núi Ngọc Linh, nơi có sự phát triển tự nhiên của Sâm Ngọc Linh, là rất quan trọng Việc thu thập dữ liệu này giúp hiểu rõ hơn về hệ sinh thái độc đáo và sự đa dạng sinh học của khu vực.

2, Nghiên cứu đặc điểm hình thái và sinh thái cơ bản của Sâm ngọc linh. + Đặc điểm về hình thái.

+ Tính ưa ẩm và ưa bóng.

+ Môi trường đất và dinh dưỡng khoáng.

3, Tình hình sinh trưởng, phát triển và khả năng tái sinh tự nhiên.

+ Chu trình sinh trưởng và phát triển của Sâm ngọc linh trong 1 năm.

+ Mùa hoa quả và tái sinh tự nhiên dưới tán rừng.

4, Nghiên cứu tạo giống từ hạt tại vườn trồng bán tự nhiên ở xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.

+ Tiêu chuẩn cây mẹ, quả chín làm giống.

+ Làm vườn ươm và kỹ thuật gieo hạt.

5, Nghiên cứu tạo cây giống vô tính từ thân rễ (củ).

+ Tiêu chuẩn cây mẹ và khả năng tận dụng đầu mầm (khi thu hoạch củ). + Tiêu chuẩn của đoạn thân rễ (củ) làm mầm giống.

6, Sự sinh trưởng của cây mầm (từ hạt và từ đầu mầm) ở vườn ươm.

* Những khả năng tạo cây giống khác (chồi, u bướu ).

7, Chăm sóc cây con trong vườn ươm.

8, Tiêu chuẩn cây con đưa ra trồng phục vụ công tác bảo tồn và phát triển tại chỗ ở vùng núi Ngọc Linh.

+ Tuổi cây giống và thời gian lấy cây giống.

+ Bảo quản và vận chuyển cây giống.

9, Vài nét về trồng Sâm ngọc linh dưới tán rừng.

+ Thu dọn tầng thảm mục và chuẩn bị đất.

Phương pháp nghiên cứu

2.6.1 Cách tiếp cận của đề tài

Sau nhiều năm nghiên cứu và quan sát tự nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng khả năng tái sinh từ hạt của loài Sâm ngọc linh rất hạn chế Xung quanh những cây mẹ già, chỉ có một số ít cây tái sinh xuất hiện Một số cây tái sinh này có vết sẹo lớn, có thể do tác động cơ học từ cành cây gãy hoặc động vật, nhưng qua thời gian, chúng đã phát triển thành cá thể mới sau khi tách rời khỏi thân rễ ban đầu.

Khả năng tồn tại của hạt sâm Ngọc Linh trong tự nhiên gặp nhiều khó khăn do hạt dễ bị cuốn trôi trong mùa mưa Vỏ quả sâm chín có vị ngọt thu hút nhiều loài chim và thú nhỏ, trong đó có loài hoãng rất thích ăn lá sâm Những hạt còn sót lại phải trải qua thời kỳ khô hạn cuối năm, làm giảm khả năng nảy mầm Vì vậy, việc gieo hạt khi còn tươi là rất cần thiết để tăng cường tỷ lệ nảy mầm.

Vào đầu thập kỷ 80, ngành Y tế Quảng Nam đã khởi xướng việc khôi phục và phát triển Sâm ngọc linh bằng cách thu thập cây sâm tự nhiên và trồng tại Trạm dược liệu Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, với độ cao trên 1920m Đến nay, vườn đã mở rộng lên hơn 1 héc ta với gần 300.000 cây ở nhiều lứa tuổi khác nhau Tuy nhiên, sản lượng hạt giống vẫn chỉ đạt dưới 200.000 hạt/năm và tỷ lệ nảy mầm hàng năm rất không ổn định Để bảo tồn và nhân giống Sâm ngọc linh hiệu quả, cần nắm rõ các đặc điểm sinh thái của cây, như mùa hoa quả và khả năng tái sinh, nhằm thực hiện các biện pháp hợp lý để tạo ra cây con từ nguồn gen đang được bảo tồn.

Mặc dù điều kiện vật chất và trang bị tại đây còn hạn chế, với chỉ một cán bộ Trung cấp Nông nghiệp và 10 công nhân dân tộc Xê Đăng chưa qua đào tạo, các phương pháp nghiên cứu sẽ được áp dụng một cách khoa học nhưng dễ thực hiện để đạt được kết quả khả quan Ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc, nơi có truyền thống lâu đời trong việc trồng Nhân sâm và Tam thất, quy trình nhân giống thường bắt đầu từ hạt giống tươi, nghĩa là sau khi thu hoạch, hạt giống cần được gieo ngay lập tức.

Phát triển trồng sâm dưới tán rừng tự nhiên, đặc biệt tại những khu vực từng có Sâm ngọc linh mọc hoang, là lựa chọn tối ưu cho vùng sinh thái Việc thiết lập vườn giống tại chỗ và tiến hành gieo ươm hạt và đầu mầm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công của nghiên cứu.

2.6.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phương pháp kế thừa tài liệu:

Các tài liệu sau đây được đề tài kế thừa:

Thu thập tài liệu và số liệu nghiên cứu liên quan đến Sâm Ngọc Linh là rất quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực sinh thái, phân bố và tạo giống Cần chú ý đến các tài liệu về tạo giống của một số loài thuộc chi Panax từ Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên để phục vụ cho công tác nghiên cứu và phát triển giống.

+ Các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu là xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.

Phương pháp thu thập thông tin trong nghiên cứu Sâm ngọc linh tại vùng núi Ngọc Linh được thực hiện một cách chọn lọc, tập trung vào việc khai thác các nguồn thông tin sẵn có Mục tiêu là khái quát hóa và nâng cao hiểu biết về điều kiện tự nhiên và xã hội của khu vực này Quy trình điều tra dược liệu của Bộ được áp dụng để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc thu thập dữ liệu.

Y tế ban hành năm 1973 có chỉnh sửa và bổ sung [2],[4].

Phương pháp nghiên cứu sinh thái trong Sinh thái học thực vật của Dương Hữu Thời (1963) bao gồm việc điều tra và quan sát môi trường nơi Sâm ngọc linh mọc tự nhiên Nghiên cứu này so sánh sự sinh trưởng và phát triển của các lô Sâm ngọc linh trồng với độ che phủ khác nhau, từ đó mô tả đặc điểm sinh thái của đối tượng nghiên cứu.

Chúng tôi chỉ tập trung vào những khu vực rừng còn nguyên trạng, ít bị tàn phá, với độ cao từ 1.800m trở lên, vì các khu vực dưới độ cao này đã bị người dân can thiệp để làm nương rẫy.

Trong ba năm liên tiếp, chúng tôi đã thực hiện các ô thí nghiệm về gieo ươm giống, lặp lại nhiều lần để đảm bảo tính chính xác Mỗi công thức thí nghiệm được thiết kế với hơn 90 cá thể, nhằm phục vụ cho việc tính toán và xử lý số liệu sau này.

Để tạo giống từ hạt, có thể thực hiện các bước như xử lý hạt trước khi gieo, gieo hạt không qua xử lý trực tiếp, và điều chỉnh độ sâu của rãnh gieo, bao gồm gieo nông, gieo sâu hoặc gieo nổi.

+ Với giống từ đầu mầm: Đầu mầm ở những độ tuổi khác nhau (1 đốt, 2 đốt và

3 đốt); Các đoạn gốc thân (mắt) có và không có xử lý thuốc kích thích; Các u lồi, chồi

Và các lô đối chứng cho cả hai cách thức tạo giống trên.

So sánh với kết quả của những năm trước mà người dân tiến hành theo kinh nghiệm vốn có.

- Phương pháp xử lý số liệu:

+ Số liệu về tỷ lệ nảy mầm của hạt cũng như tỷ lệ sống của những đoạn thân rễ ngầm được xử lý trên phần mềm Excel.

Số liệu về sinh trưởng và phát triển của cây con trong vườn ươm đã được phân tích thông qua các công thức thí nghiệm, sử dụng phần mềm SPSS và Excel để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc đánh giá kết quả.

* Tổng hợp số liệu nghiên cứu phục vụ luận văn:

- Đã thu thập được tổng số 48 tài liệu có liên quan Bao gồm 24 tài liệu tiếng Việt và 24 tài liệu tiếng nước ngoài.

- Số liệu của 30 công thức thí nghiệm cho cả 2 biện pháp tạo giống.

Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu

Điều kiện tự nhiên

Núi Ngọc Linh, tọa lạc tại vĩ tuyến Bắc từ 15° đến 15°18' và kinh tuyến Đông từ 107°41' đến 108°01', là khối núi cao nhất Tây Nguyên và được xem là điểm cuối của dãy Trường Sơn nam Đỉnh cao nhất của núi là Ngọc Linh với độ cao 2.598m, cùng với một số đỉnh khác như Ngọc Tion (2.032m), Ngọc Lum Heo (2.030m), Ngọc Lepho (2.070m) và Ngọc Pa (2.251m).

Núi Ngọc Linh, nằm ở phía Đông và Đông Nam, giáp với tỉnh Quảng Nam, nơi có các xã Trà Cang, Trà Nam và Trà Linh thuộc huyện Nam Trà My Phía Tây của núi là tỉnh Kon Tum, bao gồm các xã Ngọc Lây, Tê Xăng và Măng.

Ri huyện Tu Mơ Rông (trước đây là huyện Đăk Tô) và các xã Ngọc Linh, Mường Hoong (huyện Đăk Glei).

Việc đốt nương làm rẫy của cộng đồng dân cư trên dải Trường Sơn, đặc biệt là khu vực núi Ngọc Linh, đã gây ra sự tàn phá nghiêm trọng cho diện tích rừng tự nhiên Nhiều người đã khai hoang đất nông nghiệp ở độ cao lên tới 2.000m, chủ yếu từ 1.700 – 2.000m, dẫn đến sự thu hẹp đáng kể của môi trường sống lý tưởng cho sự sinh trưởng của Sâm ngọc linh Nhiều khu vực từng ghi nhận sự phát triển của Sâm ngọc linh ở độ cao từ 1.500 – 1.800m hiện nay đã không còn.

Xã Trà Linh là một trong những xã vùng sâu vùng xa nhất của huyện Nam Trà

Tỉnh Quảng Nam, formerly known as huyện Trà My, nằm cách trung tâm huyện Nam Trà My 40km và thị xã Tam Kỳ 160km Khu vực này giáp với xã Trà Nam ở phía Đông, xã Trà Cang (huyện Nam Trà My) ở phía Bắc, xã Ngọc Linh và một phần nhỏ xã Mường Hoong (huyện Đắk Glei) ở phía Tây, và xã Ngọc Lây (huyện Tu Mơ Rông), tỉnh Kon Tum ở phía Nam Một vấn đề nghiêm trọng hiện nay là việc đốt nương làm rẫy, dẫn đến sự thu hẹp diện tích rừng tự nhiên.

Nóc Măng Lùng, nằm ở xã Trà Linh, là điểm cao nhất không chỉ của huyện Nam Trà My mà còn của tỉnh Quảng Nam, với độ cao gần 1.800m so với mực nước biển Vị trí này giáp ranh với tỉnh Kon Tum, bao gồm các xã Ngọc Lây, Ngọc Linh và Mường Hoong Hiện tại, khu vực này chưa có đường giao thông, khiến việc di chuyển trở nên khó khăn Tại đây, Trạm dược liệu Trà Linh đang thực hiện công tác bảo tồn và phát triển Sâm ngọc linh.

3.1.2Diện tích, địa hình và đất đai

Tổng diện tích xã Trà Linh là 6.300ha, trong đó:

Diện tích đất nông nghiệp: 148,42ha, chiếm 2,36%.

Diện tích đất lâm nghiệp: 2.962ha, chiếm 47,01%.

Diện tích đất chuyên dùng: 8,85ha, chiếm 0,14%.

Diện tích đất ở: 5ha, chiếm 0,08%.

Diện tích đất chưa sử dụng: 3.175,72ha, chiếm 50,41%.

(Nguồn: Số liệu do Phòng thống kê huyện Nam Trà My cung cấp tháng 6 năm 2003). 3.1.2.2 Địa hình, đất đai

Xã Trà Linh, tọa lạc ở sườn Đông và Đông nam của núi Ngọc Linh, sở hữu địa hình phức tạp với độ dốc lớn Nơi đây có độ cao so với mực nước biển dao động từ 1.200m đến 1.800m, với đỉnh Măng Lùng là điểm cao nhất.

Núi Ngọc Linh, kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có sườn phía Đông dốc hơn so với sườn phía Tây, nơi tiếp giáp với cao nguyên Tây Nguyên Được hình thành từ quá trình nâng trồi của đá trầm tích biển và đá granit xâm thực, khu vực này có đất với độ pH hơi chua, dao động từ 4,5 đến 5,0.

Vùng núi Ngọc Linh, nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, có khí hậu nhiệt đới núi cao với ảnh hưởng của chế độ mưa mùa ở Miền Nam Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 15°C đến 20°C, với tháng lạnh nhất có thể xuống dưới 15°C, thậm chí dưới 10°C vào ban đêm Lượng mưa chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 11, với lượng mưa trung bình ở sườn Đông từ 2.500 đến 3.500mm/năm, trong khi sườn Tây tỉnh Kon Tum có lượng mưa thấp hơn Khối núi cao và lớp phủ thực vật phong phú tạo ra hiện tượng mây mù ở độ cao trên 1.700m, với độ ẩm không khí trung bình từ 75% vào mùa khô đến 85% hoặc hơn trong mùa mưa.

Hệ thống sông suối từ Ngọc Linh rất phong phú, với ba sông chính ở sườn Tây là Đăk Mek, Đăk Pu Ko và Đăk Plo Sông Đăk Mek chảy về Bắc, hợp lưu với sông Đăk Sê và đổ ra biển Đông tại Đà Nẵng Sông Đăk Pu Ko chảy về Nam, cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Ya Ly, trong khi sông Đăk Plo chảy vào Lào, góp phần vào dòng sông Mê Kông Ở sườn Đông và Đông Nam, hai sông chính là Tranh và Leng, với sông Tranh chảy từ Nam ra Bắc, hợp lưu với sông Thu Bồn, và sông Leng là chi lưu của sông Tranh Hệ thống sông suối ở cả hai sườn thường ngắn, hẹp, dốc và có dòng chảy nhanh, với mức nước biến động lớn, đặc biệt là ở sườn Tây, gây ra lũ quét, sạt lở và khó khăn cho sản xuất nông nghiệp của người dân.

Nóc Măng Lùng, nằm trong thôn 2 của xã Trà Linh, nổi bật với khu vực vườn sâm có đến 10 con suối lớn nhỏ chảy theo hướng Đông về sông Tranh Đặc biệt, vào mùa khô, các suối này hiếm khi cạn nước.

Chủ yếu là gió mùa Đông Nam mát và ẩm, ít khi chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng (do nằm ở sườn Đông và Đông Nam).

Khí hậu thuận lợi tại khu vực này tạo điều kiện lý tưởng cho việc tạo giống và phát triển trồng Sâm ngọc linh, đặc biệt trong giai đoạn chăm sóc hạt giống sau gieo Sự khác biệt với điểm bảo tồn Sâm ngọc linh tại xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum là do nơi đây có lượng mưa, độ ẩm và thời gian khô hạn nhiều hơn, bởi vị trí nằm ở phía sườn Tây của núi Ngọc Linh.

Điều kiện kinh tế – xã hội

Trà Linh là một xã thuộc huyện Nam Trà My, nằm trong diện khó khăn và được chính phủ hỗ trợ thông qua chương trình 135 Hệ thống giao thông tại đây rất hạn chế, không có đường ô tô kết nối với trung tâm huyện, khiến việc di chuyển giữa các thôn chủ yếu phải đi bộ qua những con đường dốc và sông suối Mặc dù mật độ dân số thấp hơn so với các xã khác, nhưng xã Trà Linh chủ yếu cư trú bởi người Xê Đăng, với tỷ lệ hộ nghèo cao, lên tới hơn 50% trung bình cho toàn xã với 4 thôn.

Nóc Măng Lùng, cùng với bốn nóc khác (Lông Mu, Tăk Ngo, Con Pin I, Con Pin II), nằm trong thôn 2 xã Trà Linh, là một trong những khu vực có tỷ lệ hộ nghèo và cực nghèo thấp nhất trong toàn xã Tại đây, không có người Kinh sinh sống, 100% cư dân đều thuộc dân tộc thiểu số.

Xê Đăng là một xã nơi hơn 95% dân số là người Xê Đăng, trong khi số ít còn lại là người Kinh, chủ yếu là những người buôn bán và giáo viên tiểu học, họ đến công tác và định cư, xây dựng gia đình tại địa phương.

Bảng 3-1 Số thôn, số hộ, số khẩu, thành phần dân tộc, tỷ lệ đói nghèo của xã Trà Linh

Số thôn Số hộ Số khẩu Dân tộc chÝnh

Hộ nghèo Tỷ lệ % hộ đói nghèo Tổng số Hộ quá nghèo

Sè hé Sè khÈu Sè hé Sè khÈu

(Nguồn: Trích báo cáo của UBND huyện Trà My tháng 5 năm 2003)

Toàn xã có 1.022 người trong độ tuổi lao động, chủ yếu áp dụng phương thức canh tác khai hoang và đốt nương làm rẫy Đáng chú ý, gần 1/3 số hộ gia đình gặp khó khăn về lương thực, thiếu ăn từ 2 đến 3 tháng mỗi năm.

3.2.2Kinh tế, văn hoá, xã hội

Xã vùng sâu vùng xa này gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về giao thông khi chưa có đường đến trung tâm UBND xã Thu nhập của người dân chủ yếu phụ thuộc vào săn bắn và hái lượm các sản phẩm rừng như chim, thú, mật ong, nhưng chỉ có một số ít người tham gia Tại khu vực UBND xã, chỉ có vài hộ gia đình người Kinh sinh sống và tham gia vào hoạt động thương mại Trong khi đó, khu vực nóc Mang Lùng hoàn toàn thiếu sự thương mại, buộc người dân phải đi bộ xuống xã Trà Nam, xã Trà Don, hoặc thậm chí về trung tâm huyện Tăk Pỏ, cách đó 40km.

Phong tục tập quán của người dân tộc Xê Đăng ở Tây Nguyên rất đa dạng và đặc sắc, thể hiện qua nhiều lễ hội truyền thống hàng năm như Tết lúa mới, lúa kho, lúa thừa và lễ hội đâm trâu Tuy nhiên, ở vùng Trà Linh, lễ hội đâm trâu ít diễn ra hơn do điều kiện sống khó khăn.

Xã có một trường tiểu học duy nhất, với 1 đến 2 giáo viên phụ trách lớp 1 và lớp 2 tại mỗi nóc Tình trạng học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông rất hiếm, trong khi số lượng học sinh hoàn thành trung học cơ sở cũng thấp Một số ít học sinh được xã cử đi học nghiệp vụ để trở thành giáo viên tiểu học, giáo viên mầm non hoặc cán bộ y tế thôn bản.

Huyện Nam Trà My hiện không có đường giao thông từ trung tâm huyện đến các xã, thôn, chỉ có đường mòn và lối đi bộ qua rừng và nương rẫy Mặc dù huyện đã đầu tư xây dựng đường sau khi tách ra từ huyện Trà My, nhưng hiện tại chỉ cho phép ô tô di chuyển trong thời gian ngắn vào mùa khô Đường này vẫn cách UBND xã khoảng 2 giờ đi bộ, trong khi để đến nóc Măng Lùng cần leo dốc khoảng 3 giờ và thêm 2 giờ nữa để tới vườn sâm.

Nhận xét và đánh giá chung:

Dựa trên những phân tích tổng quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của xã Trà Linh cũng như khu vực nóc Măng Lùng, có thể rút ra một số nhận định cơ bản sau đây.

Sâm Ngọc Linh là một sản phẩm quý giá được thiên nhiên ban tặng cho dãy Trường Sơn và núi Ngọc Linh, với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng trọt và nghiên cứu tạo giống Sản phẩm này không chỉ mang lại giá trị kinh tế cho cộng đồng dân tộc tại đây, mà còn là niềm tự hào của xã Trà Linh và các vùng lân cận.

Ở độ cao trên 1.800m so với mực nước biển, khu vực này xa các khu dân cư và có rừng ít bị tàn phá, tạo điều kiện cho độ che phủ lớn Với khí hậu mát mẻ, độ ẩm cao và tầng mùn dày, nơi đây rất thuận lợi cho việc trồng Sâm Ngọc Linh, nơi mà trước đây từng có Sâm Ngọc Linh mọc tự nhiên.

- Trong vài năm trở lại đây, người dân trong toàn xã đã được tuyên truyền, học tập nâng cao nhận thức và hiểu biết về Sâm ngọc linh.

Xã Trà Linh, cùng với nhiều xã khác như Trà Cang và Trà Nam, đang đối mặt với nhiều khó khăn hơn là thuận lợi Nóc Măng Lùng, nằm ở vị trí cao nhất và xa nhất, gặp phải những thách thức nghiêm trọng về kinh tế và văn hóa xã hội Tình trạng học sinh bỏ học và thất học vẫn còn phổ biến, dẫn đến nhận thức của người dân phát triển chậm và bị ảnh hưởng bởi các hủ tục như cúng ma và xem bói.

Mặc dù diện tích đất rừng còn lớn, việc giao đất giao rừng chưa được thực hiện, dẫn đến khó khăn trong quy hoạch vùng trồng sâm Hơn nữa, thói quen du canh và việc đốt nương làm rẫy bừa bãi của người dân cũng làm tình hình trở nên phức tạp Điều này đặc biệt rõ ràng ở sườn Đông núi Ngọc Linh, nơi chưa được quy hoạch thành Khu Bảo tồn thiên nhiên như khu vực phía Kon Tum.

Trước áp lực mưu sinh, nhiều người dân địa phương đã khai thác lâm sản để trao đổi hoặc bán, đặc biệt là việc săn tìm và khai thác Sâm Ngọc Linh mọc hoang dại Hành động này đã dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn hạt giống tự nhiên, gây ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của loài cây quý giá này.

Từ năm 2002, chương trình Bảo tồn Sâm ngọc linh đã giúp nhiều hộ dân trong xã nhận từ 500 đến 1000 cây sâm giống để trồng, góp phần nâng cao đời sống và ổn định kinh tế, xã hội địa phương Nguồn cây giống được cung cấp bởi Công ty Dược và Vật tư Y tế Quảng Nam, dưới sự quản lý của KS Lê Thanh Sơn cùng các cán bộ Trạm Dược Liệu Trà Linh.

Kết quả và bàn luận

Vài nét về thảm thực vật rừng, nơi có Sâm ngọc linh mọc tự nhiên

Thảm thực vật ở vùng núi Ngọc Linh chủ yếu là rừng kín thường xanh ẩm, nhưng do đặc điểm của vùng núi cao phía nam, hệ sinh thái rừng tại đây có thể được phân chia theo các đai cao khác nhau.

Rừng kín thường xanh ở độ cao dưới 1.000m trên đất thấp đã bị tàn phá nghiêm trọng, dẫn đến sự thay thế bằng nương rẫy, thảm thứ sinh và đồi cây bụi do nương rẫy bỏ hoang trong nhiều năm.

Rừng kín thường xanh trên núi thấp có độ cao từ 1.000 đến 1.700m, nhưng hiện nay không còn nguyên sinh do khai thác chọn và canh tác nương rẫy Diện tích rừng còn lại rất hạn chế, chủ yếu nằm ở các khe núi hiểm trở hoặc đầu nguồn nước, nơi mà người dân địa phương chủ động bảo tồn.

Từ độ cao 1.700m trở lên, rừng kín thường xanh xuất hiện tại các ngọn núi trung bình, với trạng thái rừng nguyên sinh rõ rệt ở khoảng 1.800 – 1.900m Do địa hình dốc và hiểm trở, khu vực này ít bị tàn phá Cấu trúc rừng thường bao gồm ba tầng: tầng vượt tán, tầng tán và tầng cây bụi, cỏ quyệt.

Rừng nhiệt đới chứa những cây gỗ cao từ 20 đến 40 mét, thuộc hơn 20 họ thực vật khác nhau Trong số đó, họ Dẻ (Fagaceae) và họ Chè (Theaceae) nổi bật và chiếm ưu thế rõ rệt.

Các loài cây thuộc họ Du (Ulmaceae), Mộc lan (Magnoliaceae), Thông (Pinaceae) và một số cây ôn đới như chi Betula, Acer, cùng nhiều cây lá kim từ các họ Cephalotaxaceae, Podocarpaceae, đặc biệt là Thông đà lạt (Pinus dalatensis) và Sam bông (Amentotaxus poilanei), tạo nên sự đa dạng phong phú của hệ thực vật.

Ghi nhận được trên 20 họ, trong đó họ Araliaceae có tới khoảng 20 loài thuộc

8 chi như Aralia, Schefflera, Brassaiopsis Một số loài Dương xỉ đại mộc Cibotium, Cyathea và một vài loài tre, trúc.

* Tầng cây bụi, cỏ và quyết:

Ngọc Linh ghi nhận sự hiện diện của nhiều loài thực vật thuộc trên 30 họ khác nhau, trong đó có những họ có mật độ cá thể cao như Acanthaceae, Urticaceae, Melastomaceae, Rubiaceae và Poaceae Đặc biệt, loài Chàm ô rô (Strobilanthes penstemoides) thường xuất hiện tại các khu vực có sâm mọc tự nhiên Ngoài ra, một số loài dây leo thuộc họ Menispermaceae và Fabaceae cũng góp mặt trong hệ sinh thái này Tầng cây bụi và cỏ tại đây rất phong phú với nhiều loài có giá trị dược liệu Với độ ẩm cao, thực vật phụ sinh, địa y và nấm cũng phát triển mạnh mẽ tại Ngọc Linh.

Trên phía đỉnh cao có thể gặp một số loài thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae).

Những đặc điểm hình thái và sinh thái cơ bản của Sâm ngọc linh

- Tên gọi thông dụng: Sâm Ngọc Linh (SNL)

- Tên gọi khác: Sâm việt nam, Sâm khu năm (sâm K5), Thuốc dấu, Củ rơm con (Xê Đăng)…

- Tên khoa học:Panax vietnamensisHa et Grushv.,

- Họ thực vật: Ngũ gia bì - Araliaceae.

Cây dạng cỏ này có tuổi thọ nhiều năm, cao trên 1m với thân rễ nạc, đường kính từ 2-3cm, phân nhánh và thường nổi trên mặt đất Cuối thân rễ có rễ củ hình cầu, đường kính lên tới 5cm Thân mang lá có đường kính từ 0,3 – 0,6cm, nhẵn và để lại vết sẹo gần tròn khi lụi vào mùa đông Lá kép hình chân vịt, gồm 3-4 lá kép, mỗi lá có 5-7 lá chét dài 10-14cm, rộng 3-5cm, với mép lá có răng cưa và lông ở cả hai mặt Cụm hoa tán mọc ở ngọn, dài 15-30cm, vượt khỏi tán lá với đường kính 2,5 – 5cm và có thể chứa từ 50-140 hoa nhỏ màu trắng ngà hay trắng xanh, với 5 lá đài hình chuông và 5 cánh hoa hình tam giác rộng.

Quả sâm ngọc linh có hình cầu hơi dẹt, đường kính từ 0,6-1,0cm, với vòi nhuỵ tồn tại và khi chín có màu đỏ tươi, thường xuất hiện chấm đen không đều ở đỉnh quả Hạt của quả này có 1 hoặc 2, màu trắng hoặc trắng ngà, kích thước dài 6-7mm, rộng 5-6mm, dày 2mm, với bề mặt ráp và nhiều chỗ lồi lõm.

Sâm ngọc linh có nhiều đặc điểm hình thái bên ngoài tương đồng với Sâm nhật (Panax japonicus), như hình dạng lá, cuống cụm hoa và cụm quả dài Quả của Sâm ngọc linh khi chín thường xuất hiện các đốm đen ở đỉnh, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hai loài này trong một số tài liệu.

Nghiên cứu chi tiết về đặc điểm và số lượng hoa trên mỗi cụm hoa, cùng với các kết quả phân tích thành phần hóa học và dữ liệu ADN, đã khẳng định Sâm Ngọc Linh là một loài độc lập và riêng rẽ.

Sau nhiều năm điều tra, quan sát và thu thập dữ liệu về Sâm ngọc linh, chúng tôi đã nghiên cứu cả việc trồng loại cây này dưới tán rừng tự nhiên Qua đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét quan trọng về đặc điểm sinh thái của Sâm ngọc linh.

Sâm ngọc linh chỉ được phát hiện tại cao nguyên Trung phần, với điểm phân bố quan trọng nhất là núi Ngọc Linh, bao gồm các xã Tê Xăng, Măng Ri (huyện Tu Mơ Rông), Mường Hoong, Ngọc Linh (huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum), và Trà Cang, Trà Linh, Trà Nam (huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam) Gần đây, vào tháng 8 năm 2006, một số phương tiện truyền thông đã đưa tin về việc phát hiện Sâm ngọc linh mọc tự nhiên tại Thôn 6, xã Phước Lộc, huyện Phước Sơn, ở độ cao trên 1.600m, thuộc núi Ngọc Lum Heo Tuy nhiên, khu vực này đã bị khai thác ngay sau đó.

Cây sâm do Phạm Hoàng Hộ phát hiện ở núi Lang Bian, tỉnh Lâm Đồng vào năm 1970 được gọi là SNL Mặc dù vậy, sâm ngọc linh vẫn được xem là loài đặc hữu hẹp của miền Trung Việt Nam.

SNL đã được phát hiện ở ba vùng núi khác nhau, chủ yếu thuộc hai điểm phân bố chính là dãy Ngọc Linh và Lang Bian, với độ cao trên 1.500m Cây SNL mọc tự nhiên ở độ cao từ 1.800 đến 2.200m, dưới quần xã rừng lá rộng kín thường xanh, nơi có độ che phủ từ 75 đến 100% Các quần thể thực vật tại đây còn nguyên sinh, chưa bị tác động bởi khai thác Môi trường rừng ẩm mát ở độ cao trên 1.500m tạo điều kiện lý tưởng cho sự sinh trưởng và phát triển của SNL trong nhiều năm qua.

4.2.2.2 Tính ưa ẩm và ưa bóng

Cây Sâm Ngọc Linh đặc biệt ưa ẩm và bóng, thường mọc tự nhiên dưới tán rừng ẩm ở độ cao từ 1.800 – 2.200m, có thể xuất hiện ở độ cao từ 1.500m trước năm 1985 Loại cây này thường mọc đơn lẻ hoặc thành từng đám nhỏ với nhiều cá thể ở các lứa tuổi khác nhau, trên đất nhiều mùn hoặc trong các hốc có mùn Tính ưa bóng của Sâm Ngọc Linh được chứng minh qua các khu vực còn sót lại, nơi độ tàn che của rừng thường trên 90% Tất cả các điểm phát hiện Sâm Ngọc Linh đều có tầng mùn hữu cơ dày từ 20 – 40cm Độ ẩm không khí trung bình vào mùa khô khoảng 75%, trong khi mùa mưa thường ở mức bão hòa, và rừng Ngọc Linh thường xuyên có sương mù bao phủ.

Sâm ngọc linh phát triển tốt nhất ở độ cao trên 1.800m, đặc biệt tại Trà Linh (1.920m) và Măng Ri (1.880m), nơi có độ che phủ tán rừng từ 75 – 90% Khi độ che phủ giảm xuống còn 40 – 50%, hơn 90% cây sâm sẽ bị vàng lá và nhiễm bệnh đốm lá, gây ra hiện tượng thủng lá do ánh sáng trực tiếp mạnh vào buổi trưa Phương pháp trồng sâm bán tự nhiên, khi toàn bộ lớp phủ thực bì được dọn sạch, làm giảm độ che phủ và tăng cường độ chiếu sáng cũng như lượng bốc hơi nước, dẫn đến khả năng ra hoa và kết quả kém hơn.

Từ năm 1995 đến 2000, tỉnh Quảng Nam và Kon Tum đã triển khai trồng Sâm Ngọc Linh dưới dàn mái che theo mô hình sản xuất Tam thất của Trung Quốc và Hàn Quốc Tuy nhiên, sau 5 năm, các điểm trồng này không đạt kết quả mong muốn và đã bị xóa bỏ vào năm 2000 Nguyên nhân thất bại chủ yếu là do thiếu hiểu biết về đặc điểm sinh thái của cây, đặc biệt là vị trí đặt vườn Mặc dù ở độ cao gần 1.600m, nhưng khu vực xung quanh lại quá trống trải, dẫn đến lượng bốc hơi nước cao hơn độ ẩm không khí Hơn nữa, dàn mái che không đảm bảo độ tán che và khả năng giữ ẩm, trong khi đất trồng lại không phải là đất mùn tự nhiên, gây thiếu dinh dưỡng cho cây Kết quả là cây bị vàng lá, sau đó 100% cây bị đốm lá, dẫn đến tàn lụi sớm và ít ra hoa.

Tóm lại, việc quan sát các điểm còn sót lại của Sâm ngọc linh trong tự nhiên và những khu vực trồng bán tự nhiên thành công tại hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum cho thấy sự quan trọng của việc bảo tồn và phát triển loại cây quý này.

+ SNL sinh trưởng phát triển tốt dưới tán rừng cây lá rộng thường xanh, độ tán che trên 80%.

+ Môi trường ở đây thường xuyên ẩm ướt và tương đối kín gió.

4.2.2.3 Môi trường đất và dinh dưỡng khoáng ởtất cả những điểm ghi nhận có SNL mọc tự nhiên trên núi Ngọc Linh, chúng tôi nhận thấy rằng chúng có điểm khá giống nhau về môi trường đất Đó là đất ẩm và có tầng mùn hữu cơ dày; rừng tại những khu vực này còn gần như nguyên trạng với tầng thảm mục thường từ 30 – 40 cm, có nơi đến 60-80cm (phía tỉnh Kon Tum). Lớp mùn này là do cành lá cây rừng khô rụng xuống, tích tụ lâu ngày, phân huỷ thành các chất hữu cơ, là nguồn dinh dưỡng cung cấp cho SNL Cũng vì sự giống nhau này mà các cây chỉ thị, đi kèm trong quần thể có SNL cũng giống nhau (đã trình bày ở phần 4.1). Độ pH của đất hơi chua, thường từ 4,96 (xã Trà Linh) đến 5,07 (xã Trà Cang). Đặc biệt là các chỉ tiêu về hàm lượng chất hữu cơ (mùn) cũng như của các nguyên tố vi lượng: Zn, Fe, Mn đều rất cao Kết quả phân tích mẫu đất ở một số điểm ghi nhận có SNL mọc tự nhiên trước đây của Phòng nghiên cứu môi trường đất - Viện Thổ nhưỡng Nông hoá cũng cho thấy rõ điều này (Bảng 4-1) (Xem chi tiết ở phần phô lôc 3).

Bảng 4-1 Kết quả phân tích mẫu đất ở Ngọc Linh

Các chỉ tiêu/Điểm thu mẫu Xã Trà Linh Xã Trà Cang Xã Trà Nam pH KCl 4,96 5,07 3,70

(Nguồn: Sở Y tế Quảng Nam cung cấp ngày 13/05/2004)

Kết quả phân tích đất cho thấy những đặc điểm nổi bật như giàu chất dinh dưỡng hữu cơ, hàm lượng cao của một số nguyên tố vi lượng, và độ pH thường hơi chua, mặc dù chưa hoàn toàn đại diện.

Tình hình sinh trưởng, phát triển và tái sinh tự nhiên của Sâm ngọc linh

Qua nhiều năm quan sát các cá thể sâm còn sót lại trong tự nhiên và những điểm trồng sâm bán tự nhiên tại núi Ngọc Linh, chúng tôi nhận thấy chu trình sinh trưởng, phát triển cũng như quá trình ra hoa kết quả của cây mọc tự nhiên và cây trồng bán tự nhiên hoàn toàn giống nhau Các quá trình này được mô tả cụ thể trong nghiên cứu của chúng tôi.

4.3.1Chu trình sinh trưởng phát triển hàng năm

Cây SNL trưởng thành (đối với cây mọc tự nhiên cũng như được trồng) sau 3 năm tuổi đều bắt đầu chu trình sinh trưởng hàng năm như sau:

Từ tháng 1 đến tháng 3, chồi thân của cây bắt đầu mọc lên khỏi mặt đất, và sau 1-2 tháng, lá non gần đạt độ trưởng thành Mặc dù là mùa khô ở Ngọc Linh, nhưng do cây mọc dưới tán rừng và có mây mù, độ ẩm không khí vẫn cao Chồi thân sinh trưởng nhanh, có thể cao từ 15-25 cm chỉ trong một tháng, đồng thời cây cũng phát triển lá non và xuất hiện chồi nụ ở đỉnh sinh trưởng.

Từ tháng 4 đến tháng 5, cây bắt đầu nở hoa sau khoảng 2 tháng kể từ khi mọc lên, nhưng nếu thời tiết mưa sớm, cây có thể nở hoa vào cuối tháng 3 Mỗi thân cây thường chỉ có một tán hoa, mặc dù có thể có thêm 1 hoặc 2 tán phụ nhỏ không đậu quả Tán hoa chỉ xuất hiện ở những cây có ít nhất 3 lá kép, trong khi đó, thân và lá vẫn tiếp tục phát triển cho đến khi đạt kích thước trưởng thành.

Giai đoạn quả xanh kéo dài từ 3 đến 4 tháng sau khi thụ phấn, kết thúc vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8 Thời điểm quả chín rộ nhất là vào tháng 8, tuy nhiên, một số cây có thể cho quả chín muộn đến tháng 10.

Khi quả chín, vỏ quả chuyển từ màu xanh sang vàng lục rồi đỏ cam với chấm đen xuất hiện ở đỉnh quả (ảnh 4-3).

Từ tháng 10 đến tháng 12 hàng năm, sau mùa quả chín, lá cây bắt đầu vàng úa và toàn bộ phần trên mặt đất tàn lụi Cây trong vườn ươm (cây 1 năm tuổi) có thể lụi sớm hơn nếu thời tiết mưa nhiều, trong khi cây trồng 2-4 năm tuổi có tỷ lệ tàn lụi từ 70-90% Đối với cây trên 5 tuổi, tỷ lệ này thấp hơn, khoảng 50-60% Trong quá trình tàn lụi, từ đầu mầm thân rễ nằm sát mặt đất sẽ hình thành một chồi thân mới, các chồi này tồn tại dưới dạng chồi ngủ trong suốt 3 tháng.

Cây Sâm ngọc linh trải qua 4 tháng mùa đông và sẽ tiếp tục sinh trưởng vào mùa xuân năm sau Thân khí sinh của cây có thể tồn tại đến 3 năm, nhưng chỉ ra hoa một lần trong năm đầu tiên Trong 2 năm đầu, cây nảy mầm từ hạt chỉ có 1 lá kép với 5 lá chét, và đến năm thứ 3, số lá kép tăng lên, thường là 2, trong khi năm thứ 4 cây đạt độ trưởng thành với 3-5 lá kép Đồng thời, phần thân rễ dưới đất cũng phát triển về chiều dài và đường kính, mỗi năm tăng thêm khoảng 1-2cm nếu không bị tổn thương Khi phần thân mang lá lụi đi, nó để lại vết sẹo trên thân rễ, mỗi đốt có khả năng nảy mầm thành thân khí sinh mới, từ đó có thể xác định tuổi của cây Sâm.

4.3.2Sự ra hoa kết quả và tái sinh tự nhiên

Cây SNL thường ra hoa hàng năm, nhưng thường phải đợi đến năm thứ 3 sau khi gieo hạt (tự nhiên hoặc trồng) mới bắt đầu có hoa lứa đầu tiên Tỷ lệ cây ra hoa và số lượng hoa trên mỗi tán tăng dần theo độ tuổi của cây Quá trình ra hoa và kết quả của SNL diễn ra theo từng giai đoạn cụ thể.

Hoa SNL nở từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5, rộ nhất vào giữa tháng 4, thường nở vào buổi sáng từ 9-10 giờ khi nhiệt độ ấm dần (18-20°C, độ ẩm 80-90%) Thời điểm này cũng là lúc thụ phấn diễn ra nhờ gió hoặc côn trùng Hoa nở từ ngoài vào trong và quá trình nở kéo dài từ 5-7 ngày Tại Ngọc Linh, mùa khô thuận lợi cho việc thụ phấn, trong khi ở Quảng Nam, hoa nở sớm hơn do thời tiết ẩm ướt hơn Tỷ lệ hoa đậu quả dao động từ 17,57% (cây 3 tuổi) đến 56,01% (cây 7 tuổi) Sau khi thụ phấn, quả SNL phát triển và đạt kích thước trưởng thành sau khoảng 2 tháng, với quả chín vào tháng 7 và chín rộ vào tháng 8 Khi chín, vỏ quả chuyển từ xanh sang vàng cam rồi đỏ, với đốm đen xuất hiện ở đầu quả, và quả có thể tồn tại trên cây từ 10 đến 15 ngày.

Nghiên cứu trong quần thể SNL trồng bán tự nhiên ở Trại sâm (nóc Măng Lùng, huyện Nam Trà My) chúng tôi thu được một số dẫn liệu sau:

Quả không có chấm đen: 1,2%

Trọng lượng trung bình 46,364g/1000 hạt khô (Phụ lục 4.1)

Mức độ ra hoa và kết quả của cây phụ thuộc vào độ tuổi, thường tăng dần từ năm thứ 3 đến năm thứ 7 đối với cây trồng từ đầu mầm, sau đó hầu như không có sự gia tăng.

Mức độ ra hoa kết quả của Sâm ngọc linh (cây trồng từ đầu mầm thân rễ) tại Trà Linh như sau (Bảng 4-2) :

Bảng 4-2 Tình hình ra hoa kết quả của Sâm ngọc linh

TT Tuổi/ năm trồng Tỷ lệ cây cã hoa (%)

Tỷ lệ cây có quả (%)

(Nguồn: Số liệu đo năm 2002- Xem chi tiết phần phụ lục4.2 và 4.3)

Dữ liệu cho thấy, việc sử dụng vườn giống từ cây mẹ trồng từ đầu mầm thân rễ mang lại hiệu quả cao, với trung bình 10 quả/cây sau 3 năm Sau 7 năm, khả năng ra hoa và kết quả rất tốt, với 62,51% số cây có hoa Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự đồng đều giữa các cây giống có thể không cao, với chiều cao từ 2 đến 4 đốt.

Tuy nhiên, do tỷ lệ hạt lép thường cao từ 16 – 20% nên số hạt giống đạt tiêu chuẩn gieo giống cũng ít hơn.

Khi quả chín rụng xuống đất, nếu không bị mưa lũ hay động vật ăn mất, phần thịt quả sẽ thối rữa sau khoảng 1 tháng Các hạt giống nằm trong thảm mục có thể nảy mầm vào mùa xuân năm sau, tạo thành những đám SNL với nhiều lứa tuổi khác nhau dưới tán rừng, đây là hình thức tái sinh tự nhiên quan trọng Ngoài ra, một số loài chim và động vật nhỏ khi ăn quả chín sẽ phát tán hạt giống đến nhiều vị trí khác nhau trong rừng, như trường hợp chúng tôi ghi nhận ở độ cao trên 1.800m gần khu trồng sâm tỉnh Kon Tum, nơi có một cá thể mọc trong hốc cây gỗ lớn đã chết lâu năm Quá trình này không chỉ giúp tái sinh mà còn mở rộng phạm vi phân bố tự nhiên của SNL.

Tỷ lệ tái sinh hạt tự nhiên của SNL rất thấp do nhiều yếu tố khách quan, bao gồm sự tấn công của côn trùng và động vật ăn quả, mưa lũ cuốn trôi hạt giống, và điều kiện khô hạn trong mùa khô tại miền Trung.

Bên cạnh hình thức tái sinh từ hạt kể trên SNL còn có khả năng tái sinh từ phần đầu mầm hay đoạn thân rễ (củ).

Trong quá trình điều tra tại núi Ngọc Linh, chúng tôi đã quan sát thấy rằng một số phần đầu mầm thân rễ hoặc thân rễ bị gãy hoặc thối vẫn có khả năng mọc chồi mới, cho phép tái sinh thành cây mới.

Hình thức tái sinh dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp sinh vật nuôi sống (SNL) tồn tại và phát triển tốt hơn trong môi trường tự nhiên, bên cạnh hình thức tái sinh từ hạt.

Sâm ngọc linh có khả năng tái sinh mạnh mẽ từ thân rễ, điều này được tận dụng để nhân giống hiệu quả qua việc tạo giống từ thân rễ ngầm hoặc đầu mầm Trong tự nhiên và các vườn trồng, chúng tôi đã quan sát thấy nhiều cây Sâm ngọc linh phát triển với từ 3 đến 5 thân mang lá.

Kết quả nghiên cứu nhân giống từ hạt

4.4.1Tiêu chuẩn quả chín để lấy hạt giống

Từ tháng 7 đến tháng 9 là thời điểm quả Sâm ngọc linh chín, với mùa chín rộ diễn ra từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 8 tại xã Trà Linh Mặc dù phần lớn quả chín trong khoảng thời gian này, vẫn có một số cá thể chín muộn và xuất hiện rải rác vào các tháng sau, chiếm dưới 10%.

Quả được coi là chín khi vỏ có màu đỏ tươi hoặc đỏ thẫm, quá trình chín thường kéo dài từ 5-7 ngày Sau khi chín, quả có thể tồn tại trên cây trong một khoảng thời gian khá dài, khoảng 15 ngày.

Trong thời gian 20 ngày trước khi thu hoạch, nếu thời tiết có mưa nhiều và mưa lớn, quả sẽ dễ bị rụng sớm Điều này cần được lưu ý để đảm bảo hiệu quả trong việc xử lý và gieo giống khi thu hoạch quả chín.

Vào mùa mưa, chúng tôi thu gom quả hàng ngày, vì trên mỗi cụm quả, quả chín từ ngoài vào Do đó, mỗi chùm quả thường cần thu từ 2 đến 3 đợt mới hết Quả có thể thu khi chín sinh lý, với vỏ màu vàng đậm hoặc mới chuyển sang màu đỏ, nhưng sau khi thu về, cần ủ thêm để đạt chất lượng tốt nhất.

Để đảm bảo quả chín đều trước khi xử lý gieo, cần chờ từ 2 đến 3 ngày Tuy nhiên, trong quá trình thu hoạch, người thu quả cần kiên trì và chính xác, tránh thói quen thu cả chùm khi chỉ một vài quả chín, vì điều này có thể dẫn đến việc thu lẫn quả chưa chín hoặc quả kém chất lượng Đặc biệt, ngay từ khi quả non hình thành, toàn bộ cụm quả cần được bảo vệ bằng giỏ hoặc lồng, có thể làm từ tre hoặc sắt, nhằm bảo vệ quả khỏi chim và thú nhỏ, nhất là khi quả bắt đầu chín.

4.4.2 Cách xử lý hạt trước khi gieo

Trước khi xử lý quả được phân loại ra như sau:

Quả loại I: Vỏ quả có màu đỏ tươi hoặc đỏ thẫm, quả căng, mọng.

Quả loại II: Vỏ quả có màu vàng hoặc nâu đỏ, quả căng, dày

Thông thường đối với quả loại I, có thể đem xử lý và gieo ngay, quả loại II cần có thời gian ủ từ 2 đến

3 ngày cho đạt độ chín và chín đều mới đem xử lý tiếp (ảnh 4-5). ảnh 4-6 Hạt loại 2 sau khi được ủ từ 2-3 ngày cho chín đều

Có hai cách xử lý hạt trước khi gieo như sau:

Cách 1: Sau khi ủ cho quả chín đều, gieo cả quả (ảnh 4-6).

Cách 2: Đãi bỏ lớp vỏ và thịt quả, loại bớt quả (hạt) nổi trước khi gieo(ảnh 4-7). ảnh 4-7 Hạt giống sau khi được đãi vỏ

Sau nhiều năm nghiên cứu và so sánh hai hình thức xử lý hạt với cùng chất lượng quả giống nhau (quả loại 1), chúng tôi đã thu được những kết quả đáng chú ý (Bảng 4-3).

Bảng 4-3 Kết quả các thí nghiệm gieo hạt

Loại quả (hạt) Biện pháp xử lý Tỷ lệ nảy mầm(%) Ghi chú

I (quả) Thu về gieo ngay 91,21 Để sau 1 ngày mới gieo 91,67 Để sau 30 ngày 31,66

I (hạt) Đãi xong gieo ngay 91,82 Đãi xong phơi ráo 94,24 Sau 1-2 ngày Để sau 30 ngày 0

II (quả) Thu xong gieo ngay 89,77 ủ cho tới chín đỏ 91,48 Sau 2-3 ngày Để phơi 1 ngày 91,15

Do công nhân tự thu

(lẫn quả xanh) Thu xong gieo ngay 57,70 Lô đối chứng ủthêm 2 ngày rồi gieo 60,01 Lô đối chứng

Số liệu trên được tổng hợp từ kết quả gieo của 3 năm liên tục (từ 2001 đến

2003) Mỗi công thức thí nghiệm được lặp lại 5 lần, mỗi lần 65 quả hoặc 90 hạt.

Để đãi bỏ lớp vỏ quả, chúng tôi thường sử dụng lưới nilon và trà xát quả bên trong, vì thao tác này khó hơn so với việc đãi hạt giống khác Sau khi đãi, chúng tôi loại bỏ hạt lép và hạt nổi, chỉ giữ lại hạt ch×m.

Người dân địa phương và công nhân tại Măng Lùng đã áp dụng phương pháp xử lý đặc biệt bằng cách trộn quả với tro bếp hoặc cát ở suối Họ trà qua để làm giập phần vỏ quả trước khi tiến hành gieo trồng.

Sau nhiều năm thử nghiệm, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ nảy mầm giữa phương pháp gieo thẳng (có hoặc không bóp nát quả chín) và phương pháp đãi hạt trước khi gieo không chênh lệch nhiều (91,21% so với 94,24%) Hơn nữa, thao tác đãi hạt rất khó khăn, vì vậy chúng tôi khuyến cáo không nên đãi bỏ vỏ trước khi gieo Phương pháp này không chỉ phù hợp mà còn tiết kiệm công sức cho người lao động địa phương, đặc biệt trong việc trồng Sâm ngọc linh.

Việc đãi hạt chỉ khả thi với hạt loại I, trong khi hạt loại II rất khó đãi ngay sau khi trà vỏ, và việc đãi sau khi ủ chín đều cũng gặp khó khăn do quả không còn mọng nước Thực tế, chúng tôi đã thử nghiệm nhưng không thành công và còn làm tổn thương hạt Hạt chỉ có thể đãi sau khi ngâm trong nước từ 1 đến 2 ngày, nhưng phương pháp này không mang lại lợi ích Để làm ráo quả, hạt cần được phơi trong bóng râm, thường là trên các vật dụng đơn giản như giá, nia, nhằm đảm bảo khoảng cách giữa các cây mầm trong vườn ươm sau này.

Tỷ lệ nảy mầm giữa quả loại 1 và loại 2 không có sự khác biệt đáng kể, dù được xử lý theo nhiều phương pháp khác nhau Vì vậy, trong sản xuất quy mô lớn, có thể thu hoạch cả quả loại I và loại II, sau đó ủ trong 1 đến 2 ngày trước khi xử lý và gieo.

Thời gian nảy mầm của hạt loại I và loại II gần như tương đương Trong lô đối chứng, nơi quả được thu hoạch tự nhiên bởi công nhân, chúng tôi không phân loại mà gieo ngay hoặc ủ thêm vài ngày, dẫn đến việc tỷ lệ nảy mầm thấp hơn do bao gồm cả hai loại hạt và nhiều quả còn xanh (Bảng 4-3) Điều này giải thích tại sao trước năm 2000, sản xuất cây giống và tỷ lệ nảy mầm tại Trạm dược liệu Trà Linh chỉ đạt mức rất thấp.

Trong mùa mưa, khi thu hoạch quả chín, cần chú ý rằng vỏ quả có nhiều đường, nếu không gieo ngay sẽ dễ bị mốc đen và thối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng nảy mầm của hạt Tại chốt sâm ở xã Măng Ri, tỉnh Kon, việc này cần được lưu ý để đảm bảo chất lượng hạt giống.

Do lượng hạt giống thu được quá ít, công nhân thường chờ từ 1-2 tuần để gom đủ 1.000 quả mới đem gieo Tuy nhiên, khi gieo, quả đã bị mốc đen Năm 2001, chỉ thu được 3.750 cây từ 13.400 quả đem gieo.

4.4.3Làm vườn ươm và kỹ thuật gieo hạt

Trước khi gieo hạt, việc chuẩn bị vườn ươm là rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự thành công trong việc tạo giống Quy trình làm vườn ươm thường bao gồm các bước cần thiết để đảm bảo hiệu quả tối ưu.

Kết quả nghiên cứu nhân giống từ một phần thân rễ (củ)

4.5.1Nghiên cứu nhân giống từ đầu mầm thân rễ

Nhân giống Sâm ngọc linh bằng thân rễ ngầm bắt nguồn từ thực tiễn thu hái của người dân địa phương, khi họ làm gãy phần trên củ và vùi lại phần dưới trong rừng, dẫn đến việc cây vẫn tiếp tục mọc Giai đoạn đầu thu thập cây từ tự nhiên để trồng tại Vườn bảo tồn sâm Trạm Dược liệu Trà Linh cũng tương tự, khi công nhân địa phương bẻ bớt củ lớn để làm thuốc và vùi phần còn lại vào các hốc đá có mùn hoặc trên luống để nhân giống Phương pháp này đã được mô tả bởi Ds Nguyễn Thới Nhâm và Ds Phan Văn Đệ.

Mỗi mắt (sẹo) của phần thân rễ Sâm ngọc linh có khả năng sản sinh chồi thân mang lá mới trong mùa sinh trưởng tiếp theo Qua quan sát từ năm 2001 đến 2003, chúng tôi nhận thấy rằng củ từ 2 đến 3 tuổi, nếu bị tổn thương nặng như loét hay gãy đầu mầm, sẽ khó có khả năng phát triển thân lá mới ngay trong mùa sinh trưởng năm sau do mất đi đỉnh sinh trưởng Tuy nhiên, vào năm sau đó, củ vẫn có khả năng nảy mầm.

Trong tự nhiên, cây lâu năm (từ 5 tuổi trở lên) có thể gặp phải những tác động làm hỏng đỉnh sinh trưởng Điều này dẫn đến việc vào mùa sinh trưởng năm sau, chồi mới sẽ phát triển từ những mắt (sẹo lồi) cũ.

Vào năm 2001, tại vườn sâm tỉnh Quảng Nam, sau khi thu hoạch củ, công nhân đã để lại phần đầu mầm để trồng lại Chúng tôi đã chọn lọc và chia số đầu mầm này thành hai nhóm: nhóm 1 có một đốt và nhóm 2 có từ 2-3 đốt Sau đó, các đầu mầm được trộn với tro bếp và đem giâm trong vườn ươm, với kết quả được ghi lại trong bảng 4-4.

Như vậy khả năng mọc chồi thân ở loại giống gồm từ 2 đến 3 đốt tốt hơn nhiều so với loại giống chỉ có duy nhất 1 đốt (41,71% so với 81,30%).

Hiện tại, chúng tôi đang áp dụng phương pháp xử lý vết cắt bằng cách chấm vào tro bếp, dựa trên kinh nghiệm của một số người dân và công nhân tại Trạm dược liệu Trà Linh.

Bảng 4-4 Kết quả thí nghiệm ươm giống từ đầu mầm

Loại mầm ươm Số mầm ươm Số cây mọc chồi năm 2002/Tỷ lệ % Số cây mọc chồi đến năm 2003/Tỷ lệ % Ghi chú

Trong năm đầu tiên, cây mầm thường khó có thể trồng ngay mà cần giữ lại trong vườn ươm thêm một năm nữa Có đến 26,05% cây sẽ phát triển vào năm sau (loại 1 đốt) và 14,13% cây (loại 2 – 3 đốt) Điều này khẳng định tầm quan trọng của việc lựa chọn đầu mầm làm giống để đảm bảo sự phát triển bền vững.

Năm 2002, chúng tôi đã lặp lại thí nghiệm với sự lựa chọn vật liệu làm giống đồng đều hơn bằng cách chọn cây mẹ có đường kính trên 1,5cm từ lô cây trồng năm 1997 Sau khi xử lý vết cắt bằng cách chấm vào tro bếp, chúng tôi đã giâm cây trong vườn ươm và theo dõi trong 2 năm liên tục, kết quả được ghi lại trong bảng 4-5.

Bảng 4-5 Kết quả ươm giống từ các đầu mầm qua 2 năm theo dõi

TT Loại giống Số lượng Thành cây/Tỷ lệ %

1 1 đốt 150 47 (31,33) 82 (54,66) Ươm ngày 20/7/2002; kiểm tra ngày 15/7/2003 và 20/7/2004

Để tăng khả năng tạo thành cây con trong năm sau, cần để lại phần đầu mầm từ 3 đến 4 đốt sau khi thu hoạch củ bên dưới Điều này giúp đạt tỷ lệ thành công lên đến 100%.

Việc theo dõi trong 2 năm liên tục là cần thiết vì loại đầu mầm chỉ có 1 hoặc 2 đốt, và do vết thương quá lớn, cây có thể không mọc chồi ngay trong năm đầu tiên Sau khi thu hoạch củ bên dưới, cần để lại từ 3-4 đốt để làm giống.

Tỷ lệ tạo giống thấp ở loại giống 1 đốt (1 mắt) chủ yếu do vết thương lớn, kết hợp với đất mùn ẩm dẫn đến phần củ còn lại dễ bị thối và không có khả năng phục hồi.

Trước đây, người dân địa phương và công nhân tại Trạm dược liệu Trà Linh thường bẻ củ bằng tay ngay sau khi thu hoạch, dẫn đến vết thương lớn và làm hỏng phần giống còn lại Việc không xử lý vết thương này đã góp phần khiến nhiều đầu mầm bị thối và giảm hiệu suất nảy mầm.

Một số người dân địa phương đã áp dụng kinh nghiệm xử lý vết cắt bằng nước tỏi, cụ thể là ngâm toàn bộ phần đầu mầm trong nước tỏi trong 1 giờ Chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm để kiểm chứng phương pháp này với số lượng đầu mầm hạn chế, chỉ lặp lại 3 lần với 30 cá thể cho mỗi thí nghiệm Thí nghiệm được thực hiện vào năm 2001, cắt chừa lại 2 đốt thân rễ và trồng trực tiếp lên luống mà không qua giai đoạn vườn ươm Kết quả chi tiết được ghi trong bảng 4-6 (Phụ lục 4.4).

Bảng 4-6 Kết quả các thí nghiệm có xử lý vết cắt đầu mầm

TN Cách xử lý Số đầu mầm Tỷ lệ mọc (%) Ghi chú

I Ngâm nước tỏi 90 70 (77,78) Ươm ngày

II Chấm vào tro bếp 90 78 (86,67)

Mặc dù thí nghiệm này mới chỉ được tiến hành duy nhất một lần trong năm

Nghiên cứu năm 2001 cho thấy, việc xử lý vết cắt bằng cách chấm vào tro bếp có hiệu quả cao hơn so với ngâm trong nước tỏi, với tỷ lệ thành công đạt 86,67% so với 77,78% của nước tỏi Cả hai phương pháp này đều cho tỷ lệ mọc cao hơn so với việc không xử lý vết cắt, chỉ đạt 74,44%.

4.5.2Khả năng nhân giống khác

Phần củ của SNL, còn gọi là thân rễ, thường kéo dài theo hướng nằm ngang Đầu mầm thân rễ có chồi ngủ hoặc mọc thành thân mang lá, với khả năng tái sinh tốt Phần cuối của củ có hình con quay, màu trắng hoặc trắng ngà, phát triển từ rễ mầm đầu tiên và gần như không có khả năng nảy chồi Phần giữa bao gồm các đốt, số lượng đốt tùy thuộc vào tuổi của củ.

Năm 2004, chúng tôi tiến hành thử nghiệm tạo giống từ thân rễ bằng cách chọn những cây nhiều tuổi có từ 7 đốt trở lên, loại bỏ phần đầu và đuôi, sau đó cắt thành từng đoạn chỉ còn một đốt thân Các đoạn này được chấm vào chất kích thích sinh trưởng Ausin và ươm trong vườn ươm trong 2 năm Kết quả cho thấy trong năm đầu tiên đã có 52 cây mọc, đạt tỷ lệ 17,33%, và sang năm thứ 2, tổng số cây mọc đã lên tới 186 cây, chiếm tỷ lệ 62% Số liệu chi tiết được ghi trong bảng 4-7.

Bảng 4-7 Kết quả thí nghiệm tạo giống từ đầu mầm có sử dụng thuốc

STT Năm theo dõi Số lượng Lên mầm(%) Ghi chú

4 Đối chứng 50 11(22,00) Kiểm tra ngày 13/4/2006

Chăm sóc và bảo vệ cây con ở vườn ươm

4.6.1Chăm sóc cây con ở vườn ươm

Vườn ươm SNL tọa lạc dưới tán rừng tự nhiên ở độ cao trên 1.800m tại nóc Măng Lùng, nơi từng có nhiều sâm mọc Điều này tạo ra lợi thế lớn trong việc chăm sóc SNL, vì vườn ươm được đặt tại khu vực có điều kiện sinh thái nguyên thủy, phù hợp với sự phát triển của loại cây này.

Trạm dược liệu Trà Linh, nằm sâu trong rừng và xa khu dân cư, gặp khó khăn trong việc vận chuyển phân bón, do đó mùn núi được sử dụng thay thế Tại vườn ươm, mùn núi được bón ngay từ khi làm đất bằng cách trộn đều vào luống ươm hoặc bón lót Trong quá trình gieo hạt, mùn núi cũng được sử dụng để lấp hạt sau khi gieo Như vậy, việc gieo hạt và giâm mầm giống SNL chủ yếu diễn ra trên nền mùn núi, nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng cho sự sinh trưởng và phát triển của cây giống.

Mùn núi không được sử dụng để bón thúc hoặc bón bổ sung cho cây con trong vườn ươm, vì cây mọc dày khiến việc đưa mùn vào gốc cây trở nên khó khăn.

Việc làm cỏ trong vườn ươm rất quan trọng để hạn chế sự xâm lấn của cỏ dại, đặc biệt khi đã được phủ luống bằng cỏ tranh Cần thường xuyên theo dõi và nhổ bỏ cỏ hoặc cây bụi bằng tay ngay sau khi gieo hạt Đồng thời, cần nhặt bỏ hạt của các cây gỗ tầng trên rụng xuống để tránh ảnh hưởng đến sự phát triển của cây sâm con Tất cả các thao tác vệ sinh trong vườn ươm nên được thực hiện bằng tay để đảm bảo an toàn cho cây giống.

Trong mùa khô, lượng cành khô và lá cây rừng rụng nhiều có thể gây ảnh hưởng đến cây mầm Để khắc phục tình trạng này, nên sử dụng lưới hoặc phên che trên mặt luống, đồng thời cần thường xuyên dọn dẹp rác thải để bảo vệ cây trồng.

Tưới nước cho cây giống chủ yếu diễn ra trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, đặc biệt là khi cây còn nhỏ Phương pháp tưới thấm bằng ống cao su dẫn nước về vườn ươm là phổ biến, giúp duy trì độ ẩm cho đất Đất ẩm không chỉ tốt cho sự phát triển của cây mà còn hạn chế sự phá hoại của dúi, loài động vật thường tìm kiếm thức ăn và đào hang ở những khu vực có lớp đất mùn khô.

Công tác bảo vệ vườn giống SNL chủ yếu gồm 2 khâu là bảo vệ tránh động vật phá hoại trực tiếp và chống sâu bệnh hại.

Hàng rào bảo vệ được xây dựng ngay khi làm đất, sử dụng cây gỗ nhỏ cao 2m và đường kính 10-15cm để ngăn chặn thú nhỡ như Hoãng Để tăng cường hiệu quả, lưới sắt mắt cáo được gia cố ở phía dưới và chôn sâu 30cm nhằm ngăn chặn con Dúi, một loài động vật gặm nhấm nhỏ, không cho chúng chui dưới mặt đất và ăn mầm SNL.

Trong vườn ươm cây con, sâu bệnh hại có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là bệnh đốm lá xuất hiện trong tháng thứ 5-6, có thể do bệnh gỉ sắt Các vườn ươm gần vườn giống có nguy cơ cao lây nhiễm nếu cây mẹ bị bệnh Bên cạnh đó, bệnh thối cổ rễ cũng là một vấn đề thường gặp vào cuối mùa mưa (tháng 8-9), có thể dẫn đến tình trạng cây con chết nhiều.

Hiện tại, sâu hại chưa xuất hiện nhiều, chỉ ghi nhận sự xuất hiện của sâu xanh ăn lá non và một ít sâu róm nhỏ Các loại sâu bệnh hại đang được theo dõi chặt chẽ và chưa có biện pháp xử lý nào được áp dụng.

Sự sinh trưởng, phát triển của cây mọc từ hạt và từ đầu mầm trong giai đoạn vườn ươm

Hạt SNL sau khi gieo sẽ tồn tại trong đất từ 5 đến 6 tháng, tức từ 162 đến 188 ngày mới nảy mầm Thời gian nảy mầm phụ thuộc vào sự kéo dài của mùa mưa trong năm Nếu mùa mưa kéo dài đến tháng 11 – 12, hạt sẽ bắt đầu nảy mầm vào giữa tháng 12 Ngược lại, trong những năm thời tiết khô hạn, cây sẽ nảy mầm muộn hơn, từ đầu tháng 1 đến giữa tháng 1.

Sau 20 ngày, khi hạt nảy mầm khỏi mặt đất, cây mầm bước vào giai đoạn sinh trưởng nhanh chóng Trong 3 tháng đầu, sự tăng trưởng về chiều cao và đường kính tán lá diễn ra mạnh mẽ Tuy nhiên, đến tháng thứ 4, chiều cao của cây gần như không còn tăng thêm.

Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6

Biểu đồ 4-1 Sinh trưởng và phát triển của cây giống mọc từ hạt trong vườn ươm

Cây mầm từ 4 đến 8 tháng tuổi thường có từ 3 đến 5 lá, chủ yếu là 4 lá, mọc vòng ở ngọn, khác với cây chồi nhân giống vô tính có lá kép chân vịt ngay từ gốc Tại gốc, cây con xuất hiện củ nhỏ, sau này trở thành phần tròn hình con quay ở cuối thân rễ Tuy nhiên, do chất lượng hạt giống không đồng đều và sự phân bố khi gieo không đồng nhất, cây con ở vườn ươm có sự sinh trưởng khác nhau, vì vậy chúng tôi đã phân loại thành 3 nhóm cây giống: loại 1, loại 2 và loại 3.

Chúng tôi đã tiến hành đo và đánh giá 1.500 cây giống loại 1, 1.500 cây giống loại 2 và 1.500 cây giống loại 3, từ đó đưa ra các chỉ tiêu cụ thể như được trình bày trong bảng 4-9 (chi tiết có tại Phụ lục 4.6 và 4.7).

Bảng 4-9 Các chỉ tiêu của cây giống từ hạt

ChiÒu cao (cm) Ghi chó

1 I 208 12,52 17,0 7,0 Đo tại thời ®iÓm ® a c©y giống ra trồng

Các cây giống thường có từ 4 đến

Cây thường có từ 4 đến 5 lá và từ 1 đến 3 rễ chính, với chiều dài trung bình của rễ chính dao động từ 7 đến 8,5 cm Ngoài ra, cây còn có từ 7 đến 12 rễ phụ, với chiều dài trung bình của rễ phụ từ 1 cm trở lên.

4,5cm Đường kính tán lá từ 7,5 đến

Do chất lượng cây giống không đồng đều, chỉ những cây loại 1 được chọn để trồng, trong khi cây loại 2 và 3 được ươm lại để sử dụng vào năm sau Tuy nhiên, do yêu cầu về giống, thực tế chỉ giữ lại cây giống loại 3, trong khi cây giống loại 2 vẫn được đem đi trồng, dẫn đến giảm tỷ lệ sống của cây SNL Cây giống được phân loại kỹ lưỡng trước khi đưa vào các dự án trồng trọt Vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn trong một bài viết khác.

4.7.2 Cây mọc từ đầu mầm

Nhân giống vô tính bằng các phần của thân rễ (củ) SNL chỉ nên thực hiện khi cây ngừng sinh trưởng mạnh, tức là sau mùa quả chín từ tháng 9 đến tháng 12 Thí nghiệm cho thấy đoạn đầu mầm thân rễ có từ 2 đến 3 đốt có tỷ lệ nảy mầm cao nhất, với thời gian nảy mầm từ 2 đến 3 tháng (khoảng 65 đến 95 ngày) Mỗi đầu mầm sẽ phát triển thành một cây chồi với 1-2 lá kép, mỗi lá kép có 2-3 lá chét.

Trong 4 tháng đầu (từ tháng 2 đến tháng 6), cây mầm phát triển nhanh về chiều cao, với loại mầm giống 2 đốt tăng trưởng khoảng 5cm/tháng và loại 3 đốt đạt gần 8cm/tháng Tuy nhiên, sau tháng thứ 5, tốc độ sinh trưởng của cây bắt đầu chậm lại.

Kết quả theo dõi trên 150 đầu mầm (loại 3 đốt) và 150 đầu mầm (loại 2đốt) chúng tôi thấy sự tăng trưởng chiều cao như trong biểu đồ 4-2:

Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6

Biểu đồ 4-2 Sinh trưởng và phát triển của cây giống mọc từ đầu mầm thân rễ (củ)

Có sự khác biệt rõ rệt về tốc độ tăng trưởng chiều cao giữa cây giống 2 đốt và 3 đốt, trong đó chiều cao trung bình của cây giống 2 đốt còn thấp hơn cây giống 1 tuổi từ hạt Điều này cho thấy tổn thương do quá trình tách đầu mầm khỏi thân rễ là rất lớn, và phải mất một năm để cây giống phục hồi Nguyên nhân khiến tỷ lệ tạo ra cây giống từ đầu mầm tại Trạm dược liệu Trà Linh trước đây rất thấp là do công nhân thường tiết kiệm phần đầu mầm, dẫn đến việc củ rễ bị tổn thương do thao tác bẻ tay.

Khi cây đạt 6 tháng tuổi, chiều cao và đường kính thân cây tăng dần từ 2 đến 2,5mm Tán lá bắt đầu phát triển từ đầu mầm với dạng lá kép chân vịt, trong khi cây nảy mầm từ hạt năm đầu tiên chỉ có lá đơn mọc vòng Đường kính tán lá của cây con ở độ tuổi 6 – 7 tháng đạt hơn 10cm Phần thân rễ dưới đất vẫn giữ nguyên hình dạng nhưng dài thêm về phía đầu mầm và phát triển một số rễ con mới.

Tiêu chuẩn cây giống đưa ra trồng

+ Tuổi : 8 tháng tuổi (hoặc 1 năm).

+ ChiÒu cao trung b×nh c©y con : 12,52cm

+ Lá xanh, gồm 4 – 5 lá gần như mọc vòng ở ngọn; phần dưới mặt đất gồm có

1 củ nhỏ hình cầu hoặc hình con quay với 1-3 rễ chính (dài từ 5-8cm) và nhiều rễ phô

Trọng lượng trung bình của 100 cây giống tam thất là 208 gram Thời điểm lý tưởng để trồng cây giống từ hạt là sau tháng 8 và tháng 9 dương lịch, với tháng 11 và tháng 12 là thời điểm tốt nhất, mặc dù một số cây có thể bị lụi Để đạt được tỷ lệ sống cao, tốt nhất nên giữ cây giống trong vườn ươm khoảng một năm trước khi trồng Tại Trung Quốc, cây giống tam thất thường được giữ trong vườn ươm trong 2 năm để đảm bảo sức khỏe và tỷ lệ sống gần như đạt tối đa.

Cây giống Sâm ngọc linh từ hạt có tỷ lệ sống cao khi được phân loại trước khi trồng, đạt 81%, so với 67,67% khi không phân loại Kết quả này được ghi nhận trong báo cáo nghiên cứu trồng Sâm ngọc linh dưới tán rừng tự nhiên tại Kon Tum năm 2003.

Cây giống từ 6-8 tháng và cây giống loại 2 được trồng theo yêu cầu của các đơn vị quản lý vườn sâm hiện nay Chúng tôi đã đưa ra khuyến cáo về việc trồng cây giống chưa đủ tuổi và chưa đạt chất lượng để đảm bảo hiệu quả và phát triển bền vững.

Những cây nhỏ hơn, bao gồm loại 2, loại 3 và những cây bị tổn thương trong quá trình thu hoạch và vận chuyển giống, sẽ được ươm vào luống ươm mới để chuẩn bị cho việc trồng vào năm sau.

Cây giống được tạo từ đầu mầm thân rễ có thể trồng ngay nếu đầu mầm có từ 3-4 đốt mà không cần qua giai đoạn ươm, tuy nhiên, phương pháp giâm cây con tại vườn ươm vẫn là lựa chọn tối ưu Tiêu chuẩn áp dụng cho cả loại đầu mầm có 2 đốt và trên 3 đốt.

+ Chiều cao trung bình cây con : 15-22cm (hoặc hơn)

Lá cây có từ 2-3 lá kép, mỗi lá gồm 2-5 lá chét, có màu xanh tươi và không xuất hiện đốm vàng Phần dưới mặt đất có củ nhỏ hình dạng thân rễ nằm ngang, với nhiều rễ con phát triển.

Loại cây giống này có sức sống tốt, nếu trồng đúng thời vụ, được chăm sóc tốt, có tỷ lệ sống 100%

Để nhân giống từ đầu mầm thân rễ, thời điểm tốt nhất là ngay sau khi thu hoạch quả chín, thường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 10 dương lịch.

1 Cây giống SNL hiện được tạo ra từ 2 nguồn là gieo ươm từ hạt và từ các phần của thân rễ (củ) Trong đó nguồn cây giống gieo ươm từ hạt vẫn là quan trọng nhất, nguồn ươm từ đầu mầm thân rễ chỉ là hình thức tận dụng sau khi thu hoạch củ.

2 Cây giống được chăm sóc ở vườn ươm ít nhất là 8 tháng (kể từ khi nảy mầm khỏi mặt đất) đối với cây từ hạt Cây từ đầu mầm có thể sớm hơn (6 tháng). Đối với việc thu cây giống, nên dùng tay hoặc dao xới đất bởi cây giống, nhất là phần củ rất rễ bị tổn thương, hơn nữa do đất trong luống ươm đã được làm rất kỹ nên tơi, xốp không cần thiết phải có tác động mạnh (ảnh 4-19).

Khi dỡ cây giống ra khỏi luống, nên bó thành từng bó 100 hoặc 200 cây và sử dụng lá cây mềm, tươi để gói hoặc bó Phương pháp này giúp bảo quản cây giống trong vòng 1 tuần, rất hữu ích khi không trồng hết hoặc cần vận chuyển đi xa Để vận chuyển cây giống đến nơi trồng, nên sử dụng gùi để xếp bó cây một cách gọn gàng.

Vài nét về trồng Sâm ngọc linh dưới tán rừng tự nhiên

Chọn lựa những khu rừng còn giữ nguyên trạng, với độ che phủ từ 70 đến 90%, và nằm ở độ cao từ 1.800m trở lên Những khu rừng này cần có độ ẩm cao, lớp thảm mục dày, với độ dốc dưới 30 độ, và hướng phơi là Đông hoặc Đông Nam.

+ Thu dọn tầng thảm mục và chuẩn bị đất:

Để chuẩn bị đất trồng, trước tiên cần dọn sạch thực bì, chỉ giữ lại cây gỗ nhỡ và gỗ lớn Tiếp theo, cuốc và nhặt bỏ rễ cây, sau đó lên luống Kích thước luống thường rộng từ 1,2 đến 1,4m và chiều dài tùy thuộc vào địa hình khu vực trồng Nếu địa hình có độ dốc lớn, nên làm luống dọc; trong khi đó, với địa hình tương đối bằng phẳng, có thể lên luống ngang theo đường đồng mức Chiều cao của luống nên từ 30 đến 40cm, và mặt luống cần được san gạt phẳng với đất được làm nhỏ.

Thời điểm lý tưởng để trồng cây là vào cuối mùa sinh trưởng, cụ thể từ tháng 9 đến tháng 12 dương lịch Đối với cây giống từ hạt, có thể bắt đầu trồng từ cuối tháng 8 do cây lôi sím.

Để trồng cây hiệu quả, hãy đào hố có kích thước 30 x 30 cm và sâu 20 cm, với khoảng cách giữa các hố là 30 – 40 cm Nếu luống rộng từ 1,2 – 1,4 m, mỗi hàng sẽ có 3 hố Đừng quên bổ sung từ 1 - 2 kg mùn núi vào mỗi hố.

Để trồng cây giống, trước tiên hãy dùng tay ấn nhẹ để tạo hố, sau đó đặt cây giống theo chiều thẳng đứng Tiếp theo, gạt mùn lấp sâu phần củ từ 3-5 cm, sau đó thêm một lớp đất tơi lên trên để giữ ẩm cho mùn Cuối cùng, lèn chặt gốc cây để đảm bảo sự ổn định.

Với luống rộng 1,2 - 1,4m thì cứ 2 người làm song song (hai bên mép luống). Làm như vậy để tránh dẫm lên luống.

Công việc làm cỏ và dọn vệ sinh trong rừng bao gồm nhổ bỏ cây tái sinh, cây bụi, và thu gom cành khô, lá rụng cùng với hạt từ các cây rừng tầng trên Hoạt động này chủ yếu được thực hiện bằng tay và thường xuyên diễn ra ít nhất một lần mỗi tháng, đặc biệt tăng cường tần suất lên một lần mỗi tuần trong mùa mưa.

Hàng năm bón mùn bổ sung bằng cách rải đều mùn lên bề mặt luống vào sau mùa thu hoạch quả chín (giai đoạn cây ngủ đông).

Việc theo dõi và kiểm tra thường xuyên cũng sẽ giúp phát hiện sâu bệnh sớm hơn và có biện pháp phòng trừ hiệu quả hơn.

Hệ thống hàng rào bảo vệ được thiết lập nhằm ngăn chặn thú lớn, chim và thú nhỏ ăn hạt cây mầm Đặc biệt, việc tuần tra thường xuyên là cần thiết do tình trạng sâm Ngọc Linh bị trộm nhổ nhiều lần.

Sâm Ngọc Linh trồng theo phương pháp bán tự nhiên có thể thu hoạch sau 7 năm Mặc dù năng suất hiện chưa rõ ràng, nhưng ước tính với mật độ trồng từ 45.000 đến 60.000 cây trên 1ha, sản lượng củ tươi có thể đạt từ 2.700kg đến 3.600kg mỗi hecta.

Khoảng cách giữa các luống nên được duy trì từ 40 đến 60cm để tạo lối đi thuận tiện cho việc chăm sóc và đảm bảo hệ thống thoát nước hiệu quả Ngoài ra, xung quanh vườn cần có hào chắn để giúp thoát nước khi có mưa lớn.

Trong những năm gần đây, từ năm 2002, việc trồng sâm tại núi Ngọc Linh, bao gồm cả tỉnh Quảng Nam và Kon Tum, đã được thực hiện theo phương thức địa phương Hiện tại, tổng diện tích sâm đạt gần 6 ha, trong đó tỉnh Kon Tum có khoảng 2 ha và tỉnh Quảng Nam có gần 4 ha, với độ tuổi từ 1 đến 4 năm, không bao gồm diện tích vườn giống gốc.

Tỉnh Quảng Nam và Kon Tum đang hướng tới phát triển trồng sâm Ngọc Linh, với mục tiêu biến vùng núi Ngọc Linh thành trung tâm sản xuất sâm quy mô lớn hàng trăm héc ta Hiện tại, tỉnh Quảng Nam đang hợp tác với Viện Dược Liệu để thực nghiệm phương pháp trồng sâm Ngọc Linh dưới dàn mái che.

Ngày đăng: 12/04/2022, 07:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Tiến Bân – Chủ biên (1996), Sách Đỏ Việt Nam, tập 2 – Phần Thực vật, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 204-208 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách Đỏ Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tiến Bân – Chủ biên
Nhà XB: NXB Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 1996
2. Đỗ Huy Bích & Bùi Xuân Chương (1980), Sổ tay cây thuốc Việt Nam, NXB Y học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay cây thuốc Việt Nam
Tác giả: Đỗ Huy Bích & Bùi Xuân Chương
Nhà XB: NXB Y học
Năm: 1980
3. Birdlife, Ngân hàng thế giới, Đại sứ quán VQ Hà Lan, Bộ NN & PTNT (2004),“Khu BTTN Ngọc Linh (Kon Tum); Khu đề xuất BTTN Ngọc Linh (Quảng Nam)”, Thông tin các Khu bảo vệ hiện có và đề xuất ở Việt Nam, tái bản lần 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khu BTTN Ngọc Linh (Kon Tum); Khu đề xuất BTTN Ngọc Linh (Quảng Nam)”,"Thông tin các Khu bảo vệ hiện có và đề xuất ở Việt Nam
Tác giả: Birdlife, Ngân hàng thế giới, Đại sứ quán VQ Hà Lan, Bộ NN & PTNT
Năm: 2004
4. Bộ Y tế (1973), Qui trình điều tra dược liệu - Bộ Ytế; (tài liệu nội bộ) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Qui trình điều tra dược liệu
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 1973
5. Bộ Y tế, UBND tỉnh Quảng Nam (2003), tài liệu Hội thảo Bảo tồn và phát triển cây Sâm Việt Nam. Tam Kỳ – Quảng Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo Bảo tồn và phát triển câySâm Việt Nam
Tác giả: Bộ Y tế, UBND tỉnh Quảng Nam
Năm: 2003
6. Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc, Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, Aljos Farjon, Leonid Averyanov, Jacinto Regalado Jr., et. al. (2005), Thông Việt Nam:Nghiên cứu hiện trạng bảo tồn 2004, NXB Lao động xã hội; 129 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông Việt Nam:Nghiên cứu hiện trạng bảo tồn 2004
Tác giả: Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc, Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, Aljos Farjon, Leonid Averyanov, Jacinto Regalado Jr., et. al
Nhà XB: NXB Lao động xã hội; 129 trang
Năm: 2005
7. Phạm Hoàng Hộ (1970) Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, Bộ Văn hóa, giáo dục và thanh niên xuất bản, Q.1: tr. 989 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây cỏ Miền Nam Việt Nam
8. Phạm Hoàng Hộ (1993), Cây cỏ Việt Nam, Tập 2, Montreal. Q.2: tr. 640 – 641 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây cỏ Việt Nam
Tác giả: Phạm Hoàng Hộ
Năm: 1993
9. Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Q.2: tr. 515 – 516 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây cỏ Việt Nam
Tác giả: Phạm Hoàng Hộ
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 1999
10. Nguyễn Thị Thu Hương (2003), Kết quả nghiên cứu về tác dụng dược lý sâm Việt Nam. Hội thảo bảo tồn và phát triển cây sâm Việt Nam, Tam Kỳ, tr. 76-90 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết quả nghiên cứu về tác dụng dược lý sâm ViệtNam
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hương
Năm: 2003
11. Nhiều tác giả (2000) Tên cây rừng Việt Nam, NXB Nông nghiệp, tr. 351 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tên cây rừng Việt Nam
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
12. Đào Kim Long và Nguyễn Châu Giang (1991), “Sơ lược quá trình phát hiện cây sâm đốt trúc ở vùng núi Ngọc Linh (Kon Tum)”, Tập bài viết về lịch sử ngành Dược khu 5 và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Liên chi hội Dược học tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng xuất bản, tr. 138-146 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sơ lược quá trình phát hiện câysâm đốt trúc ở vùng núi Ngọc Linh (Kon Tum)”,"Tập bài viết về lịch sử ngành Dượckhu 5 và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng
Tác giả: Đào Kim Long và Nguyễn Châu Giang
Năm: 1991
13. Đỗ Tất Lợi (1999) Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học (in lần thứ 8), tr. 289 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Nhà XB: NXB Y học (in lần thứ8)
14. Trần Công Luận (2003), “Kết quả nghiên cứu về hoá học sâm Việt Nam 1978 – 2002”, Hội thảo bảo tồn và phát triển cây sâm Việt Nam, Tam Kỳ, tr. 62-75 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết quả nghiên cứu về hoá học sâm Việt Nam 1978 –2002”,"Hội thảo bảo tồn và phát triển cây sâm Việt Nam
Tác giả: Trần Công Luận
Năm: 2003
15. Lê Thanh Sơn và Nguyễn Tập (2006), “Những đặc điểm sinh thái cơ bản của Sâm ngọc linh”, Tạp chí Dược liệu, tập 11, (4), tr. 145 – 147 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những đặc điểm sinh thái cơ bản của Sâmngọc linh”,"Tạp chí Dược liệu
Tác giả: Lê Thanh Sơn và Nguyễn Tập
Năm: 2006
16. Nguyễn Tập (1984), “Những loài thực vật làm thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh học, tập 6, (3), tr. 16-19 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những loài thực vật làm thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam”,"Tạp chí Sinh học
Tác giả: Nguyễn Tập
Năm: 1984
17. Nguyễn Tập (1996), Nghiên cứu bảo tồn những loài cây thuốc quý hiếm có nguy cơbị tuyệt chủng ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ Sinh học, Trường Đại học khoa học tự nhiên - ĐHQG Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu bảo tồn những loài cây thuốc quý hiếm có nguy cơ"bị tuyệt chủng ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tập
Năm: 1996
18. Nguyễn Tập (2001) “áp dụng khung phân hạng của IUCN (1994) để đánh giá tình trạng bị đe dọa đối với các loài cây thuốc cần bảo tồn ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Dược liệu, tập 6, (2+3), tr. 42-45 và tập 6, (4), tr. 97 – 100 Sách, tạp chí
Tiêu đề: áp dụng khung phân hạng của IUCN (1994) để đánh giá tìnhtrạng bị đe dọa đối với các loài cây thuốc cần bảo tồn ở Việt Nam hiện nay”, "Tạpchí Dược liệu
19. Nguyễn Tập (2005) “Các loài thuộc chi Panax L. ở Việt Nam”, Tạp chí Dược liệu tËp 10, (3), tr. 71 – 76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các loài thuộc chi "Panax" L. ở Việt Nam”,"Tạp chí Dược liệu
20. Nguyễn Tập (2006), “Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam”, Tạp chí Dược liệu, tập 3, (11), tr. 97-105 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam”,"Tạp chí Dược liệu
Tác giả: Nguyễn Tập
Năm: 2006

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w