Đề cương sơ bộ B Ộ TƢ PHÁP Chính phủ Việ t Nam Chƣơng trình Phát triể n Liê n hợp quốc “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam ” Hà Nội, 6/ 2013 Đơn vị đầu mối thực hiện Ủy ban pháp[.]
Về chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội
1 Xem Điều 83 của Hiến pháp năm 1992, Điều 1 của Luật tổ chức Quốc hội
Lập pháp là chức năng cơ bản của Quốc hội Việt Nam, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và quyền lực nhà nước Quốc hội có quyền duy nhất trong việc lập hiến và lập pháp, thể chế hóa chủ trương của Đảng và chuyển hóa ý chí của nhân dân thành luật, quy tắc xử sự chung cho toàn xã hội Quốc hội thực hiện chức năng này thông qua việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, xây dựng luật và pháp lệnh.
Hiến pháp và luật là những văn bản pháp lý cao nhất, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cơ bản và tổ chức hoạt động của cơ quan nhà nước cùng công dân Hiến pháp là cơ sở pháp lý, quy định quyền lực nhà nước, chế độ chính trị, văn hóa - xã hội, cấu trúc tổ chức bộ máy nhà nước, và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp, với yêu cầu ít nhất hai phần ba đại biểu tán thành Luật, có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp, quy định các vấn đề trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, và nhiều lĩnh vực khác Luật và nghị quyết của Quốc hội được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu tán thành.
Hiến pháp và luật là những tài liệu quan trọng thể hiện đường lối và chủ trương của Đảng, được Nhà nước thể chế hóa và áp dụng trên toàn quốc Các quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành được thực thi nhờ sức mạnh của bộ máy Nhà nước và sự đồng lòng của toàn xã hội Ngoài ra, các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành phải tuân thủ Hiến pháp, cụ thể hóa các quy định của luật và nghị quyết của Quốc hội, đồng thời không được trái với tinh thần và nội dung của những văn bản này.
Về chức năng giám sát của Quốc hội
Giám sát là chức năng cơ bản của Quốc hội, thể hiện quyền lực của cơ quan dân cử Hoạt động này giúp Quốc hội sử dụng các phương tiện và công cụ để kiểm tra việc thực thi các chính sách, pháp luật mà mình ban hành trong thực tiễn.
2 Xem khoản 1 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 1 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
Khoản 2 Điều 11 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng luật định nhằm bảo vệ lợi ích của cử tri Hoạt động giám sát được đánh giá cao khi đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng lập pháp và giải quyết các vấn đề quan trọng của đất nước Giám sát của Quốc hội không chỉ nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống và bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh, mà còn nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì nhân dân.
Hoạt động giám sát của Quốc hội đã được quy định từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946, nhấn mạnh quyền “kiểm soát và phê bình Chính phủ” Đến Hiến pháp năm 1959, chức năng giám sát này được cụ thể hóa hơn với quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp và công tác của các cơ quan nhà nước Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 1980 và đặc biệt là năm 1992, quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước mới được khẳng định rõ ràng Các điều 84, 91, 95, 96, 98 cùng các văn bản pháp luật khác đã cụ thể hóa các quy định về hoạt động giám sát cho từng chủ thể, trao cho Quốc hội quyền năng lớn hơn trong việc thực hiện chức năng giám sát.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao nhằm đảm bảo việc tuân thủ Hiến pháp, luật pháp và nghị quyết của mình Đồng thời, Quốc hội cũng xem xét báo cáo hoạt động của các cơ quan như Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quốc hội có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ Hiến pháp, luật và nghị quyết của mình, cũng như hoạt động của các cơ quan Nhà nước cao cấp như Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Hình thức giám sát chủ yếu là xem xét báo cáo công tác của các cơ quan này và chất vấn về các vấn đề liên quan Nếu phát hiện văn bản nào trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, Quốc hội có quyền bãi bỏ những văn bản đó.
4 Xem Điều thứ 36 của Hiến pháp năm 1946
5 Xem Điều 50 và Điều 53 của Hiến pháp năm 1959
6 Xem Điều 82 của Hiến pháp năm 1980 và Điều 83 của Hiến pháp năm 1992
7 Xem khoản 2 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 2 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
Theo khoản 9 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 và khoản 9 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội, các cơ quan liên quan sẽ bị Quốc hội bãi bỏ Những cá nhân có trách nhiệm trong việc vi phạm sẽ bị xem xét miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm.
Theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước Quyền giám sát này được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội, dựa trên hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Giám sát là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, mang đặc tính chung của hiệu lực quản lý nhà nước và những đặc thù riêng của cơ quan quyền lực cao nhất Hiệu lực giám sát bị chi phối bởi yếu tố hợp pháp và hợp lý, với quy định pháp luật về vai trò và thẩm quyền của Quốc hội tạo ra sức mạnh pháp lý cho hoạt động này Khi các chủ thể giám sát thực hiện đúng thẩm quyền và tuân thủ quy định pháp luật, hiệu lực pháp lý sẽ cao, buộc đối tượng chịu giám sát phải tuân thủ Hiệu lực giám sát cũng được đánh giá qua mức độ thực thi nghị quyết, kiến nghị của Quốc hội Mục tiêu giám sát là đảm bảo pháp luật được thực thi, tác động đến nhiều lĩnh vực xã hội, làm minh bạch chính sách và giải quyết vấn đề bức xúc của người dân Nếu nội dung giám sát phù hợp với yêu cầu cuộc sống, sẽ thuận lợi trong thực hiện và có sức tác động mạnh mẽ lên các quan hệ xã hội, nâng cao hiệu lực thực tế của hoạt động giám sát.
Về chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội không chỉ thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp và giám sát mà còn quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, bao gồm chính sách đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh Quốc hội cũng quy định các nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, cũng như về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp năm 1992, những vấn đề cơ bản của đất nước do Quốc hội quyết định gồm:
- Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương,
+ Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
9 Xem Điều 1 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương 10 ;
Quốc hội có trách nhiệm bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm các chức vụ quan trọng như Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, cùng với các Phó Chủ tịch Quốc hội và Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội Ngoài ra, Quốc hội cũng phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ Bên cạnh đó, Quốc hội phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước đề xuất, đồng thời thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ được bầu hoặc phê chuẩn bởi Quốc hội.
Chính phủ có quyền quyết định về việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ, đồng thời thực hiện việc thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Ngoài ra, Chính phủ cũng có thẩm quyền thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
- Về lĩnh vực kinh tế- xã hội, ngân sách, Quốc hội:
+ Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 13 ;
Quyết định về chính sách tài chính và tiền tệ quốc gia, cùng với việc phê duyệt dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, là những nhiệm vụ quan trọng Bên cạnh đó, việc phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước và quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các loại thuế cũng đóng vai trò thiết yếu trong quản lý tài chính quốc gia.
+ Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước 15 ; + Quyết định đại xá 16 ;
Quy định về hàm và cấp bậc trong các lực lượng vũ trang nhân dân, cũng như trong lĩnh vực ngoại giao và các cấp nhà nước khác, bao gồm cả quy định về huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự của nhà nước.
+ Quyết định việc trưng cầu ý dân 18
Quốc hội có thẩm quyền quyết định về chiến tranh và hòa bình, đồng thời quy định tình trạng khẩn cấp và các biện pháp đặc biệt nhằm đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc gia.
Quốc hội đảm nhiệm vai trò quyết định các chính sách cơ bản về đối ngoại, bao gồm việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế mà Chủ tịch nước đã ký Ngoài ra, Quốc hội cũng có thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề xuất.
10 Xem khoản 6 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 6 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
11 Xem khoản 7 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 7 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
12 Xem khoản 8 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 8 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
13 Xem khoản 3 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 3 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
14 Xem khoản 4 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 4 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
15 Xem khoản 5 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 5 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
16 Xem khoản 10 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 10 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
17 Xem khoản 11 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 11 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
18 Xem khoản 14 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 14 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
19 Xem khoản 12 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 12 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội nghị của Chủ tịch nước 20
Quy định của Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan về hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; đại biểu Quốc hội
Về hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội
Quốc hội Việt Nam có cơ cấu tổ chức một viện, hoạt động không thường xuyên theo chế độ hội nghị và quyết định dựa trên đa số Đứng đầu là Chủ tịch Quốc hội, người chủ tọa các phiên họp, ký chứng thực luật và nghị quyết, cũng như lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Các Phó Chủ tịch Quốc hội hỗ trợ Chủ tịch theo phân công Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo thông qua các kỳ họp, hoạt động của Uỷ ban thường vụ, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban và các đại biểu Quốc hội.
Quốc hội hoạt động chủ yếu thông qua các kỳ họp, cùng với sự tham gia của Ủy ban thường vụ, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban và Đoàn đại biểu Quốc hội, cũng như các đại biểu Quốc hội.
Về kỳ họp Quốc hội:
Kỳ họp Quốc hội là hoạt động chủ yếu thể hiện quyền lực nhà nước và trí tuệ của đại biểu Quốc hội, diễn ra thường lệ hai lần mỗi năm Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc một phần ba tổng số đại biểu có thể yêu cầu triệu tập kỳ họp bất thường Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm chuẩn bị cho kỳ họp, bao gồm việc chuẩn bị nội dung và công việc hành chính Chủ tịch Quốc hội sẽ chủ toạ các phiên họp này.
20 Xem khoản 13 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, khoản 13 Điều 2 của Luật tổ chức Quốc hội
21 Xem Điều 4 của Luật tổ chức Quốc hội
Tại kỳ họp Quốc hội, các đại biểu thảo luận và thông qua các dự thảo luật, nghị quyết, đồng thời nghe báo cáo về công tác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các báo cáo chuyên đề khác Ngoài ra, Quốc hội còn thực hiện chất vấn và nghe trả lời chất vấn, cũng như quyết định những vấn đề quan trọng khác.
Hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội diễn ra không chỉ trong kỳ họp Quốc hội mà còn trong thời gian giữa các kỳ họp, đảm bảo sự liên tục và hiệu quả trong công tác lập pháp và giám sát.
2.2 Về tổ chức và phương thức hoạt động của các cơ quan của Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, các cơ quan của Quốc hội bao gồm Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Tuy nhiên, Luật tổ chức Quốc hội quy định cụ thể hơn về các cơ quan của Quốc hội, bao gồm Hội đồng dân tộc và 9 Ủy ban chuyên trách khác nhau.
4 Uỷ ban tài chính, ngân sách;
5 Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
6 Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
7 Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
8 Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
2.2.1 Về Ủy ban thường vụ Quốc hội - cơ quan thường trực của Quốc hội
Quốc hội Việt Nam hoạt động theo mô hình tập thể, quyết định dựa trên đa số, nhưng không thường xuyên và chuyên nghiệp Do đó, cần thiết phải có một cơ quan thường trực với nhiệm vụ và quyền hạn nhất định để đảm bảo tính liên tục trong hoạt động của Quốc hội Các thành viên của cơ quan này đều là đại biểu Quốc hội chuyên nghiệp Cơ quan thường trực là bộ phận cấu thành của Quốc hội, được phân quyền và ủy quyền một số quyền hạn trong các lĩnh vực hoạt động Trong một số lĩnh vực, Ủy ban thường vụ Quốc hội hoạt động song song với Quốc hội nhưng có phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn hạn chế hơn.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên, với số lượng thành viên do Quốc hội quyết định Thành viên Uỷ ban không được đồng thời là thành viên Chính phủ Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội.
- Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
Quốc hội Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện giám sát việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời theo dõi hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Ngoài ra, cơ quan này còn giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, có quyền bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và giải tán Hội đồng nhân dân nếu cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội được chỉ đạo, điều hoà và phối hợp hoạt động nhằm đảm bảo hiệu quả công việc Đồng thời, cần hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho các đại biểu Quốc hội trong quá trình hoạt động của họ.
Trong trường hợp Quốc hội không thể họp, Chính phủ có quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh khi đất nước bị xâm lược và sẽ báo cáo Quốc hội để xem xét tại kỳ họp gần nhất Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, cũng như ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc hoặc tại từng địa phương.
- Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
- Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội
2.2.2 Về các Ủy ban của Quốc hội
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là các cơ quan hoạt động theo chế độ tập thể và quyết định dựa trên nguyên tắc đa số Quốc hội có nhiệm vụ bầu ra Hội đồng dân tộc, bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên, đồng thời cũng bầu các Ủy ban của Quốc hội Mỗi cơ quan này có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách để đảm bảo hiệu quả trong công việc.
Theo Hiến pháp năm 1992, Hội đồng dân tộc có trách nhiệm nghiên cứu và đề xuất với Quốc hội các vấn đề liên quan đến dân tộc, đồng thời giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại miền núi và khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chịu trách nhiệm nghiên cứu và thẩm tra các dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh cùng các dự án khác, cũng như các báo cáo do Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Họ có nhiệm vụ trình các nội dung này lên Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận về chương trình xây dựng luật và pháp lệnh, đồng thời thực hiện quyền giám sát theo nhiệm vụ và quyền hạn được quy định bởi pháp luật Ngoài ra, Uỷ ban cũng kiến nghị các vấn đề liên quan đến hoạt động của Hội đồng và các Ủy ban Số lượng và nhiệm vụ cụ thể của từng Ủy ban đã được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội.
Về phương thức hoạt động của đại biểu Quốc hội; mối quan hệ của đại biểu Quốc hội với cử tri và địa phương nơi ứng cử
Đại biểu Quốc hội, được cử tri bầu ra, là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, không chỉ ở đơn vị bầu cử mà còn cho toàn quốc Họ thực hiện các hoạt động tại các kỳ họp Quốc hội và trong thời gian giữa các kỳ họp.
Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội được quy định tại các Điều
87, 97, 98 và 100 của Hiến pháp Đó là:
Đại biểu Quốc hội cần duy trì mối liên hệ chặt chẽ với cử tri và chịu sự giám sát từ họ Họ có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến cũng như nguyện vọng của cử tri tới Quốc hội và các cơ quan nhà nước liên quan Đồng thời, đại biểu phải thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và Quốc hội, trả lời các yêu cầu và kiến nghị từ cử tri Họ cũng cần xem xét, đôn đốc và theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đồng thời hướng dẫn và giúp đỡ công dân thực hiện các quyền của mình Ngoài ra, đại biểu Quốc hội còn có nhiệm vụ phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội được quyền chất vấn các vị trí lãnh đạo cao nhất của nhà nước, bao gồm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác trong Chính phủ, cũng như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đơn vị vũ trang cung cấp thông tin và giải đáp những vấn đề mà họ quan tâm.
Theo quy định, đại biểu Quốc hội chỉ có thể bị bắt giam hoặc truy tố khi có sự đồng ý của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đặc biệt trong thời gian Quốc hội không họp Nếu đại biểu Quốc hội bị tạm giữ do phạm tội quả tang, cơ quan tạm giữ phải ngay lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định.
Đại biểu Quốc hội cần dành thời gian thực hiện nhiệm vụ của mình, với sự hỗ trợ từ Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các cơ quan nhà nước khác Trước mỗi kỳ họp, đại biểu phải tiếp xúc với cử tri để thu thập ý kiến về các vấn đề liên quan, và sau kỳ họp, họ có trách nhiệm báo cáo kết quả, giải thích các Nghị quyết của Quốc hội và vận động nhân dân thực hiện chúng Mỗi năm, đại biểu phải báo cáo hoạt động của mình và Quốc hội, đồng thời trả lời yêu cầu của cử tri Họ cũng phải tiếp dân định kỳ, nhận và chuyển đơn khiếu nại, tố cáo, cũng như theo dõi việc giải quyết những đơn thư này, đảm bảo thông báo kết quả cho người đã khiếu nại, tố cáo.
Quy định của Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước thể hiện trong mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước
Về mối quan hệ giữa Quốc hội với Chủ tịch nước
Mối quan hệ giữa cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và Chủ tịch nước, người đứng đầu nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong việc đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các vấn đề đối nội và đối ngoại.
Theo Hiến pháp năm 1992, Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước Chủ tịch nước được bầu từ các đại biểu Quốc hội và có nhiệm kỳ tương ứng với nhiệm kỳ của Quốc hội Khi Quốc hội kết thúc nhiệm kỳ, Chủ tịch nước vẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Chủ tịch nước mới Quy định này được cụ thể hóa tại Điều 81 của Luật tổ chức Quốc hội.
“Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội trong số các đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội giới thiệu” 23
Chủ tịch nước có trách nhiệm báo cáo công tác và trả lời chất vấn trước Quốc hội Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước nếu chúng vi phạm Hiến pháp, luật pháp hoặc nghị quyết của Quốc hội.
Chủ tịch nước có trách nhiệm công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong vòng mười lăm ngày kể từ khi các văn bản này được thông qua, trừ khi Chủ tịch nước yêu cầu xem xét lại các pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành.
Theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước có ba nhiệm vụ quan trọng phải thực hiện dựa trên nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội Đầu tiên, Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội để bổ nhiệm, miễn nhiệm, và cách chức các thành viên Chính phủ như Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Thứ hai, Chủ tịch nước công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh và đại xá dựa trên nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội Cuối cùng, Chủ tịch nước có quyền ra lệnh tổng động viên hoặc công bố tình trạng khẩn cấp theo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hoặc trong trường hợp khẩn cấp, có thể ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc hoặc tại từng địa phương khi Uỷ ban không thể họp.
Về mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ
Theo Điều 109 của Hiến pháp năm 1992, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, đồng thời phê chuẩn các đề nghị của Thủ tướng về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ Nhiệm kỳ của Chính phủ gắn liền với nhiệm kỳ của Quốc hội, và khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ mới.
Quốc hội, cơ quan do Quốc hội thành lập, có trách nhiệm bảo đảm thi hành các văn bản lập pháp và giám sát hoạt động của Chính phủ Chính phủ phải hoạt động theo các nguyên tắc và quy định của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác định kỳ Tất cả các văn bản của Chính phủ phải tuân thủ Hiến pháp và luật pháp, và có thể bị đình chỉ hoặc bãi bỏ nếu vi phạm Quốc hội có quyền bãi nhiệm các thành viên Chính phủ, thể hiện ưu thế của Quốc hội trong mối quan hệ với Chính phủ và phù hợp với mô hình tổ chức quyền lực.
23 Xem khoản 7 Điều 87 của Hiến pháp năm 1992
Theo Điều 103 của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ không chỉ dừng lại ở những điểm đã nêu, mà còn thể hiện qua sự tham gia của Chính phủ vào các cơ quan của Quốc hội như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác Sự tương tác này là một phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cả hai bên.
Theo Hiến pháp 1992, trong thời gian Quốc hội không họp, Chính phủ phải báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chịu sự giám sát của cơ quan này Các văn bản của Chính phủ phải phù hợp với các pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Một số hoạt động của Chính phủ, như xây dựng pháp luật, chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Theo Điều 14 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ có quyền ban hành nghị định "độc lập" để giải quyết các vấn đề cần thiết chưa đủ điều kiện thành luật, nhưng phải được sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trước khi trình các dự án luật lên Quốc hội, Chính phủ phải gửi cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và cho ý kiến.
Mối quan hệ giữa Chính phủ và Hội đồng dân tộc cùng các Uỷ ban của Quốc hội được thể hiện rõ qua việc thực hiện quyền giám sát của Hội đồng và các Uỷ ban đối với Chính phủ.
Quốc hội là cơ quan lập pháp duy nhất, trong khi Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp để quản lý Nhà nước Hai cơ quan này hoạt động không tách biệt mà có sự phối hợp chặt chẽ Mặc dù Quốc hội nắm quyền lập pháp, Chính phủ cũng tham gia tích cực, đặc biệt trong việc đề xuất và trình dự án luật, đồng thời có thể ban hành nghị định có nội dung tương tự luật Ngược lại, Quốc hội cũng thực hiện một số nhiệm vụ hành pháp Để luật được thực thi hiệu quả, Chính phủ cần nỗ lực trong việc tổ chức thực hiện các quy định pháp luật.
Về mối quan hệ giữa Quốc hội với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
3.3.1 Về mối quan hệ giữa Quốc hội với Toà án nhân dân tối cao Đây là mối quan hệ của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với cơ quan xét xử cao nhất Quan hệ này được thể hiện ở chỗ Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội thành lập theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức toà án nhân dân Cụ thể, Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội
Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án phải báo cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với Toà án nhân dân tối cao, đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án Toà án nhân dân tối cao, và Chánh án phải trả lời trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hoặc cung cấp phản hồi bằng văn bản.
Toà án nhân dân tối cao có quyền đề xuất dự án luật lên Quốc hội, trong khi Quốc hội có quyền thảo luận và quyết định thông qua hoặc bác bỏ dự án này.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội, có quyền giám sát hoạt động của Toà án nhân dân tối cao Uỷ ban này có khả năng đình chỉ việc thi hành các văn bản trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, đồng thời trình Quốc hội huỷ bỏ các văn bản đó Ngoài ra, Uỷ ban cũng có quyền huỷ bỏ các văn bản của Toà án nhân dân tối cao nếu chúng vi phạm pháp lệnh hoặc nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3.3.2 Về mối quan hệ giữa Quốc hội với Viện kiểm sát nhân dân tối cao Đây là mối quan hệ giữa Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Quan hệ này được thể hiện ở chỗ Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo công tác của mình trước Quốc hội Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng sẽ báo cáo công tác trước cơ quan Thường trực của Quốc hội, cụ thể là Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đảm bảo việc tuân thủ Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội Quốc hội có quyền xem xét báo cáo hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, người này phải trả lời chất vấn trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc bằng văn bản.
Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu chúng vi phạm Hiến pháp, luật hoặc nghị quyết của Quốc hội Do đó, các văn bản được ban hành bởi Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần phải dựa trên Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, đồng thời đảm bảo sự phù hợp với các văn bản này.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền trình dự án luật lên Quốc hội, trong khi Quốc hội có trách nhiệm thảo luận, thông qua hoặc bác bỏ dự án luật đó.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội, có quyền giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Uỷ ban này có khả năng đình chỉ việc thi hành các văn bản trái với Hiến pháp, luật, và nghị quyết của Quốc hội, đồng thời trình Quốc hội huỷ bỏ các văn bản đó Ngoài ra, Uỷ ban cũng có quyền huỷ bỏ các văn bản của Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu chúng vi phạm pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Về mối quan hệ giữa Quốc hội với Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán nhà nước hiện nay là một cơ quan độc lập, được quy định trong Luật kiểm toán nhà nước, nhưng chưa được ghi nhận trong Hiến pháp.
Do đó, mối quan hệ giữa Quốc hội và Kiểm toàn nhà nước cũng chưa được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội
Theo Luật kiểm toán nhà nước, Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước, đồng thời quy định tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Quốc hội kiểm soát việc thực hiện tài chính công, đặc biệt là trong việc sử dụng ngân sách nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quản trị quốc gia, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước Các tuyên bố quốc tế như "Tuyên bố Lima" và "Tuyên bố Mêxicô" nhấn mạnh sự cần thiết quy định về Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp, yêu cầu một cơ quan độc lập thực hiện kiểm toán để đảm bảo công khai, minh bạch và sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước, từ đó hạn chế tham nhũng và lãng phí Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã ghi nhận quy định về cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp của mình.
25 Tuyên bố Lima được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Tổ chức INTOSAI tháng 10 năm 1977
26 Tuyên bố Mêxicô được thông qua tại Đại hội lần thứ XIX của Tổ chức INTOSAI tháng 10 năm
Năm 2007, nước 27 đã ghi nhận quy tắc hoạt động độc lập của Kiểm toán Nhà nước, với mức độ và liều lượng khác nhau, đồng thời không chịu sự can thiệp từ các thiết chế quyền lực khác.
Trên thế giới, có ba mô hình cơ quan kiểm toán dựa vào mối quan hệ với các thiết chế nhà nước: cơ quan kiểm toán độc lập (như ở Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Ý), cơ quan kiểm toán thuộc hành pháp (như ở Trung Quốc, Nhật Bản, Thụy Điển) và cơ quan kiểm toán thuộc lập pháp (như ở Mỹ, Nga, Anh) Việc xác định mô hình cơ quan kiểm toán ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào chế độ chính trị và tổ chức quyền lực nhà nước của từng nơi.
Theo quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước, Việt Nam đang áp dụng mô hình Kiểm toán gần giống với Kiểm toán độc lập do Quốc hội thành lập Mô hình này hợp lý trong bối cảnh quyền lực nhà nước thống nhất, với sự phân công và kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Quốc hội, với vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất, cần có công cụ giám sát tài chính hiệu quả đối với hoạt động của các cơ quan sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước.
Sau hơn sáu năm triển khai, mặc dù chưa có tổng kết toàn diện về việc thực hiện các quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước, nhưng thực tiễn cho thấy mô hình kiểm toán Nhà nước hiện tại có nhiều yếu tố hợp lý cần được khẳng định và tiếp tục phát huy.
Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước, một cơ quan được Quốc hội thành lập, vẫn chưa được ghi nhận trong Hiến pháp.
Theo Điều 13 Luật Kiểm toán Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nước, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại ghi nhận thẩm quyền của Kiểm toán Nhà nước tương đương với một cơ quan quản lý nhà nước, có khả năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện 16 nhiệm vụ quy định tại Điều 15 Sự chồng chéo này dẫn đến những bất cập, khi Kiểm toán Nhà nước, mặc dù không thuộc nhánh hành pháp, lại có chức năng quản lý nhà nước, ảnh hưởng đến việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo thống kê sơ bộ, trong số 72 quốc gia được khảo sát, có 68 quốc gia công nhận Kiểm toán Nhà nước là một thiết chế hiến định Cụ thể, 23 quốc gia thuộc nhánh lập pháp, 7 quốc gia thuộc nhánh hành pháp, 5 quốc gia thuộc nhánh tư pháp, 11 quốc gia dưới sự quản lý của Tổng thống, 1 quốc gia dưới quyền Nhà Vua, và 21 quốc gia xác định Kiểm toán Nhà nước là cơ quan hoàn toàn độc lập với các thiết chế khác của Nhà nước.
Pháp luật hiện hành quy định thẩm quyền của Kiểm toán Nhà nước rất rộng, dẫn đến tình trạng trùng lặp và chồng chéo với thanh tra tài chính Điều này gây khó khăn cho các cơ quan bị thanh tra và kiểm toán trong quá trình hoạt động.
Về mối quan hệ giữa Quốc hội với chính quyền địa phương
Quốc hội có mối quan hệ chặt chẽ với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, thực hiện quyền giám sát tối cao theo Hiến pháp năm 1992 Điều này có nghĩa là Quốc hội không chỉ giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương mà còn cả ở địa phương Tuy nhiên, sự giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan địa phương chỉ giới hạn trong việc đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, mà không bao quát toàn bộ hoạt động của các cơ quan này.
Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương thông qua Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Điều này cho thấy rằng mọi khía cạnh về trật tự hình thành, vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hình thức hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương đều được Quốc hội xác định.
Các văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần tuân thủ Hiến pháp, luật, cũng như nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giám sát, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp và có khả năng bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Trong trường hợp Hội đồng nhân dân gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền giải tán Hội đồng này.
Để thực hiện chủ trương phân cấp và tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý ngân sách, Hiến pháp năm 1992 quy định rằng Quốc hội có thẩm quyền quyết định ngân sách, bao gồm việc phân bổ ngân sách trung ương hàng năm cho các bộ, ngành và mức bổ sung cho từng tỉnh, thành phố Theo đó, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ có quyền chủ động hơn trong việc phân bổ ngân sách cụ thể của địa phương dựa trên số thu và mức bổ sung từ ngân sách trung ương.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THI HÀNH HIẾN PHÁP NĂM 1992 CỦA QUỐC HỘI
Về vị trí, vai trò, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, chế độ làm việc của Quốc hội
Quốc hội Việt Nam đã thực hiện các quy định của Hiến pháp, dẫn đến nhiều đổi mới trong mô hình tổ chức và hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực của bộ máy nhà nước Những thay đổi này không chỉ cải thiện diện mạo của Quốc hội mà còn đáp ứng tốt hơn yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân.
Quốc hội Việt Nam, với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao, ngày càng khẳng định vị trí của mình Theo Hiến pháp năm 1992, Quốc hội thực hiện ba chức năng cơ bản: lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Từ năm 1992, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao tính dân chủ và chất lượng đại biểu Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 và các sửa đổi vào năm 2001 và 2007 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc cải cách tổ chức Quốc hội Quốc hội cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các cơ quan và đại biểu Quốc hội, như Nội quy kỳ họp và Quy chế hoạt động của các Ủy ban Các luật như Luật hoạt động giám sát và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội Theo báo cáo tổng kết, Quốc hội đã phát triển mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, góp phần thúc đẩy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp đã có những điều chỉnh quan trọng trong việc quy định và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, làm rõ thẩm quyền của Quốc hội trong các vấn đề cụ thể Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bổ sung và điều chỉnh thẩm quyền tại Điều 84, xác định rõ quyền quyết định dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách trung ương, quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước, thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, và phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước ký Mặc dù quyền bỏ phiếu tín nhiệm chưa được thực hiện, nhưng nó đã tạo ra một công cụ pháp lý quan trọng, góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
Mô hình tổ chức Quốc hội đã trải qua những cải cách quan trọng, đặc biệt là việc tái lập Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992, thay thế Hội đồng nhà nước Uỷ ban thường vụ Quốc hội được xác định với 11 thẩm quyền cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đặc biệt trong thời gian Quốc hội không họp thường xuyên Để hỗ trợ cho hoạt động của mình, Uỷ ban thường vụ cũng đã thành lập các cơ quan chuyên môn như Ban công tác đại biểu, Ban công tác lập pháp, Ban dân nguyện và Viện nghiên cứu lập pháp.
Các cơ quan của Quốc hội đã trải qua nhiều biến đổi quan trọng Từ 7 Ủy ban được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Quốc hội khóa mới đã có những điều chỉnh đáng kể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
28 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của Ủy ban thường vụ Quốc hội
29 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Số lượng các Ủy ban của Quốc hội đã tăng lên 9, với sự bổ sung của Ủy ban tư pháp và Ủy ban tài chính, ngân sách Nhiệm vụ và quyền hạn của các Ủy ban được phân công hợp lý hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Điều này được thể hiện qua kết quả thẩm tra các dự án luật, tham gia ý kiến về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước Các Ủy ban cũng thực hiện chương trình giám sát hàng năm về các vấn đề xã hội được cử tri quan tâm, từ đó đưa ra nhiều kiến nghị hữu ích Bên cạnh đó, Hội đồng dân tộc và một số Ủy ban đã chủ động thực hiện quyền sáng kiến pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực phụ trách.
Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) quy định rằng Quốc hội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định dựa trên ý kiến của đa số Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo thông qua các kỳ họp, hoạt động của Uỷ ban thường vụ, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban và các Đoàn đại biểu Quốc hội Để thực hiện đầy đủ chức năng và nhiệm vụ, Quốc hội đã chú trọng cải tiến phương thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của mình.
Tại các kỳ họp Quốc hội, nguyên tắc làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số được tuân thủ chặt chẽ Việc xem xét và thông qua các luật, quyết định về phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước, nhân sự cấp cao, cũng như giám sát và chất vấn được thực hiện đúng quy trình, dân chủ và hiệu quả Công tác chuẩn bị cho các nội dung chương trình kỳ họp được cải tiến, phát huy trí tuệ của đại biểu và sự đóng góp của các cơ quan liên quan Qua đó, Quốc hội khẳng định rõ vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và quyền lực nhà nước tối cao của Việt Nam, góp phần củng cố sự gắn bó với nhân dân.
30 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBKH&CN, UBKT. dân đối với Quốc hội nói riêng cũng như hệ thống chính trị nói chung
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã không ngừng đổi mới phương thức hoạt động để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ và quyền hạn của mình Việc xem xét các vấn đề thuộc thẩm quyền được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình với tinh thần trách nhiệm cao UBTVQH chú trọng cải tiến cách làm việc tại các phiên họp, tập trung vào nội dung chính, giảm bớt thủ tục báo cáo không cần thiết Các thành viên UBTVQH thể hiện ý thức cao trong việc nêu ý kiến ngắn gọn, đầy đủ và đúng trọng tâm Để nâng cao chất lượng các phiên họp, UBTVQH liên tục cải tiến cách thảo luận và giám sát thông qua đối thoại, giải trình và chất vấn Những khóa gần đây, UBTVQH đã chỉ đạo cơ quan tham mưu nghiên cứu cải tiến cách tổ chức kỳ họp Quốc hội nhằm nâng cao chất lượng và rút ngắn thời gian tiến hành.
Trong công tác chỉ đạo, điều hành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) chú trọng tăng cường chỉ đạo, điều hòa và phối hợp hoạt động đối với Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội UBTVQH khuyến khích và tạo cơ chế để phát huy vai trò của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban trong việc thẩm tra, phối hợp thẩm tra và tham gia ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết Đồng thời, UBTVQH thực hiện tốt hơn việc điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban trong hoạt động giám sát, nghiên cứu khảo sát thực tế và đối ngoại, nhằm bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và tránh trùng lắp.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đã có những đổi mới đáng kể trong hoạt động, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác Cụ thể, Hội đồng và các Ủy ban đã chú trọng vai trò chỉ đạo của UBTVQH trong việc lập chương trình và kế hoạch hoạt động, đồng thời tăng cường phối hợp với nhau cũng như với các cơ quan, tổ chức liên quan Các thành viên ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò và trách nhiệm cá nhân trong thành quả chung, từ đó tìm ra những giải pháp khoa học, phù hợp và hiệu quả hơn để triển khai nhiệm vụ.
Trong các nhiệm kỳ vừa qua, đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia vào các hoạt động của Quốc hội, đặc biệt tại các kỳ họp Họ đã cải thiện sự gắn bó với cử tri, đổi mới trong việc tiếp xúc và thực hiện Nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Các đại biểu chú trọng lắng nghe ý kiến cử tri, phát hiện các vấn đề bức xúc và tham gia đầy đủ các kỳ họp, đồng thời tích cực nghiên cứu và đóng góp ý kiến về chương trình nghị sự của Quốc hội, chấp hành nghiêm túc Nội quy kỳ họp.
Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã đổi mới cách triển khai hoạt động, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình Họ chú trọng vào xây dựng pháp luật, giám sát, tiếp xúc cử tri và tiếp công dân Đồng thời, các Đoàn cũng duy trì mối quan hệ công tác và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan ở địa phương và trung ương Những nỗ lực này góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động chung của Quốc hội.
Vào thứ năm, quan hệ giữa Quốc hội và các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị đã có những đổi mới tích cực, phát huy sức mạnh tổng hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng Mối quan hệ giữa Đảng và Quốc hội đã được cải cách, nhằm thống nhất ý Đảng và lòng dân, từ đó vừa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao vị trí của Quốc hội như cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và đại diện cho nhân dân.
Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội
cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội
Dựa trên các quy định của Hiến pháp, hoạt động lập hiến, lập pháp và giám sát tại Việt Nam đang được đổi mới và nâng cao hiệu quả Những quyết định quan trọng liên quan đến đất nước ngày càng được thực hiện một cách thường xuyên và có hệ thống.
Trong hoạt động lập hiến, lập pháp:
Hiến pháp năm 1992 được ban hành nhằm cung cấp cơ sở pháp lý cho công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng của Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 Sau gần một thập kỷ thực hiện, một số quy định trong Hiến pháp này đã bộc lộ hạn chế và không còn phù hợp với tình hình thực tế Để khắc phục tình trạng này, Quốc hội đã căn cứ vào các Điều 83, 84 và 147 của Hiến pháp năm 1992 để ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 vào ngày 25 tháng 12.
Năm 2001, Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi và bổ sung, thể chế hóa đường lối của Đảng theo Nghị quyết Đại hội IX Quốc hội đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đồng thời, việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập và tự chủ, dựa trên nội lực và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng được nhấn mạnh, góp phần vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Từ năm 1992, Quốc hội đã chú trọng và đẩy mạnh hoạt động lập pháp dựa trên Hiến pháp năm 1992, đồng thời quán triệt các chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, đạt được nhiều kết quả quan trọng trong lĩnh vực này.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã tạo ra cơ sở pháp lý cho cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tập trung vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Điều này nhằm giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, thực hiện quyền con người và quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đưa đất nước tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 Hiện tại, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã đáp ứng yêu cầu đổi mới và bảo vệ đất nước.
Nhìn chung, số lượng các văn bản luật, pháp lệnh do Quốc hội, Uỷ ban
32 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH
33 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH, UBTP, UBKT, UBTCNS
Trong giai đoạn gần đây, số lượng báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày càng tăng và chất lượng cũng được cải thiện rõ rệt Cụ thể, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX (1992 - 1997), đã có nhiều báo cáo quan trọng được phát hành.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X (1997 - 2002), đã ban hành 34 luật, bộ luật và 40 pháp lệnh Quốc hội khoá XI (2002 - 2007) đạt kỷ lục thông qua 84 luật, bộ luật nhờ vào việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và cải tiến quy trình lập pháp, trong đó có nhiều đạo luật lần đầu tiên được ban hành như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật kiểm toán nhà nước Dù nhiệm kỳ chỉ kéo dài chưa đầy 4 năm, Quốc hội khoá XII (2007 - 2011) vẫn thông qua 67 luật, bộ luật và 14 pháp lệnh.
Trong giai đoạn này, chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Các luật và pháp lệnh được ban hành đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước Những văn bản này phản ánh đúng thực tiễn đời sống kinh tế-xã hội, cho phép triển khai thực hiện ngay mà không cần chờ hướng dẫn, từ đó đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và điều hành kinh tế-xã hội.
Nội dung các vấn đề trong luật pháp Việt Nam ngày càng mở rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống như kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và an ninh Quốc hội đã quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, đồng thời điều chỉnh các quy định về hàm, cấp trong lực lượng vũ trang và các danh hiệu vinh dự của Nhà nước Nhiều văn bản luật mới đã được ban hành trong các lĩnh vực doanh nghiệp, đầu tư, ngân hàng và thuế, nhằm phù hợp với điều kiện phát triển và cam kết quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới Quốc hội cũng đã chú trọng vào việc quản lý các quan hệ kinh tế nhạy cảm như tài sản nhà nước và nợ công, đồng thời kịp thời sửa đổi các chế định pháp luật không còn phù hợp để đáp ứng nhu cầu hội nhập và bảo đảm an ninh, trật tự xã hội.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 và 2008 đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong xây dựng pháp luật Quy trình lập pháp đã được cải tiến, nâng cao chất lượng và tính dân chủ trong các văn bản pháp luật Luật năm 2008 đã thay đổi một số khâu trong quy trình lập pháp, đảm bảo tính khoa học và chặt chẽ hơn Thời gian Quốc hội thông qua chương trình xây dựng luật hàng năm đã được điều chỉnh, tạo điều kiện cho các cơ quan soạn thảo có thêm thời gian chuẩn bị Quy trình sửa đổi chương trình xây dựng luật cũng linh hoạt hơn, cho phép UBTVQH xem xét thay đổi và báo cáo Quốc hội kịp thời Ngoài ra, việc lồng ghép giới trong quy trình lập pháp đã được quy định rõ ràng Những điều chỉnh này đã chứng minh tính phù hợp và đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời tăng cường tính chủ động của các cơ quan Quốc hội trong việc hoàn thiện dự án.
Quốc hội đã áp dụng hình thức ban hành luật để sửa đổi và bổ sung một số nội dung của các luật hiện hành, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc sống Hình thức này không chỉ tiết kiệm thời gian mà còn đơn giản hóa thủ tục, đồng thời đảm bảo chất lượng của dự án luật.
Trong thời gian qua, một số Uỷ ban của Quốc hội đã chủ động đề xuất và soạn thảo các dự án luật, như Luật giao dịch điện tử và Luật phòng chống bạo lực gia đình, cho thấy năng lực lập pháp của Quốc hội ngày càng được nâng cao.
Công tác soạn thảo và thẩm tra dự án luật diễn ra tích cực với sự phân công rõ ràng giữa các cơ quan chủ trì và phối hợp Quá trình chuẩn bị được thực hiện chặt chẽ, thể hiện tinh thần cộng đồng trách nhiệm, với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức hữu quan Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế và thu thập ý kiến từ các đối tượng bị ảnh hưởng, chuyên gia, nhà khoa học và cử tri, giúp nâng cao chất lượng các báo cáo thẩm tra Những báo cáo này ngày càng thể hiện rõ chính kiến, có tính phản biện cao và dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn Công tác chỉnh lý và hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội được UBTVQH chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và thận trọng.
Các Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện nhiều hình thức thảo luận và thu thập ý kiến từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân địa phương về các dự án luật Các đại biểu luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, chủ động nghiên cứu và tích cực đóng góp ý kiến nhằm nâng cao chất lượng văn bản luật.
Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật ngày càng được chú trọng và đổi mới với hình thức đa dạng, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông Quá trình này tập trung vào các đối tượng chịu tác động trực tiếp từ văn bản luật, giúp họ dễ dàng nắm bắt những thay đổi về chính sách và pháp luật Công khai dự thảo trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là các trang thông tin điện tử, tạo điều kiện cho người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng góp ý kiến hiệu quả Qua đó, việc lấy ý kiến không chỉ thể hiện tính dân chủ và sự thận trọng trong hoạt động lập pháp mà còn huy động được trí tuệ và sự đồng thuận của nhân dân, đảm bảo tính rõ ràng, công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách.
Những hạn chế, bất cập
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quá trình thực hiện các quy định của Hiến pháp và luật về tổ chức cũng như hoạt động của Quốc hội vẫn còn một số bất cập và hạn chế cần khắc phục.
Chức năng lập hiến và lập pháp của Quốc hội đã được ghi nhận, nhưng quy trình thực hiện quyền làm và sửa đổi Hiến pháp vẫn chưa được cụ thể hóa đầy đủ Điều này dẫn đến một số bất cập và thiếu sự thống nhất trong quá trình thực hiện.
Trong hoạt động lập pháp, vẫn còn nhiều lĩnh vực chưa được điều chỉnh bằng luật, và một số luật mới ban hành có chất lượng chưa cao, thiếu tính khả thi và chậm đi vào cuộc sống Quá trình xây dựng luật chưa bám sát nhu cầu thực tiễn, dẫn đến việc phải sửa đổi nhiều lần, ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống pháp luật Dù quy trình xây dựng đã được cải tiến, nhưng vẫn chưa đồng bộ và có nhiều điểm chưa hợp lý, khiến việc thực hiện chưa nghiêm túc Hoạt động thẩm tra của các Uỷ ban đối với dự án luật thiếu tính phản biện cao, trong khi tính hợp hiến và thống nhất của hệ thống pháp luật còn hạn chế Nhiều quy định trong các văn bản luật vẫn trùng lặp hoặc mâu thuẫn với các văn bản trước đó, và quyền trình dự án luật của đại biểu Quốc hội chưa được thực hiện do thiếu cơ chế hỗ trợ.
Thứ hai, trong lĩnh vực giám sát, việc thực hiện các quy định của Hiến
37 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH
38 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH, UBPL, UBTCNS
39 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBKH&CN, UBPL, UBTP
40 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBKT
41 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH, UBPL, UBTCNS; Thông báo số 44-TB/TW ngày
31/3/2008 của Bộ Chính trị về một số vấn đề về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội
Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp chỉ ra rằng quyền giám sát tối cao của Quốc hội gặp nhiều vướng mắc do cách hiểu quá rộng về phạm vi giám sát, dẫn đến sự trùng lặp và dàn trải trong hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan liên quan Mặc dù Hiến pháp và Luật hoạt động giám sát đã quy định nhiều hình thức giám sát, nhưng hiệu quả và hiệu lực của hoạt động giám sát vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn Việc giám sát các vấn đề quan trọng như quản lý ngân sách, cải cách hành chính và giải quyết khiếu nại của công dân chưa đạt được nhiều kết quả, do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan thanh tra, kiểm tra.
Uỷ ban của Quốc hội còn nhiều bất cập
Cơ chế kiểm soát và bảo vệ Hiến pháp được thực hiện bởi nhiều chủ thể thông qua giám sát và kiểm tra, nhằm xử lý các vi phạm trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp Hoạt động này chủ yếu tập trung vào việc xem xét tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật Tuy nhiên, việc xử lý các văn bản vi phạm Hiến pháp chưa được thực hiện triệt để, và thẩm quyền hủy bỏ, đình chỉ các văn bản này hầu như không được áp dụng Hiệu quả của các kiến nghị từ Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động giám sát còn thấp Do đó, cần thiết phải nâng cao hiệu quả các thiết chế bảo vệ Hiến pháp, đặc biệt là tăng cường vai trò của Quốc hội trong nhiệm vụ này.
Quốc hội có thẩm quyền bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, thể hiện tính tiến bộ cao được ghi nhận trong Hiến pháp Tuy nhiên, quyền lực này chưa được thực hiện hiệu quả trong thực tế do thiếu nhiều điều kiện cần thiết, bao gồm quy trình, thủ tục và tổ chức bộ máy.
43 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của HĐDT, UBTCNS, UBKT
44 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH, UBTCNS, UBPL, UBTP
Thông báo số 44-TB/TW ngày 31/3/2008 của Bộ Chính trị đề cập đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội cùng Đảng đoàn Quốc hội, nhấn mạnh những vấn đề quan trọng liên quan đến tài chính và các thẩm quyền như quyết định đại xá, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, và trưng cầu ý dân Mặc dù những quyền hạn này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, nhưng hiện tại vẫn chưa có cơ chế cụ thể để Quốc hội thực hiện chúng.
Hiến pháp năm 1992 quy định rằng Quốc hội có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhưng một số nhiệm vụ và quyền hạn vẫn chưa hợp lý Cụ thể, phạm vi và tính chất của "kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội" và "chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia" chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều quyết sách quan trọng không được trình Quốc hội xem xét Một số ý kiến cho rằng các nghị quyết của Quốc hội mang tính chất điều hành chưa đảm bảo sự linh hoạt cần thiết cho Chính phủ trong nền kinh tế thị trường Mặc dù Hiến pháp quy định Quốc hội quyết định chính sách tài chính, ngân sách nhà nước, nhưng chưa có cơ chế kiểm soát thực chất, khiến Quốc hội chỉ có thể phê chuẩn một cách thụ động Điều này dẫn đến việc quyết định các vấn đề quan trọng chưa phản ánh đúng yêu cầu cuộc sống, chất lượng xem xét quyết định chưa cao, và hiệu lực thực thi còn thấp.
Mặc dù các cơ quan của Quốc hội đã được củng cố, nhưng số lượng các Ủy ban vẫn chưa tương xứng với khối lượng công việc cần thực hiện Việc nhiều thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban hoạt động kiêm nhiệm gây khó khăn cho việc duy trì chế độ làm việc tập thể và ra quyết định theo đa số.
Chủ trương tăng cường năng lực, thẩm quyền và trách nhiệm của Hội đồng dân tộc cùng các Ủy ban của Quốc hội trong quy trình lập pháp đang được triển khai, đặc biệt chú trọng vào việc thẩm tra các dự án luật và pháp lệnh Mục tiêu là nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quá trình này.
46 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTP, Ban CTĐB
47 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTCNS
48 Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của Chính phủ
Thông báo số 44-TB/TW ngày 31/3/2008 của Bộ Chính trị đề cập đến các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội cùng Đảng đoàn Quốc hội Bài báo cáo tổng kết việc thi hành Hiến pháp được trình bày bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTCNS) và Ủy ban Tư pháp (UBTP) nhằm đánh giá hiệu quả và những tồn tại trong quá trình thực hiện.
Báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp của UBTVQH, UBPL và UBTCNS cho thấy việc thảo luận, cho ý kiến và hoàn thiện các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội đang diễn ra chủ yếu tại các cơ quan của Quốc hội, tuy nhiên tiến độ thực hiện vẫn còn chậm.
Theo Điều 86 của Hiến pháp, Quốc hội họp hai kỳ mỗi năm, nhưng điều này dẫn đến bất hợp lý khi các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp phải chờ đến kỳ họp tiếp theo để được thảo luận và quyết định Trong bối cảnh phát triển đất nước nhanh chóng và nhiều biến động cả trong nước lẫn quốc tế, quy định này không đảm bảo tính linh hoạt cần thiết để bộ máy nhà nước có thể phản ứng kịp thời với thực tiễn.
Vào thứ sáu, việc một số đại biểu Quốc hội từ các cơ quan tổ chức trung ương được giới thiệu ứng cử tại địa phương là cần thiết, nhưng cũng cần cải tiến Điều này xuất phát từ thực tế rằng, với phương thức hoạt động và tính chất công việc hiện tại, các đại biểu trung ương gặp khó khăn trong việc duy trì mối liên kết chặt chẽ với cử tri tại đơn vị bầu cử của họ.
Quốc hội Việt Nam không hoạt động thường xuyên, dẫn đến việc nhiều đại biểu kiêm nhiệm các chức vụ trong bộ máy chính quyền và các tổ chức khác Mặc dù sự kiêm nhiệm này là cần thiết và phù hợp với thực tiễn, nhưng cần giới hạn ở mức độ hợp lý để tránh xung đột lợi ích và đảm bảo đại biểu có đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Những hạn chế, bất cập nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, trong đó có các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh Việt Nam vừa thoát khỏi khủng hoảng và bắt đầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Thời điểm này, đất nước chưa có sự hội nhập quốc tế sâu rộng và nhận thức về thể chế, cơ chế quản lý nhà nước còn hạn chế Một số quy định trong Hiến pháp liên quan đến quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và tổ chức quyền lực nhà nước vẫn còn mới mẻ và chưa được hiểu rõ Điều này dẫn đến việc các quy định pháp luật liên quan chưa được cụ thể hóa và thực thi còn gặp nhiều khó khăn.
Hoạt động giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh chưa được chú trọng, cùng với việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp vào các đạo luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đã gây khó khăn cho việc thực thi các quy định này Hơn nữa, ý thức tôn trọng Hiến pháp và pháp luật của một số cơ quan nhà nước, bao gồm cả một bộ phận cán bộ, công chức, còn thấp, ảnh hưởng đến hiệu lực thực tế của Hiến pháp.
Sau 25 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc và toàn diện Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng, cùng với sự phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội Điều này đã dẫn đến việc một số quy định trong Hiến pháp năm 1992 không còn phù hợp với thực tiễn hiện tại, đồng thời đặt ra nhu cầu nghiên cứu và bổ sung những vấn đề mới vào Hiến pháp.
Việc nghiên cứu và sửa đổi các quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Quốc hội là cần thiết để thể chế hóa sâu sắc hơn đường lối, chính sách của Đảng Điều này không chỉ kế thừa và phát huy những quy định hợp lý của các bản Hiến pháp trước, mà còn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa lập hiến từ các quốc gia khác Qua đó, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phục vụ lợi ích của nhân dân.
Nguyên tắc 54 của Hiến pháp khẳng định rằng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chủ yếu thông qua hình thức dân chủ đại diện Năm 2001, Hiến pháp đã bổ sung nguyên tắc về Nhà nước pháp quyền XHCN, nhấn mạnh rằng Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Quyền lực nhà nước được tổ chức thống nhất, với sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.