1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên hang kia pà cò, tỉnh hòa bình​

88 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 2,88 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU (13)
    • 1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới (13)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam (18)
    • 1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình (22)
  • Chương 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (24)
    • 2.1. Mục tiêu của đề tài (24)
      • 2.1.1. Mục tiêu tổng quát (24)
      • 2.1.2. Mục tiêu cụ thể (24)
    • 2.2. Đối tượng nghiên cứu (24)
    • 2.3. Nội dung nghiên cứu (24)
      • 3.2.1. Đánh giá tính đa dạng về thành phần loài cây thuốc: Điều tra, xây dựng danh lục các loài thực vật có tác dụng làm thuốc, phân tích, đánh giá tính đa dạng các loài cây thuốc. Bộ phận sử dụng, dạng sống, môi trường sống thông qua quá trình nghiên cứu thực địa và kết hợp kinh nghiệm của người dân bản địa (24)
      • 3.2.2. Thực trạng sử dụng cây thuốc và bài thuốc của đồng bào các dân tộc tại khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình: Sự đa dạng trong việc sử dụng cây thuốc, bộ phận sử dụng, nhóm bệnh chữa trị, (24)
      • 3.2.4. Giải pháp bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và tri thức bản địa tại Khu (25)
    • 2.4. Phương pháp nghiên cứu (25)
      • 2.4.1. Thu thập số liệu, tài liệu (25)
      • 2.4.2. Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA) (25)
      • 2.4.3. Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến và theo ô tiêu chuẩn (25)
      • 2.4.4. Phương pháp nhân giống vô tính bằng hom (thử nghiệm với Hoàng Đằng (26)
      • 2.4.5. Xử lý số liệu (27)
  • Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN (33)
    • 3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu (33)
      • 3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích (33)
      • 3.1.2. Địa chất, địa hình (33)
      • 3.1.3. Khí hậu, thủy văn (35)
      • 3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên (36)
    • 3.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội (37)
      • 3.2.1. Dân tộc, dân số và lao động (37)
      • 3.2.2. Các hoạt động kinh tế chủ yếu (37)
      • 3.2.3. Văn hóa, y tế, giáo dục (38)
      • 3.2.4. Thực trạng cơ sở hạ tầng (39)
      • 3.2.5. Những tồn tại nổi bật về kinh tế - xã hội (40)
  • Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (43)
    • 4.1. Đánh giá tính da dạng về thành phần loài cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình (43)
      • 4.1.1. Thống kê các loài cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, Tỉnh Hoà Bình . 33 4.1.2. Đa dạng về các bậc phân loại (Ngành, Họ, Chi, Loài) của các loài cây thuốc ở Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình (43)
      • 4.1.4. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống tại khu vực nghiên cứu (53)
    • 4.2. Thực trạng sử dụng cây thuốc và bài thuốc của đồng bào các dân tộc tại khu (55)
      • 4.2.1. Thực trạng sử dụng tài nguyên cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tính Hòa Bình (55)
      • 4.2.2. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận (56)
      • 4.2.3. Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loài được sử dụng (59)
      • 4.2.4. Các nhóm bệnh được đồng bào các dân tộc ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang (60)
    • 4.3. Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu (65)
      • 4.3.1. Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại (65)
      • 4.3.2. Vấn đề bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu BTTN Hang (72)
    • 4.4. Giải pháp bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa tại (75)
      • 4.4.1. Mối nguy cơ đối với tài nguyên cây thuốc, bài thuốc tại khu vực nghiên cứu (75)
      • 4.4.2. Các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc (76)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (84)
  • PHỤ LỤC (88)

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới

Vấn đề Dân tộc học và Thực vật học đã xuất hiện từ khi con người bắt đầu sống và đấu tranh với thiên nhiên Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng cây cỏ để chữa bệnh, và những kinh nghiệm này dần dần hình thành nên môn khoa học Thực vật dân tộc học Trong lịch sử y học thế giới, nhiều quốc gia và dân tộc đã phát triển kinh nghiệm sử dụng cây cỏ để chống lại bệnh tật, trong đó Trung Quốc nổi bật với nền y học cổ truyền phát triển mạnh mẽ, được truyền thuyết hóa qua hình ảnh của Vua Thần Nông (Viêm Đế).

Trong khoảng thời gian từ 3320 đến 3080 trước Công nguyên, Thần Nông đã phân loại hàng trăm loại cây cỏ và ghi chép dược tính của chúng trong cuốn sách “Thần Nông Thảo Bản” Tuy nhiên, theo các nghiên cứu khoa học về Trung Quốc, cuốn sách này thực chất được biên soạn vào thời Đông Hán, vì thời kỳ của Thần Nông không có hệ thống văn tự, và mọi thông tin đều mang tính chất huyền thoại.

"Thần nông thảo bản" đã ghi nhận 365 vị thuốc quý giá, nhiều trong số đó vẫn được áp dụng ngày nay Danh y Hoa Đà thời Tam Quốc đã sử dụng Đàn hương và Tử đinh hương để chế hương nang, hỗ trợ điều trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ Ông cũng dùng hoa Cúc và Kim ngân phơi khô trong hương chẩm để chữa đau đầu, mất ngủ và cao huyết áp Từ thời nhà Hán, cuốn "Thủ hậu bị cấp phương" đã liệt kê 52 đơn thuốc từ cây cỏ Đến giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã tổng hợp 12.000 vị thuốc trong "Bản thảo cương mục" Hiện nay, Trung Quốc đã phát triển nhiều công trình nghiên cứu về việc sử dụng cây cỏ trong y học.

Nền y học cổ truyền Ấn Độ, hình thành cách đây hơn 3000 năm, tập trung vào việc ngăn ngừa bệnh tật và sử dụng liệu pháp tự nhiên từ thực phẩm và thảo mộc để điều trị Bộ sử thi Vedas và cuốn Charaka Samhita, với 350 loài thảo dược được trình bày, là những tài liệu quan trọng trong y học cổ truyền Ấn Độ Quốc gia này đã phát triển mạnh mẽ trong nghiên cứu thảo dược, bao gồm tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết và thử nghiệm độc tính Chính phủ Ấn Độ hiện nay khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc, và nhiều viện nghiên cứu dược phẩm tham gia vào việc chuyển hóa thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.

Không chỉ Trung Quốc và Ấn Độ, nhiều quốc gia khác cũng sở hữu kinh nghiệm y học riêng Từ những năm trước Công Nguyên, chiến binh La Mã đã sử dụng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis) để làm sạch vết thương và thúc đẩy quá trình lành bệnh, điều này đã được khoa học hiện đại xác nhận là giúp làm liền sẹo bằng cách kích thích tổ chức hạt và tăng cường biểu mô hóa Người Hy Lạp cổ đại cũng áp dụng rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để chữa lành vết thương Trong thời kỳ Trung cổ ở Châu Âu, các thầy tu đã thu thập và nghiên cứu kiến thức về cây thuốc, trồng chúng và dịch tài liệu thảo mộc sang tiếng Ả Rập Năm 1649, Nicolas Culpeper đã xuất bản cuốn sách “A Physical”.

Vài năm sau khi xuất bản cuốn "Directory", ông đã cho ra mắt cuốn "The English Physician", một dược điển có giá trị và là một trong những hướng dẫn đầu tiên dành cho người không chuyên trong việc chăm sóc sức khỏe Đến nay, cuốn sách này vẫn được nhiều người tham khảo và trích dẫn rộng rãi.

Trong Y học dân gian Liên Xô, nước sắc từ vỏ cây Bạch dương (Betula alba) và vỏ cây Sồi (Quercus robus) được sử dụng để rửa vết thương và tắm ghẻ Ở Nga và Đức, cây Mã đề (Plantago major) được sắc nước hoặc giã nát lá tươi để chữa trị vết thương, viêm tiết niệu, và sỏi thận Tại Bulgaria, hoa hồng đã được sử dụng từ lâu để chữa nhiều bệnh, với cả hoa, lá và rễ được dùng làm thuốc trị huyết ứ và phù thũng Ngày nay, nghiên cứu đã chỉ ra rằng cánh hoa hồng chứa lượng tanin, glusit và tinh dầu đáng kể, không chỉ được dùng trong chế tạo nước hoa mà còn để chữa trị nhiều bệnh.

Các bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của hàng triệu người, đặc biệt là tại các quốc gia châu Phi, nơi mà tỷ lệ thầy lang cao hơn nhiều so với bác sĩ Tại Tanzania, có khoảng 30.000 – 40.000 thầy lang, trong khi chỉ có khoảng 600 bác sĩ Tương tự, Malawi cũng có gần 20.000 người hành nghề thuốc cổ truyền với số lượng bác sĩ rất ít Y học cổ truyền ở châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng Ví dụ, người Haiti sử dụng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để chữa vết thương nhiễm khuẩn và cầm máu, trong khi ở Philippines, cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) được dùng để làm thuốc cầm máu Tại Malaysia, lá Húng chanh (Coleus amboinicus) được sắc cho phụ nữ sau sinh và cho trẻ em trị sổ mũi, đau họng Ở Campuchia, Hương nhu tía (Ocimum sanctum) được sử dụng để trị đau bụng và sốt rét, cũng như làm thuốc điều trị bệnh ngoài da và khớp.

Trong chương trình điều tra tài nguyên thiên nhiên ở Đông Nam Á, Perry đã xác nhận nhiều cây thuốc trong Y học cổ truyền, trong đó có 146 loài có tính kháng khuẩn Gần đây, một tập thể các nhà khoa học đã xuất bản cuốn sách "Tài nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á" (Plant Resources of South-East Asia, Medicinal and Poisonous Plant, 2001) với 121 loài cây được ghi nhận.

Cùng với việc áp dụng phương pháp chữa bệnh dân gian, các nhà khoa học trên toàn thế giới đang nghiên cứu các hợp chất hóa học và cơ chế hoạt động của cây cỏ trong việc chữa bệnh, từ đó biên soạn những cuốn sách giá trị Họ nhận thấy rằng hầu hết các loại cây đều sở hữu tính kháng sinh, thể hiện khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật Các hợp chất tự nhiên như phenolic, antoxy, dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid và saponin có tác dụng kháng khuẩn mạnh mẽ Đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được phân tích và chiết xuất từ cây cỏ để phát triển thuốc, và từ cấu trúc đã được giải mã, con người có thể tổng hợp các chất nhân tạo phục vụ cho việc điều trị bệnh.

Năm 1950, chất Glucosid barbaloid được phân lập từ cây Lô hội (Aloe vera) cho thấy hiệu quả chống vi khuẩn lao và Bacillus subtilis Lucas và Lewis (1994) chiết xuất hoạt chất từ Kim ngân (Lonicera sp) có tác dụng với vi khuẩn gây bệnh tả, lỵ và mụn nhọt Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), berberin đã được chiết xuất, trong khi lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) chứa các hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập hoạt chất Odorin, ít độc với động vật nhưng có tác dụng kháng khuẩn Hạt cây Hẹ cũng chứa Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+ và gram-, nấm Reserpin và Serpentin, chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.), có tác dụng hạ huyết áp, trong khi Vinblastin và Vincristin từ cây Dừa cạn không chỉ hạ huyết áp mà còn chống ung thư Digitalin từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.) và strophatin từ cây Sừng dê (Strophanthus spp) được sử dụng làm thuốc trợ tim Những nghiên cứu về cấu trúc và hoạt tính của các hợp chất tự nhiên đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại thuốc chữa bệnh thông qua tổng hợp hoặc bán tổng hợp.

Ngày nay, khoa học hiện đại đã xác nhận khả năng chữa bệnh của thảo mộc, dẫn đến sự quan tâm ngày càng tăng đối với cây thuốc và y học cổ truyền Dược lý hiện đại tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính chữa bệnh, trong khi các nhà nghiên cứu thảo mộc nhấn mạnh rằng hiệu quả chữa bệnh đến từ sự kết hợp của nhiều thành phần như khoáng chất, vitamin và tinh dầu Những thành phần này không chỉ tăng cường các đặc tính chữa bệnh mà còn bảo vệ cơ thể khỏi độc tố Mặc dù các hợp chất được phân lập và tổng hợp có thể chữa bệnh hiệu quả, nhưng chúng có thể gây độc do thiếu các hợp chất tự nhiên khác Trước đây, việc sử dụng thảo dược thường bị hiểu lầm là phép thuật và mê tín dị đoan.

Theo thống kê, khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng y học cổ truyền, chủ yếu là từ cây cỏ Tại Trung Quốc, 80% trong số hơn 4.000 loài cây thuốc đã biết được sử dụng dựa trên kinh nghiệm dân tộc Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét được điều trị bằng thảo dược Sự tin tưởng vào hiệu quả của thảo dược và y học cổ truyền đang gia tăng nhanh chóng ở các quốc gia phát triển Tại châu Âu, Bắc Mỹ và nhiều nơi khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hoặc thuốc thay thế từ thảo mộc Đặc biệt, ở Đức, 90% dân số ưa chuộng các phương thuốc tự nhiên, trong khi Anh chi tới 230 triệu đôla mỗi năm cho thuốc thảo mộc.

Mặc dù nhu cầu sử dụng cây thuốc cho sức khỏe ngày càng gia tăng, nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm nghiêm trọng Nhiều loài thực vật đã tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa do hoạt động của con người Theo IUCN, trong số 43.000 loài thực vật được ghi nhận, có tới 30.000 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau, trong đó nhiều loài là cây thuốc quý hiếm với giá trị kinh tế cao Ví dụ, ở Bangladesh, các cây thuốc như Tylophora indicia và Zannia indicia, từng phổ biến, hiện nay đã trở nên hiếm hoi.

Loài Ba gạc (Rauvolfia serpentina) tự nhiên phát triển ở Ấn Độ, Bangladesh và Thái Lan, hàng năm cung cấp hàng ngàn tấn nguyên liệu cho thị trường Âu, Mỹ để sản xuất thuốc chữa cao huyết áp Tuy nhiên, do khai thác liên tục trong nhiều năm, nguồn cung cây thuốc này đã cạn kiệt, dẫn đến việc một số bang ở Ấn Độ phải đình chỉ khai thác Tương tự, loài Từ (Dioscorea sp.) ở Trung Quốc từng có trữ lượng lớn nhưng hiện nay đã giảm đáng kể, buộc phải trồng lại Một số loài cây thuốc quý như Fritillaria cirrhosa, vốn phổ biến ở Tây Bắc tỉnh Tứ Xuyên, giờ chỉ còn tồn tại ở 1 đến 2 địa điểm với số lượng rất hạn chế.

Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam

Nền y học cổ truyền Việt Nam đã sử dụng nhiều cây thuốc và bài thuốc dân gian hiệu quả từ lâu đời Qua thời gian, những kinh nghiệm quý báu này đã được ghi chép và phát triển thành các cuốn sách giá trị, được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng.

Từ thời vua Hùng Vương (2400-258 trước Công nguyên), tổ tiên ta đã sử dụng cây cỏ làm gia vị và chữa bệnh, theo các văn tự Hán Nôm còn sót lại Vào đầu thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, đất Giao Chỉ đã có hàng trăm vị thuốc như Ý dĩ, Hoắc hương, và bột đao từ cây Báng Ngoài ra, việc sử dụng Gừng để kết hợp với thực phẩm như chim, cá, và ba ba không chỉ giúp khử tanh mà còn dễ tiêu hóa Từ đó, Gừng, Hành, Tỏi trở thành những gia vị không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày nhằm phòng bệnh.

Nền Y học cổ truyền Việt Nam đã phát triển song song với lịch sử và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của nhân dân Sự tiến bộ này gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các danh y nổi tiếng trong thời kỳ đó.

Lương y Tuệ Tĩnh trong cuốn “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư” đã mô tả hơn 630 vị thuốc và 50 đơn thuốc chữa bệnh, trong đó có 37 đơn thuốc chuyên trị bệnh thương hàn, đánh dấu sự xuất hiện sớm nhất của sách thuốc Việt Nam Thời kỳ nhà Trần, Phạm Ngũ Lão đã thu thập và quản lý một vườn thuốc lớn mang tên “Sơn dược” để chữa bệnh cho quân sĩ, di tích này vẫn còn tồn tại tại xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã cho ra mắt bộ sách “Y Tông Tâm Tĩnh” với 28 tập và 66 quyển, cung cấp thông tin chi tiết về các loài thực vật và đặc tính chữa bệnh của chúng.

Trong thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), y học cổ truyền Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ dược học phương Tây, với bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương” của C Crévost và A Pétélot vào năm 1935 đã ghi nhận 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc Đến năm 1993, Nguyen Van Duong xuất bản cuốn “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam”, thống kê khoảng 1.480 loài thực vật, tuy nhiên cuốn sách này vẫn chưa hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc.

Năm 1957, Hội Đông Y Việt Nam được thành lập, dẫn dắt các lương y trong việc chữa bệnh cho nhân dân Cùng năm, Viện nghiên cứu Đông Y ra đời nhằm chỉ đạo các bệnh viện Y học dân tộc và kết hợp Y học cổ truyền với Y học hiện đại Năm 1961, Viện Dược liệu được thành lập để nghiên cứu nuôi trồng dược liệu, tiếp nhận các viện nghiên cứu Đông Y và xây dựng các vườn thuốc tại Văn Điển, Tam Đảo, và Sa Pa Đây là những mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu cây thuốc của Việt Nam.

Trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 đến 1975, vùng căn cứ ở hậu phương đã sử dụng thuốc nam và “toa thuốc căn bản” để điều trị, đồng thời phát hiện nhiều vị thuốc mới như cây Dền chữa sốt rét và Bèo tây giải độc hóa chất Sau khi miền Nam được giải phóng, y dược học dân tộc đã phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc, với nhiều công trình nghiên cứu và giảng dạy về y học cổ truyền, bao gồm phòng bệnh, dưỡng sinh, xoa bóp, châm cứu, và việc kết hợp giữa y học cổ truyền và hiện đại, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Nhiều tác giả đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu tài nguyên thực vật làm thuốc tại Việt Nam Đỗ Tất Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, thống kê gần 800 loài thực vật và vị thuốc với thông tin chi tiết về cấu tạo, phân bố, cách thu hái, chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng Võ Văn Chi (1997) trong cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” đã mô tả 3.200 loài cây thuốc, trong đó có 2.500 loài thực vật có hoa được phân loại theo hệ thống của Takhtajan Ông cũng cung cấp thông tin về cách nhận biết, bộ phận sử dụng, nơi sống, thành phần hóa học và công dụng của các loài thực vật Năm 2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp đã giới thiệu cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam”, mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao với các đặc điểm hình thái, sinh thái và công dụng Đến năm 2012, Võ Văn Chi đã tái bản và chỉnh sửa “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, nâng tổng số loài làm thuốc lên gần 4.700.

Trong nghiên cứu cây thuốc, Viện Dược liệu (Bộ Y Tế) đã có nhiều đóng góp quan trọng, bao gồm việc giới thiệu 159 loài cây thuốc trong “Sổ tay cây thuốc Việt Nam” của Đỗ Huy Bích và nhóm nghiên cứu vào năm 1980 Năm 1993, Viện Dược liệu tiếp tục phát hành “Tài nguyên Cây thuốc Việt Nam”, liệt kê khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và sử dụng trên toàn quốc Những công trình này không chỉ cung cấp thông tin quý giá về cây thuốc mà còn góp phần vào việc bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên dược liệu của Việt Nam.

(1994), “Selected medicinal plants in Vietnam” (2001), và gần đây nhất là cuốn

“Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” (2004) [3, 40, 41,48]

Nguyen Van Duong (1993) đã cho ra mắt cuốn sách "Cây thuốc Việt Nam, Campuchia và Lào", trong đó mô tả ngắn gọn 879 loài cây thuốc và công dụng của chúng.

Trần Đình Lý và cộng sự đã xuất bản cuốn sách "1900 loài cây có ích", cung cấp thông tin về 76 loài thực vật cho nhựa thơm, 160 loài chứa tinh dầu, 260 loài sản xuất dầu béo, 600 loài chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa và 40 loài song mây tại Việt Nam Nhiều trong số các loài thực vật này được sử dụng làm thuốc, góp phần quan trọng vào y học cổ truyền.

Ngô Trực Nhã trong tác phẩm "Cây thuốc trong trường học" đã góp phần vào việc nâng cao nhận thức về giá trị của cây thuốc Nhiều cuốn sách nghiên cứu tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam, như bộ sách "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" của Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005), cung cấp thông tin chi tiết về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và công dụng của các loài thực vật Bộ sách này là tài liệu quan trọng cho việc tra cứu hệ thực vật và các thành phần cây thuốc, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Theo Viện Dược liệu – Bộ Y tế, Việt Nam hiện có khoảng 3.948 loài cây thuốc quý, thuộc 307 họ và 9 ngành thực vật, bao gồm cả nấm Những số liệu này được thu thập từ kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc trên toàn quốc.

Trong những năm qua, các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã tiến hành nhiều nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là y học cổ truyền của các dân tộc miền núi phía Bắc Nghiên cứu đáng chú ý bao gồm đề tài bảo vệ tri thức bản địa liên quan đến đa dạng sinh học và ứng dụng tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus cochinchinesis) trong điều trị u tiền liệt tuyến Năm 2001, Nguyễn Thị Phương Thảo cùng cộng sự đã điều tra tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng thực vật làm thuốc của các cộng đồng Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh, thu thập được 362 loài thực vật Năm 2005, một nghiên cứu về tác động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên thực vật tại Chiềng Yên – Mộc Châu – Sơn La đã thống kê 209 loài cây thuốc do người Mường sử dụng và 176 loài do người Dao.

Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2001) đã nghiên cứu về "Cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở Con Cuông, tỉnh Nghệ An", trong khi Trần Văn Ơn (2002) đóng góp vào việc nghiên cứu và bảo tồn cây thuốc tại Vườn Quốc gia Ba Vì.

Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò trước đây gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho người dân Người dân đã tự tìm hiểu và phát hiện nhiều loài cây rừng có tác dụng chữa bệnh, và tri thức này đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ Một số ít người, chủ yếu là các bà mế, ông lang, đã trồng một số cây thuốc trong vườn nhà, nhưng số lượng vẫn còn hạn chế Do đó, họ vẫn tiếp tục khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc từ rừng để phục vụ nhu cầu chữa bệnh và trao đổi mua bán.

Năm 2003, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã thực hiện đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng luận cứ khoa học bảo vệ tri thức bản địa liên quan đến việc sử dụng đa dạng sinh học tại khu bảo tồn thiên nhiên này.

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tiến Bân và cộng sự về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào Thái tại huyện Mai Châu, Hòa Bình đã được triển khai, góp phần làm rõ giá trị của cây thuốc trong đời sống cộng đồng.

Vào năm 2009, trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa Trung tâm Con người và thiên nhiên với khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tác giả Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý đã thực hiện báo cáo "Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình" Nghiên cứu này không chỉ điều tra cách sử dụng thực vật của cộng đồng người Mông mà còn ghi nhận 6 bài thuốc truyền thống của họ Tuy nhiên, tên các loài cây thuốc trong bài thuốc chỉ được ghi bằng tiếng H’Mông, gây khó khăn cho việc thu thập thông tin về kiến thức và kinh nghiệm của cộng đồng này.

Vào năm 2011, Đỗ Sĩ Hiến đã tiến hành nghiên cứu các loài cây thuốc được sử dụng bởi đồng bào dân tộc Mường trong khuôn khổ Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp Tác giả đã công bố 405 loài cây thuốc trong công trình nghiên cứu của mình.

Năm 2011, Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã công bố nghiên cứu về các loài thực vật được người Mường sử dụng làm thuốc trị bệnh thận tại khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò Nghiên cứu này được trình bày trong Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật tại Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ tư ở Hà Nội.

Đến nay, chưa có nghiên cứu nào công bố về tổng hợp nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò Hơn nữa, cũng chưa có dự án nào được triển khai nhằm bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc trong khu vực này.

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu của đề tài

2.1.1 Mục tiêu tổng quát Đặt nền tảng cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thực vật, góp phần vào viê ̣c bảo tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng như trong khu vực

2.1.2.1 Tập hợp được một cách có hệ thống các loài thực vật được ghi nhận làm thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình

2.1.2.2 Tìm hiểu thực trạng sử dụng và phát triển tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình

2.1.2.3 Đưa ra giải pháp bảo tồn một số loài cây làm thuốc có giá trị.

Đối tượng nghiên cứu

Các loài thực vật bâ ̣c cao có ma ̣ch được ghi nhận làm thuốc ở khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, tỉnh Hòa Bình

Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013, đồng bào tại Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình đã lưu trữ và sử dụng một số bài thuốc quý từ cây thuốc Bài viết này tập trung vào thực trạng sử dụng tài nguyên cây thuốc trong khu vực, phản ánh giá trị văn hóa và y học của cộng đồng địa phương.

Nội dung nghiên cứu

3.2.1 Đánh giá tính đa dạng về tha ̀nh phần loài cây thuốc: Điều tra, xây dựng danh lục các loài thực vật có tác dụng làm thuốc, phân tích, đánh giá tính đa dạng các loài cây thuốc Bộ phận sử dụng, dạng sống, môi trường sống thông qua quá trình nghiên cứu thực địa và kết hợp kinh nghiệm của người dân bản địa 3.2.2 Thực trạng sử dụng cây thuốc va ̀ bài thuốc của đồng bào các dân tộc ta ̣i khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình: Sự đa dạng trong việc sử dụng cây thuốc, bộ phận sử dụng, nhóm bệnh chữa trị,

3.2.3 Thực trạng khai thác, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình

3.2.4 Giải pháp bảo tồn va ̀ phát triển các loài cây thuốc và tri thức bản địa tại Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình.

Phương pháp nghiên cứu

2.4.1 Thu thập số liệu, tài liệu

Phương pháp kế thừa bao gồm việc thu thập dữ liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như báo cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, luận văn, luận án và các tài liệu trên internet.

2.4.2 Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA)

Để thu thập và phát hiện các bài thuốc cũng như cây thuốc theo kinh nghiệm dân gian, chúng tôi đã phỏng vấn đồng bào và các cán bộ quản lý, đặc biệt là các ông lang, bà mế, và lương y dân tộc Mường tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình Quá trình này bao gồm việc sử dụng bảng câu hỏi đã được xây dựng sẵn hoặc phỏng vấn mở để ghi nhận thông tin Mỗi cây thuốc và bài thuốc được thu thập đều có mẫu thu và ghi chép đầy đủ các thông tin cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng và giá cả thị trường (phụ lục 2).

Trước khi thực hiện điều tra phỏng vấn và thảo luận nhóm tại các thôn, bản, chúng tôi thường tiếp cận Ban Quản lý Khu Bảo tồn, lãnh đạo các xã và đại diện các ban ngành để thu thập thông tin cơ bản Ngoài việc tìm hiểu về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của cộng đồng địa phương, chúng tôi còn chú trọng đến phong tục tập quán, kiến thức bản địa, cũng như các vấn đề liên quan đến quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng Đặc biệt, chúng tôi quan tâm đến thị trường tiêu thụ sản phẩm từ rừng, với trọng tâm là cây thuốc.

2.4.3 Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến va ̀ theo ô tiêu chuẩn Điều tra theo tuyến nhằm thu thập các loài thực vật làm thuốc ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò Trước hết phải khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra Tuyến được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho khu bảo tồn Trên các tuyến lâ ̣p ra các ô tiêu chuẩn đa ̣i diê ̣n, điển hình cho từ ng tra ̣ng thái, từng kiểu rừng (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997, 2007, Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006)

Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây trong phạm vi 10 m mỗi bên Mỗi loài lấy 5-6 tiêu bản

Sau gần một năm thực hiện hai chuyến điều tra thực địa, chúng tôi đã thu thập thông tin và mẫu vật trong khu vực nghiên cứu với sự hỗ trợ từ Ban Quản lý khu BTTN Hang Kia - Pà Cò, các trạm kiểm lâm và sự giúp đỡ của các ông lang, bà mế.

* Các tuyến điều tra thực địa là:

+ xã Cun Pheo: tuyến núi Cun, tuyến Tà Phèng

+ xã Hang Kia: tuyến đi Pá Khôm, tuyến đi Bản Hang Kia

Xã Pà Cò có nhiều tuyến đường quan trọng như tuyến đi Pà Háng Con, Pà Cò Lớn, Pà Háng Lớn, Chà Đáy, Sài Lình và Bản Căng, kết nối các khu vực lân cận và tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và phát triển kinh tế địa phương.

+ xã Bao La: tuyến đi Bản Bấu

+ xã Tân Sơn: tuyến đi Bò Báu, tuyến đi Tam Hoà

* Các ông lang, bà mế đã phỏng vấn là:

Tại xã Tân Sơn, có các nhân vật như Ông Bạch Chí Tình ở xóm Bàu Báu và Bà Bàn Thị Hoa, Bà Triệu Thị Hồng, Bà Triệu Thị Hà ở xóm Bò Liêm, K81, cùng với Bà Quách Thị Đông tại xóm Tam Hoà Ở xã Pà Cò, nổi bật là Bà Bùi Thị Lương thuộc thôn Sài Lình, Ông Sùng A Lò, Ông Sùng A Chư, Bà Sùng Y Dê ở xóm Chà Đáy, và Ông Sùng A Sùng tại xóm Pà Cò.

+ xã Hang Kia (Bà Bùi Thị Lý, thôn Pà Khóm, Bà Quách Thị Thái, thôn Pà Khóm; Ông Vàng A Cơ, vàng A Páo, bản Hang Kia)

+ xã Cun Pheo (Bà Bàn Thị Miêng và Lương Thị Nâng, Bản Pheo)

+ Và các cán bộ, người dân khác

2.4.4 Phương pháp nhân giống vô tính bằng hom (thử nghiê ̣m với Hoàng Đằng Fibraurea tinctoria)

Hom được lấy từ cây me thành thục trong tự nhiên, cắt hom có chiều dài từ 8-10 cm và ngâm vào dung dịch Benlat 0,1% trong 15 phút để diệt nấm Sau đó, xử lý bằng thuốc điều hòa sinh trưởng Axit β-indol axetic (IAA) với nồng độ 2.000 ppm trong 15 giây Đây là thử nghiệm ban đầu, vì vậy chúng tôi chưa có điều kiện thực hiện nhiều thí nghiệm ở các nồng độ khác nhau của chất điều hòa sinh trưởng.

Phương pháp chuyên gia dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia trong việc xác định tên khoa học và các thuật ngữ liên quan đến bệnh được chữa trị Các mẫu thực vật, sau khi được định loại chủ yếu bởi các chuyên gia tại phòng Thực vật của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, được lưu trữ tại bảo tàng thực vật thuộc viện này.

+ Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa Thìn,

Các tiêu bản tươi được thu thập từ thực địa trong các năm 1997 và 2007 đã được xử lý tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Sau khi sấy khô, các mẫu được ngâm trong dung dịch cồn 0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và ngăn chặn côn trùng phá hoại Cuối cùng, các mẫu tiêu bản được sấy khô, ép phẳng và trình bày trên giấy bìa cứng kích thước 28 cm x 42 cm.

Xác định và chỉnh lý tên khoa học của các loài thực vật dựa trên các tài liệu quan trọng như "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ, "Thực vật chí Việt Nam" và "Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam" cùng nhiều tài liệu liên quan khác là một bước cần thiết để đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong việc nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học.

+ Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ Sách

Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam gồm 3 tập [4,5,6], được xây dựng theo nguyên tắc phát triển của các ngành thực vật từ Lá thông đến thực vật Hạt kín Trong mỗi ngành, các họ, chi, loài được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái Đặc biệt, ngành thực vật Hạt kín được chia thành 2 lớp: Hai lá mầm và Một lá mầm, với cách sắp xếp tương tự Danh lục không chỉ cung cấp tên khoa học và tên Việt Nam của các loài mà còn bao gồm thông tin về công dụng, dạng sống, môi trường sống, bộ phận sử dụng và cách thức sử dụng các loài thực vật làm thuốc, như được thể hiện trong bảng 2.1.

Bảng 2.1 Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)

Do sự phức tạp trong tên gọi bằng tiếng Việt của các loài cây thuốc, mỗi cây thường có nhiều tên khác nhau tùy theo từng dân tộc Trong bảng danh mục, chúng tôi trình bày tên gọi phổ biến của cây thuốc kèm theo các tên của dân tộc tương ứng, được đánh dấu bằng chữ cái đầu của dân tộc trong ngoặc, như tên dân tộc Dao (D), Mường (M), H’Mông (HM), Thái (T),…

Để bảo tồn đa dạng sinh học, cần xác định các loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò Dựa trên danh mục thực vật, chúng ta sẽ lập danh sách các loài quý hiếm, với tiêu chí dựa vào các công trình nghiên cứu trước đây nhằm đánh giá mức độ nguy cơ của từng loài.

- Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2011 [22];

Nghị định số 32 của chính phủ quy định về bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm, trong đó nhấn mạnh việc đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc Nghiên cứu này xem xét dạng sống và môi trường sống của các loài cây thuốc, cũng như tần suất sử dụng các bộ phận và số lượng các bộ phận được sử dụng làm thuốc, theo số liệu từ Viện Dược liệu năm 2006.

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN

Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu

3.1.1 Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích

3.1.1.1 Vị trí địa lý, diện tích:

Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò tọa lạc tại hai xã vùng cao Hang Kia và Pà Cò, cùng với một phần rừng núi đá vôi nhỏ còn sót lại thuộc bốn xã Cun Pheo, Piềng Vế, Bao La và Tân Sơn Khu vực này chạy dọc theo ranh giới với khu bảo tồn nằm trong địa phận xã Tân Sơn và Hang Kia.

Tọa độ địa lý: - Từ 20 0 40’30’’ đến Từ 20 0 45’30’’ độ vĩ Bắc

- Từ Từ 104 0 51’20’’ đến 105 0 00’35’’ độ kinh Đông Độ cao so với mực nước biển: Độ cao thấp nhất  200 m; Độ cao cao nhất 

Khu Bảo tồn có tổng diện tích tự nhiên là 7.091 ha, tuy nhiên theo quy hoạch mới, diện tích này chỉ còn lại 6.462,2 ha, phần diện tích còn lại sẽ được quy hoạch thành rừng sản xuất.

3.1.1.2 Ranh giới khu bảo tồn Hang Kia – Pà Cò:

Khu vực này nằm ở phía Bắc giáp với các xã Lóng Luông và Chiềng Yên thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, trong khi phía Nam tiếp giáp với các xã Cun Pheo, Piềng Vế và Bao La của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

Xã nằm ở phía Đông giáp với các xã Đồng Bảng và Nà Mèo thuộc huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, trong khi phía Tây giáp với các xã Xuân Nha và Lóng Luông của huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Khu bảo tồn có nền địa chất với lịch sử kiến tạo từ kỷ Đệ Tam (Tortiazv), khoảng 220 triệu năm trước, chịu ảnh hưởng từ hoạt động tạo sơn Indexin trong kỷ Triat Địa hình nơi đây chủ yếu là núi đá vôi có tuổi địa chất trẻ, với các dãy núi được xem là núi trẻ có đỉnh nhọn Tuy nhiên, quá trình bào mòn tự nhiên không diễn ra mạnh mẽ, tạo nên những đặc điểm địa hình độc đáo.

+ Đá mẹ: Đá mẹ trong khu bảo tồn thuộc 3 nhóm chính:

- Đá Trầm tích mà Đá Vôi, Cuội Sỏi kết là đại diện cơ bản, rộng khắp

- Đá Mác ma a xít với các loại đá phổ biến như Granit, Sa thạch khối, Phấn sa, Đá sét, có rải rác

- Đá biến chất với nhiều loại khác nhau nhưng không nhiều

Ngoài hệ thống núi đá vôi phân bố theo dải, các loại đá mẹ như đá sét, phiến thạch sét, phấn sa, sa thạch thô và cuội kết thường không đại diện và phân bố theo vệt, theo vùng nhỏ trên nền đá vôi cổ Sự đa dạng về đá mẹ này đã tạo ra nhiều loại đất khác nhau, tạo điều kiện cho sự phân bố của nhiều loài cây ưa thích các loại đất đá khác nhau trong khu vực.

+ Các loại đất chính trong khu vực: Theo luận chứng kinh tế kỹ thuật, trong khu BTTN Hang Kia – Pà Cò có 5 nhóm đất chính như sau:

- Đất Feralit mùn trên núi đá vôi nằm trên đỉnh các núi đá vôi có diện tích nhỏ ( 25,5 ha)

- Đất dốc tụ chân núi đá vôi (460,4 ha)

- Đất dốc tụ chân núi đá sét (2907 ha)

- Đất Feralit xám trên đá mẹ phiến sét (5578,3 ha)

- Đất Feralit xám trên nền đá Sa thạch (457,5ha)

Đất trong khu vực chủ yếu là đất sét nhẹ tới đất thịt nhẹ, có màu nâu vàng hoặc vàng nhạt, với tầng đất dày và thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình Đặc điểm của đất là tơi xốp, độ ẩm từ thấp đến trung bình, kết cấu viên nhỏ và có tầng mùn trung bình, nhưng dễ bị rửa trôi và khô cứng Khu vực mất rừng có nguy cơ rửa trôi cao và thoái hóa nhanh, đặc biệt là trên núi đá vôi, gây khó khăn cho việc phục hồi rừng Ngược lại, đất ở nơi còn rừng hoặc có tính chất đất rừng sẽ thuận lợi hơn cho quá trình phát triển và phục hồi rừng.

Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò nằm ở phía Tây Bắc, có địa hình núi đất và núi đá vôi, với độ cao từ 800m đến 1500m, trung bình 1000m so với mặt biển Khu vực phía tây bắc có độ cao trung bình trên 1100m, trong khi đỉnh Pà Khốm đạt 1.526m, là đỉnh cao nhất của khu bảo tồn Vùng giữa và phía đông có độ cao thấp hơn, dao động từ 800 – 1000m, chủ yếu là sườn và dông núi của bốn hệ thống núi.

+ Hệ thống núi đá vôi ranh giới giữa xã Pà Cò và xã Hang Kia

Hệ thống núi đá vôi xen kẽ với núi đất kéo dài từ Bản Căng đến Thung Ẩn và Thung Mặn, đồng thời tiếp tục theo hướng từ Xà Lĩnh đến Bò Báu thuộc xã Tân Sơn, sau đó mở rộng đến Bao La và Piềng Vế.

Các hệ thống núi trong khu bảo tồn có hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam, xen kẽ là các thung lũng hẹp và dải đất dốc tụ chân núi, là nơi canh tác quan trọng của đồng bào Mông, Thái, Mường Địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi và nhiều dông núi phụ, tạo ra thung, áng, khe suối cạn và các lỗ hút nước do hiện tượng cac-tơ Khu bảo tồn có độ dốc trung bình 20-25 độ, nhiều nơi vượt quá 35 độ, gây khó khăn trong di chuyển Địa hình thuộc loại trung và tiểu địa hình vùng núi, càng gần đỉnh núi đá vôi, độ cao và độ dốc càng lớn, với nhiều sườn núi đá và vách đá dựng đứng Sự phức tạp và chia cắt của địa hình là yếu tố quan trọng tạo nên sự đa dạng về thực vật và hoàn cảnh rừng.

+ Mùa: Khí hậu chia 2 mùa rõ rệt:

Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 với nhiệt độ trung bình dao động từ 20 đến 25 độ C Trong thời gian này, lượng mưa lớn thường tập trung, chiếm tới 85-90% tổng lượng mưa hàng năm, và độ ẩm trung bình đạt khoảng 80-85%.

Mùa lạnh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, với nhiệt độ thường dưới 20°C Trong các đợt rét, nhiệt độ có thể giảm xuống dưới 13°C, thậm chí có lúc xuống tới 3-5°C Mặc dù mùa khô chỉ chiếm 10-15% lượng mưa cả năm, nhưng không khí vẫn không khô, độ ẩm cao từ 70-80%, thường xuyên có sương mù và thời tiết ẩm ướt.

Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1700 đến 2000mm, với mùa mưa thường gây ra tình trạng ngập úng cục bộ trong thời gian ngắn tại các thung, khe, hoặc quanh các lỗ hút nước xuống sông suối ngầm Trong mùa khô, nguồn nước ở các khe suối thường cạn kiệt, thậm chí có nơi chỉ còn lại bùn lầy, trong khi nước ngọt chủ yếu tập trung tại các mỏ.

+ Sương mù: Tháng 1 và 2 trong mùa lạnh thường có sương mù

+ Sương muối: Thông thường không có sương muối trong năm nhưng đôi khi có nhẹ không gây hại

Hướng gió chủ yếu trong khu bảo tồn là Đông Bắc và Đông Nam Từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, thỉnh thoảng xuất hiện gió Tây khô nóng, kéo dài từ 2 đến 4 ngày, với tốc độ gió đạt 10-15 m/s.

+ Mưa đá: Tần suất xuất hiện mưa đá rất nhỏ

Khu bảo tồn không có sông hay suối lớn, nhưng có hệ thống suối nhỏ từ dãy núi giáp ranh với Sơn La, chảy giữa các xã Pà Cò và Hang Kia xuống vùng trung tâm Các suối này có đoạn lộ, đoạn mất và không có nước quanh năm Mật độ suối thấp, dù độ dốc lớn, nhưng do có nhiều hút nước, sông ngầm và hang động trong vùng đá vôi, nên chỉ xảy ra lũ cục bộ trong những ngày mưa lớn và rất ít nước vào mùa khô.

Đặc điểm kinh tế, xã hội

3.2.1 Dân tộc, dân số và lao động

Khu BTTN trải dài qua 5 xã: Hang Kia, Pà Cò, Tân Sơn, Cun Pheo và Bao La, với diện tích chủ yếu tập trung ở Hang Kia và Pà Cò Đến tháng 5 năm 2010, tổng dân số khu vực này đạt 11.188 người, sinh sống trong 2.320 hộ gia đình, với sự hiện diện của 4 dân tộc Dân tộc H’Mông chiếm 44,4%, tiếp theo là Mường 43,2%, Thái 8,7% và Kinh 3,7%, bên cạnh một số ít người Dao và Hoa Nhờ công tác kế hoạch hóa gia đình hiệu quả, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên duy trì ở mức 1,5%, với mật độ dân số trung bình 85,5 người/km², chủ yếu tập trung tại các trung tâm xã.

Tổng số lao động trong khu vực là 5.301 người, chiếm 47,4% tổng dân số, trong đó lao động nông lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất với 92,5% Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo, có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ khoảng 5%, điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả lao động trong các ngành nghề tại địa phương.

3.2.2 Các hoạt động kinh tế chủ yếu:

Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của các xã có khu bảo tồn, là nguồn thu nhập chính cho các hộ nông dân, với trọng tâm là trồng trọt và chăn nuôi Diện tích đất nông nghiệp toàn khu bảo tồn thiên nhiên đạt 2899,5 ha, chiếm 21,5% diện tích tự nhiên, trong đó cây ăn quả chiếm 699,2 ha (320 ha tại xã Hang Kia – Pà Cò) và cây lương thực như ngô, lúa chiếm 2.200,3 ha, tương đương 75,8% diện tích đất nông nghiệp Mỗi hộ trung bình canh tác 1,3 ha, với sản lượng lương thực bình quân đạt 360 kg/người/năm.

Do đặc điểm địa hình, nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp thường thiếu trong mùa khô, dẫn đến 85-90% diện tích trồng cây lương thực chỉ canh tác 1 vụ Hơn nữa, kỹ thuật canh tác lạc hậu và việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, khiến năng suất trồng trọt tăng nhưng vẫn chậm.

Chăn nuôi đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất lượng, hướng tới sản xuất hàng hóa Tuy nhiên, phương pháp chăn nuôi hiện tại vẫn chủ yếu theo hình thức hộ gia đình, thiếu quy mô công nghiệp và trang trại Tổng đàn gia súc trong vùng dự án đạt 16.889 con, bao gồm 2.135 trâu, 2.122 bò, 1.914 ngựa, 6.570 lợn và 26.844 gia cầm như gà, vịt, dê.

3.2.3 Văn hóa, y tế, giáo dục:

Toàn bộ các xã trong khu bảo tồn đã được phủ sóng đài truyền thanh, truyền hình và điện lưới quốc gia, đồng thời mạng lưới viễn thông cũng đang phát triển, giúp cải thiện việc trao đổi thông tin và cập nhật tin tức Đặc trưng văn hóa trong khu vực này là sự cộng đồng và bản sắc địa phương của vùng núi Tây Bắc Để bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa, chính quyền và ngành văn hóa đã chú trọng đầu tư cho các hoạt động văn hóa thông tin.

Các xã đều có trạm y tế kiên cố hoặc bán kiên cố, với đầy đủ phòng chức năng và mạng lưới y tế đang được cải thiện Hầu hết các xã đã có bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ sinh và cộng tác viên thôn bản Tuy nhiên, trang thiết bị y tế còn thiếu và chưa đồng bộ, chỉ đáp ứng được cho bệnh nhân nhẹ và thông thường, trong khi các ca nặng cần sơ cứu và chuyển lên bệnh viện tuyến trên Công tác tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình đã đạt hiệu quả, với tỷ lệ tăng dân số hiện tại là 1,5% Theo số liệu điều tra, trung bình có 1 giường bệnh cho 393 người và 1 cán bộ y tế cho 367 người.

Các xã trong khu vực có trường tiểu học và trường phổ thông cơ sở được xây dựng kiên cố, không còn tình trạng trường lớp tạm bợ và học ca ba Chỉ có một trường cấp II và một lớp cấp III tại xã Pà Cò, trong khi học sinh phổ thông trung học ở các xã khác phải ra huyện học Chính quyền đã chú trọng đến giáo dục mầm non, với khoảng 82,5% trẻ em trong độ tuổi đến trường Tỷ lệ học sinh tham gia học cấp I đạt 89,7%, tỷ lệ đậu tốt nghiệp tiểu học là 97% Tuy nhiên, tỷ lệ theo học cấp II giảm xuống 82,5% và cấp III chỉ còn 24,6% Đặc biệt, độ tuổi học sinh lớp 8-9 có tỷ lệ bỏ học cao do nhiều nguyên nhân như thiếu tự giác trong học tập, hoàn cảnh gia đình khó khăn và khoảng cách xa trường Đội ngũ giáo viên hiện tại chỉ đáp ứng 70-80% nhu cầu, với trình độ không đồng đều, chủ yếu là giáo viên địa phương và một số giáo viên tăng cường.

3.2.4 Thực trạng cơ sở hạ tầng

Hệ thống giao thông và điện trong các xã thuộc khu bảo tồn đã được phát triển tương đối hoàn chỉnh, với đường ô tô kết nối đến trung tâm xã Khoảng 75% hộ gia đình trong khu vực này hiện đang sử dụng điện lưới quốc gia.

Khu BTTN có khoảng 62 km đường ô tô, bao gồm 10 km đường quốc lộ 6A và hơn 55 km đường dân sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển giữa các xã Tuy nhiên, việc tiếp cận các bản còn gặp khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của các bản, nhất là những bản xa trung tâm.

Tại hai xã Hang Kia và Pà Cò, hệ thống thủy lợi gần như không tồn tại, khiến việc canh tác nông nghiệp của người dân phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, dẫn đến tình trạng bấp bênh Về nguồn nước sinh hoạt, khu vực này có 380 bể chứa nước, 95 giếng nước và gần 14.000 mét ống dẫn nước các loại Đặc biệt, xã Hang Kia không có giếng nước, gây khó khăn trong việc cung cấp nước sinh hoạt trong mùa khô.

3.2.5 Những tồn tại nổi bật về kinh tế - xã hội:

Tình hình kinh tế xã hội trong khu bảo tồn đang đối mặt với nhiều khó khăn, với đời sống người dân còn thấp và tỷ lệ hộ nghèo vượt quá 30% Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo đói bao gồm thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, trình độ lao động thấp và số lượng con cái đông Đặc biệt, thiên tai và dịch bệnh trong những năm gần đây đã gây thiệt hại nặng nề cho nông dân trong khu vực.

Hai xã Hang Kia và Pà Cò thuộc Khu BTTN nằm trong diện 135 của Chính Phủ, đã nhận được nhiều hỗ trợ từ các dự án phát triển.

Chương trình 661 tập trung vào trồng rừng và bảo vệ rừng, trong khi chương trình 134 hỗ trợ xây dựng nhà cho hộ nghèo Ngoài ra, chương trình 135 và chương trình 138 hướng đến việc định canh, định cư cho các cộng đồng Ngân hàng Thế giới (WB) cũng triển khai chương trình giảm nghèo cùng với dự án tín dụng nhỏ, dự án thổ cẩm và dự án phát triển cây chè Tuyết nhằm nâng cao đời sống cho người dân.

HÌNH 3.1 BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG THẢM THỰC VẬT RỪNG KHU BTTN

HANG KIA – PÀ CÒ, TỈNH HOÀ BÌNH

HÌNH 3.2 BẢN ĐỒ PHÂN KHU QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TẠI KHU

BTTN HANG KIA – PÀ CÒ, TỈNH HOÀ BÌNH

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 11/04/2022, 20:51

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Tiến Bân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín (Magnoliophyta - Angiospermae) ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 532 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín (Magnoliophyta - Angiospermae) ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tiến Bân
Nhà XB: Nxb. Nông nghiệp
Năm: 1997
2. Nguyễn Tiến Bân (chủ biên) (2003, 2005), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, Nxb. Nông Nghiệp, Hà Nội, Tập 2, 3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh lục các loài thực vật Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Nông Nghiệp
3. Đỗ Huy Bích và cộng sự (tập thể nghiên cứu Viện Dược liệu) (2004), Cây thuốc và động vật làm thuốc, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Tập 1-2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây thuốc và động vật làm thuốc
Tác giả: Đỗ Huy Bích và cộng sự (tập thể nghiên cứu Viện Dược liệu)
Nhà XB: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2004
4. Birdlife, Liên minh châu âu, Viện điều tra quy hoạch rừng (2004), Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, Thông tin về các khu bảo vệ hiện có và đề xuất ở Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò
Tác giả: Birdlife, Liên minh châu âu, Viện điều tra quy hoạch rừng
Năm: 2004
5. Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2007), Sách đỏ Việt Nam, Phần II - Thực vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách đỏ Việt Nam, Phần II - Thực vật
Tác giả: Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội
Năm: 2007
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vụ Khoa Học Công Nghệ và chất lượng sản phẩm (2000), Tên cây rừng Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tên cây rừng Việt Nam
Tác giả: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vụ Khoa Học Công Nghệ và chất lượng sản phẩm
Nhà XB: Nxb. Nông nghiệp
Năm: 2000
7. Võ Văn Chi (1991), Cây thuốc An Giang, Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật An Giang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây thuốc An Giang
Tác giả: Võ Văn Chi
Năm: 1991
8. Võ Văn Chi (1997), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Y học Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển cây thuốc Việt Nam
Tác giả: Võ Văn Chi
Nhà XB: Nxb. Y học Tp. Hồ Chí Minh
Năm: 1997
9. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nxb. Y học Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển cây thuốc Việt Nam
Tác giả: Võ Văn Chi
Nhà XB: Nxb. Y học Tp. Hồ Chí Minh
Năm: 2012
10. Võ Văn Chi và Trần Hợp, (1999), Cây cỏ có ích ở Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ây cỏ có ích ở Việt Nam
Tác giả: Võ Văn Chi và Trần Hợp
Nhà XB: Nxb. Y học
Năm: 1999
12. Vũ Văn Chuyên (1976), Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc, Nxb. Y học Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc
Tác giả: Vũ Văn Chuyên
Nhà XB: Nxb. Y học Hà Nội
Năm: 1976
13. Nguyễn Thượng Dong (chủ biên) (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Giáo trình sau đại học, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 685 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, Giáo trình sau đại học
Tác giả: Nguyễn Thượng Dong (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2006
14. Lê Trần Đức (1997), Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu
Tác giả: Lê Trần Đức
Nhà XB: Nxb. Nông nghiệp
Năm: 1997
15. Gary J. Martin (2002), Thực vật dân tộc học (Sách về bảo tồn của chương trình “Con người và cây cỏ”), 363 trang. Nxb. Nông nghiệp. (Sách dịch) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực vật dân tộc học (Sách về bảo tồn của chương trình "“Con người và cây cỏ”)
Tác giả: Gary J. Martin
Nhà XB: Nxb. Nông nghiệp. (Sách dịch)
Năm: 2002
18. Nguyễn Bá Hoạt, Nguyễn Duy Thuần (đồng chủ biên), 2005. Kỹ thuật trồng, sử dụng và chế biến cây thuốc. 280 trang. NXB. Nông nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ thuật trồng, sử dụng và chế biến cây thuốc
Nhà XB: NXB. Nông nghiệp
19. Phạm Hoàng Hộ (1991-1993), Cây cỏ Việt Nam, Nxb. Mekong, Santa Ana/Montreal, tập 1-3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây cỏ Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Mekong
20. Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý (2009), Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò
Tác giả: Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý
Năm: 2009
21. Triệu Văn Hùng (chủ biên) (2007), Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Nxb. Bản Đồ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam
Tác giả: Triệu Văn Hùng (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Bản Đồ
Năm: 2007
22. Lương Thị Thu Hường (2008), Đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, Luận văn Thạc sĩ khoa học sinh học, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.23. IUCN/red list Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị
Tác giả: Lương Thị Thu Hường
Năm: 2008
24. Trần Công Khánh và cộng sự (1992), Cây độc ở Việt Nam, Nxb. Y học, 255 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây độc ở Việt Nam
Tác giả: Trần Công Khánh và cộng sự
Nhà XB: Nxb. Y học
Năm: 1992

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w