TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
Khái niệm Giáo dục Môi trường (GDMT) lần đầu tiên được giới thiệu tại Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường Nhân văn diễn ra vào năm 1972 tại Stockholm, Thụy Điển (Matarasso, 2004).
Giáo dục môi trường (GDMT) là quá trình nhận thức và đánh giá các giá trị của môi trường, giúp phát triển kỹ năng và thái độ cần thiết để hiểu rõ mối quan hệ giữa con người, văn hóa và môi trường vật lý GDMT không chỉ làm rõ khái niệm mà còn tạo cơ hội thực hành ra quyết định và hình thành quy tắc ứng xử liên quan đến chất lượng môi trường (IUCN, 1970).
GDMT là quá trình phát triển các tình huống dạy và học hiệu quả, giúp người dạy và học cùng tham gia giải quyết các vấn đề môi trường Qua đó, quá trình này cũng hướng tới việc tìm kiếm một lối sống có trách nhiệm và được thông tin đầy đủ.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về GDMT, tất cả đều có một số đặc điểm cơ bản sau:
GDMT là quá trình truyền tải thông tin và kiến thức diễn ra qua thời gian và không gian khác nhau, sử dụng nhiều phương thức và kinh nghiệm đa dạng.
- GDMT nhằm thay đổi hành vi
- Môi trường học tập là chính môi trường và những vấn đề có trong thực tế
- GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách sống
- Trong GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành động làm cơ sở
Cộng đồng thường được hiểu là nhóm người được tập hợp theo nhiều hình thức như lứa tuổi, nghề nghiệp, huyết thống, khu vực địa lý, tổ chức và sở thích (Matarasso, 2004) Trong bài viết này, cộng đồng được xem như đơn vị cấp địa phương của một tổ chức xã hội, bao gồm cá nhân, gia đình, thể chế và các cấu trúc khác, tất cả đều đóng góp vào cuộc sống hàng ngày của một nhóm người trong một khu vực địa lý xác định, có thể thay đổi theo quá trình lịch sử.
Cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về sự khác biệt giữa giáo dục bảo tồn (GDBT) và giáo dục môi trường (GDMT) Nhiều người cho rằng hai khái niệm này tương đồng và có thể hoán đổi cho nhau Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài này, GDBT được định nghĩa là các hoạt động GDMT có sự tham gia của cộng đồng địa phương nhằm thay đổi hành vi và hướng tới mục tiêu bảo tồn (Matarasso và cộng sự, 2004).
Brewer (2002) nhấn mạnh rằng sự tham gia của người học cần được khuyến khích để họ có thể đóng góp các câu hỏi và lựa chọn thông tin giá trị, đồng thời chia sẻ kết quả với cả cộng đồng khoa học Hơn nữa, việc hợp tác với giáo viên và chuyên gia không chỉ giúp người học nâng cao kiến thức chuyên môn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà còn trong các hoạt động sau khi dự án kết thúc.
Báo cáo của Richard và Barbara (2001) nhấn mạnh rằng việc tạo cơ hội cho người dân tiếp cận kinh nghiệm bảo tồn toàn cầu sẽ nâng cao khả năng thành công của các chương trình bảo tồn, thay vì việc chính phủ và các công ty áp đặt kế hoạch mà không có sự tham gia của cộng đồng Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các chương trình GDBT cần lấy cộng đồng làm trung tâm Hơn nữa, việc cung cấp kiến thức bảo tồn qua các phương tiện thông tin đại chúng là một phương pháp hiệu quả, giúp người dân chủ động tham gia vào công tác bảo tồn.
Một trong những cơ hội tốt nhất để cộng đồng tham gia tích cực vào công tác bảo tồn là tạo điều kiện cho họ tiếp cận các nguồn thông tin Qua đó, cộng đồng có thể đóng góp và bổ sung những thông tin cần thiết vào tài liệu bảo tồn.
Nghiên cứu về nhận thức của nam và nữ đối với vấn đề môi trường đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả trên toàn cầu Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu lại cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các địa điểm.
Engels và Jacobson (2001) đã chỉ ra rằng ở Brazil, nơi có loài linh trưởng Golden Lion Tamarin, nhận thức và kiến thức của nam giới cao hơn nữ giới Họ cho rằng nam giới có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin về sinh học và bảo tồn, đặc biệt là liên quan đến loài Sư tử hơn nữ giới.
- Rajakaruna (2009), đã khẳng định nam giới có nhận thức tốt hơn nữ giới về 5 loài Rùa biển đẻ trứng ở ven bờ biển SriLanka
Nghiên cứu của Onon (2006) chỉ ra sự khác biệt trong nhận thức và thái độ bảo tồn loài Báo tuyết ở Mông Cổ giữa 5 cộng đồng dân tộc Mặc dù các dân tộc có hiểu biết khác nhau về tình trạng và sinh cảnh của loài này, nhưng nghiên cứu chưa giải thích được nguyên nhân của những khác biệt đó.
Nghiên cứu của Padua (1994) cho thấy sự khác biệt trong nhận thức bảo tồn liên quan đến trình độ học vấn, với học sinh lớp 8 đạt điểm cao nhất trong các bài kiểm tra GDMT Tại Thái Lan, Wasi (1997) nhấn mạnh vai trò của lâm nghiệp cộng đồng trong việc phát triển xã hội dân sự, khi các cộng đồng ngày càng yêu cầu tham gia quản lý tài nguyên địa phương do mất mát diện tích rừng lớn từ khai thác gỗ hợp pháp trong quá khứ.
Tại Srilanka , từ năm 1982 đến 1988 dự án lâm nghiệp cộng đồng do
ADB tài trợ của Cục Lâm nghiệp Srilanka đã tạo ra cơ hội tiếp cận kinh nghiệm có người dân tham gia trong quản lý rừng.
Tại Việt Nam
Theo Vũ Văn Cần (2007), kế hoạch quản lý và phát triển rừng cần dựa vào nguồn lực cộng đồng và phù hợp với điều kiện tự nhiên địa phương để người dân nhận thấy lợi ích từ kế hoạch và tích cực tham gia Việc tạo cơ hội cho người dân tiếp cận các phương pháp GDBT quốc tế kết hợp với yếu tố địa phương giúp họ dễ dàng nắm bắt các vấn đề môi trường và khuyến khích sự tham gia tích cực vào các chương trình GDBT.
Theo chương trình UNDP (2007), 23 dự án về quản lý rừng cộng đồng cho thấy luật đã công nhận quyền khai thác và sử dụng lâm sản lâu dài, nhưng cũng hạn chế một số quyền của cộng đồng như không được phân chia, chuyển nhượng hay cho thuê quyền sử dụng rừng Để thực hiện hiệu quả quyền và nghĩa vụ của cộng đồng khi được giao rừng, cần tiến hành các mô hình thử nghiệm lớn, bao quát sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và truyền thống của các cộng đồng dân cư.
Khu BTTN Phong Điền đã triển khai mô hình làng sinh thái lâm nghiệp tại các xã vùng đệm, mang lại lợi ích rõ rệt cho người dân về đời sống vật chất và tinh thần Nhờ đó, cộng đồng đã tích cực tham gia vào công tác quản lý và bảo vệ rừng của khu bảo tồn.
Nghiên cứu về đánh giá nhận thức và cơ hội tham gia GDBT của cộng đồng: Luận văn Thạc sĩ khoa học lâm nghiệp năm 2010 của Nguyễn Thị
Nghiên cứu đã đánh giá nhận thức và cơ hội tham gia GDBT của học sinh và người dân địa phương gần KBT loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca, tỉnh Hà Giang Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét nhận thức và cơ hội tham gia của hai nhóm đối tượng quan trọng là thợ săn và cán bộ từ các cơ quan, tổ chức lân cận Điều này dẫn đến việc chưa xây dựng được chương trình GDBT phù hợp cho các nhóm đối tượng này.
Luận văn Thạc sĩ khoa học lâm nghiệp năm 2012 của Nông Diệu Huế về các chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) tại Khu bảo tồn (KBT) loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng còn một số hạn chế Một trong những hạn chế chính là chưa đánh giá được nhận thức và cơ hội tham gia của các nhóm đối tượng quan trọng như thợ săn và cán bộ của các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT Đồng thời, luận văn cũng chưa đánh giá được nhận thức bảo tồn của cộng đồng địa phương theo giới, nghề nghiệp, thành phần dân tộc Các chương trình GDBT được đề xuất mới còn tập trung quá nhiều vào bảo tồn Vượn Cao Vít mà chưa chú trọng đến bảo tồn tài nguyên rừng KBT, giá trị đa dạng sinh học và vai trò của KBT Hơn nữa, giải pháp để đảm bảo tính bền vững cho các chương trình GDBT tại nơi đây cũng chưa được đề xuất, điều này là một thiếu sót quan trọng trong việc bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Trong hệ thống các Vườn Quốc gia (VQG) và Khu Bảo tồn Thiên nhiên (BTTN) ở Việt Nam, việc triển khai Giám sát và Đánh giá Bảo tồn (GDBT) đã được thực hiện từ sớm và đạt được nhiều thành công Tuy nhiên, vẫn còn một số thiếu sót cần khắc phục để nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn.
Năm 2009, Trung tâm con người và thiên nhiên (PanNature) đã triển khai chương trình nâng cao nhận thức về tài nguyên tại vùng đệm KBT loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca, tỉnh Hà Giang, tập trung vào việc đào tạo kỹ năng bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường Tuy nhiên, đối tượng tham gia chủ yếu là giáo viên và học sinh THCS, trong khi nông dân - nhóm sống gần rừng và có tiềm năng ảnh hưởng lớn đến bảo tồn - lại không tham gia do cho rằng chương trình không phù hợp và không mang lại lợi ích cho họ.
Vườn quốc gia Cúc Phương là một trong những khu rừng đặc dụng tiên phong trong việc giáo dục môi trường và bảo tồn, với 43 câu lạc bộ bảo tồn được thành lập tại các trường học, thu hút khoảng 15.000 học sinh tham gia hàng năm Bên cạnh chương trình học đường, Vườn còn triển khai các hoạt động giáo dục cho người lớn tại cộng đồng và du khách, nhằm nâng cao nhận thức về bảo tồn Chương trình giáo dục nhận thức bảo tồn tại Cúc Phương không chỉ là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của Vườn mà còn là chương trình lâu đời nhất tại Việt Nam, nhận được sự quan tâm từ nhiều tổ chức bảo tồn trong và ngoài nước.
Mô hình đồng quản lý tại Khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hoá là một ví dụ đáng tham khảo cho các khu rừng đặc dụng khác Luận văn của Phạm Anh Tám (2006) đã sơ bộ đánh giá sự tham gia của người dân địa phương trong công tác quản lý và bảo tồn, thông qua việc đóng góp ý kiến cho các quyết định liên quan Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa xem xét nhu cầu giáo dục bảo tồn của các nhóm đối tượng khác như chính quyền địa phương, học sinh, giáo viên và cán bộ khu bảo tồn.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương là yếu tố quyết định cho sự thành công của các chương trình bảo tồn tại Khu BTTN Xuân Liên Các chương trình GDBT đã được triển khai nhằm bảo tồn dựa trên cộng đồng, giúp giảm áp lực từ cư dân vùng đệm và cải thiện mối quan hệ giữa KBT và cộng đồng Mặc dù cộng đồng đã tham gia tích cực vào công tác bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên, nhưng hoạt động này vẫn còn mang tính hình thức và thiếu sự phong phú, đa dạng Đánh giá về thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc thực hiện các chương trình GDBT hiện chưa đầy đủ, điều này cần được khắc phục để xây dựng các chương trình giáo dục bảo tồn hiệu quả hơn trong tương lai Do đó, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu và đánh giá toàn diện để tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho các chương trình bảo tồn tiếp theo.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Bảo tồn giá trị đa dạng sinh học và tài nguyên của KBT là rất quan trọng, không chỉ giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng mà còn tăng cường hiệu quả trong công tác bảo tồn.
- Đánh giá được nhu cầu bảo tồn của cộng đồng tại Khu BTTN Xuân Liên Thanh Hoá
- Xác định được những thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình GDBT tại KBT
- Đề xuất được các chương trình GDBT cho KBT.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là cộng đồng dân cư vùng đệm KBT, bao gồm:
Người dân từ 18 tuổi trở lên sinh sống tại vùng đệm KBT Xuân Liên bao gồm nông dân và cán bộ công nhân viên chức nhà nước, tạo nên cộng đồng đa dạng và gắn bó tại địa phương.
- Học sinh cấp II, III tại các trường học thuộc vùng đệm KBT
- Các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT
- 5 thôn thuộc 5 xã của huyện Thường Xuân, tiếp giáp với KBT (Mỗi thôn 12 người)
+ thôn Vịn, xã Bát Mọt + thôn Lửa, xã Yên Nhân
+ thôn Minh Ngọc, xã Lương Sơn
+ thôn Tiến Sơn, xã Xuân Cẩm
+ thôn Hang Cáu, xã Vạn Xuân
Học sinh từ các trường cấp II tại 5 xã: Bát Mọt, Lương Sơn, Yên Nhân, Xuân Cẩm, Vạn Xuân (mỗi xã có 1 trường và 5 học sinh/khối) cùng với Trường cấp III Cầm Bá Thước ở huyện Thường Xuân (30 học sinh từ 3 khối học) tham gia vào chương trình học tập này.
- Các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT :
+ Trạm Khí tượng Thủy văn Cửa Đạt (3 người/tổng số 5 cán bộ) + Ban quản lý công trình Thuỷ Lợi, Thuỷ điện Cửa Đạt (10 người)
Từ 01/10/2012 – 31/12/2012 Điều tra thực địa lần 1
Từ 01/01/2013 – 01/02/2013 Điều tra thực địa lần 2
Từ 02/02/2013 – 28/2/2013 Xử lý số liệu, viết và hoàn thiện luận văn
Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm hiện trạng tài nguyên và nhận thức của cộng đồng về bảo tồn đa dạng sinh học
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các hoạt động GDBT đã triển khai ở KBT
- Nghiên cứu những thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình GDBT tại khu vực
- Đề xuất các chương trình GDBT phù hợp.
Phương pháp nghiên cứu
GDBT là giải pháp hiệu quả được nhiều quốc gia áp dụng thành công, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với các vấn đề môi trường như biến đổi khí hậu, suy thoái đa dạng sinh học và ô nhiễm nước, không khí Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động GDBT tại các Vườn Quốc Gia (VQG) và Khu Bảo Tồn (KBT), triển khai nhiều chương trình và dự án nhằm bảo vệ môi trường.
Trong những năm qua, đã có 12 nghiên cứu về các hoạt động giáo dục môi trường (GDMT) được thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu Tuy nhiên, hiệu quả của các chương trình này chưa đạt như kỳ vọng do thiếu sự tham vấn cộng đồng trong quá trình xây dựng chương trình Điều này dẫn đến nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục bảo tồn (GDBT) không phù hợp với đặc điểm và đặc thù của địa phương, như các vấn đề về dân tộc, nghề nghiệp, thu nhập, giới tính và đối tượng tham gia Hơn nữa, tính bền vững của các chương trình này cũng chưa được đảm bảo.
Chương trình GDBT không chỉ bao gồm các hoạt động giáo dục như tập huấn nâng cao kỹ năng, mà còn mở rộng đến các chương trình truyền thông để cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức Bên cạnh đó, chương trình còn có thể bao gồm các hoạt động vận động chính sách nhằm loại bỏ những rào cản về mặt chính sách, hỗ trợ thực hiện các hành vi bảo tồn hiệu quả.
Chương trình GDBT cần xác định rõ các hành vi gây ra vấn đề bảo tồn và môi trường, cùng với nguyên nhân của những hành vi này, có thể do thiếu nhận thức, kiến thức, kỹ năng, hoặc bị cản trở bởi yếu tố kinh tế và tài chính Để phát triển chương trình GDBT cho một khu vực cụ thể, cần phân tích đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng, bao gồm mức độ giàu nghèo, nghề nghiệp, thành phần dân tộc và phong tục tập quán Bên cạnh đó, cần đánh giá hiện trạng tài nguyên, xem xét sự suy giảm có phải do nhận thức kém về bảo tồn hay không, và thu thập ý kiến của cộng đồng về các vấn đề này Tìm hiểu về nhận thức bảo tồn của người dân và thực trạng GDBT tại khu vực, bao gồm nội dung đã có, những gì còn thiếu, hiệu quả của các nội dung hiện tại và những khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện chương trình GDBT cũng là điều quan trọng.
Đề tài nghiên cứu đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng liên quan đến GDBT, đồng thời đánh giá nhận thức và thái độ của người dân về bảo tồn tại địa phương Nghiên cứu cũng xác định các hoạt động ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường, tìm hiểu nguyên nhân của những hành động này, cũng như những khó khăn và thuận lợi của người dân trong công tác bảo tồn dựa vào cộng đồng Qua đó, đề tài sẽ cung cấp cơ sở cho việc xây dựng các chương trình giáo dục bảo tồn trong tương lai Nội dung này sẽ được tích hợp xuyên suốt trong quá trình tổng quan và phương pháp nghiên cứu.
- Thu thập tài liệu có sẵn, hoặc số liệu thống kê ở địa phương về các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu
- Báo cáo tổng hợp, các số liệu thống kê về văn hoá, xã hội, kinh tế của địa phương nghiên cứu
- Kế thừa các chương trình GDBT
- Kế thừa các tài liệu của KBT
Sau khi thu thập tài liệu, tiến hành phân tích đánh giá và chọn lọc những tài liệu cần thiết phục vụ công tác nghiên cứu
Gặp gỡ và trao đổi với những người có kinh nghiệm, bao gồm các chuyên gia đã thực hiện nghiên cứu tại KBT, cùng với Ban lãnh đạo và cán bộ Ban quản lý, là rất quan trọng Các ý kiến tham vấn sẽ được tổng hợp, phân tích và đánh giá chi tiết theo từng nội dung nghiên cứu.
2.4.2.3.Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu của đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (Participatory/Rural
Appraisal – PRA), với 2 công cụ phổ biến là phỏng vấn bán định hướng và phỏng vấn định hướng, nhằm đánh giá nhận thức và thái độ của cộng đồng
Phương pháp PRA được áp dụng để phỏng vấn các hộ gia đình, cán bộ thôn xã, học sinh và cán bộ từ các cơ quan tổ chức gần Khu bảo tồn Đồng thời, tổ chức các cuộc thảo luận nhóm với người dân nhằm thu thập ý kiến và tạo sự tham gia của cộng đồng.
*Phỏng vấn bán định hướng Đề tài đã thực hiện phỏng vấn 60 người với các đối tượng là người dân từ
Người dân từ 18 tuổi trở lên sống tại vùng đệm KBT Xuân Liên chủ yếu là nông dân và cán bộ công nhân viên chức nhà nước Để thu thập thông tin về tài nguyên thiên nhiên và nhận thức về bảo tồn tại địa phương, các cuộc phỏng vấn được thực hiện trực tiếp tại hộ gia đình hoặc thông qua các cuộc họp thôn bản do cán bộ KBT tổ chức.
Năm thôn bản thuộc năm xã đã được chọn lựa vì có vị trí tiếp giáp với KBT Xuân Liên và được đánh giá là có tác động lớn đến tài nguyên KBT Mỗi thôn tiến hành phỏng vấn 12 người, đảm bảo sự đa dạng về lứa tuổi, thu nhập hàng năm, nghề nghiệp, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc và địa vị xã hội Thông tin thu thập từ các cuộc phỏng vấn được ghi chép chi tiết vào phiếu biểu ngay tại chỗ và sau đó được tổng hợp, phân tích nhằm hỗ trợ cho các kết quả phỏng vấn định hướng.
Các câu hỏi phỏng vấn được thiết kế đơn giản và dễ hiểu, phù hợp với đại đa số đối tượng phỏng vấn, nhằm thu thập tối đa thông tin từ người dân Nội dung chính trong các câu hỏi phỏng vấn bán định hướng bao gồm những vấn đề thiết yếu và quan trọng để đảm bảo hiệu quả trong việc thu thập dữ liệu.
Hiểu biết của người dân về khu bảo tồn (KBT) bao gồm năm thành lập, ranh giới khu vực, khoảng cách từ nơi sinh sống đến ranh giới KBT và tầm quan trọng của việc thành lập KBT Những thông tin này giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững Việc hiểu rõ về KBT cũng góp phần khuyến khích sự tham gia của người dân trong việc bảo vệ và duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tìm hiểu tác động của người dân địa phương đến đa dạng sinh học trong khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) là rất quan trọng Các hoạt động như chăn thả gia súc, lấy củi phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, và khai thác gỗ để xây dựng nhà ở diễn ra phổ biến trong khu vực này Việc nghiên cứu cách thức và địa điểm thực hiện những hoạt động này giúp đánh giá ảnh hưởng của chúng đến hệ sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học.
- Xác định những khó khăn của người dân địa phương trong các hoạt động sinh kế và tìm hiểu nguyện vọng của họ
Để đánh giá nhận thức về bảo tồn của cộng đồng, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 203 người dân từ 18 tuổi trở lên sống tại vùng đệm.
KBT tiến hành phỏng vấn học sinh cấp II, III tại các trường học trong vùng đệm KBT và cán bộ từ các cơ quan, tổ chức gần KBT thông qua phiếu câu hỏi định hướng Kết quả từ những cuộc phỏng vấn này sẽ được sử dụng để phân tích chính và đưa ra các kết luận cho đề tài nghiên cứu.
Cấu trúc bộ câu hỏi phỏng vấn: Xây dựng bộ câu hỏi theo 2 dạng: Câu hỏi đóng và câu hỏi đóng – mở
- Câu hỏi đóng (Close question):
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu
Đề tài lựa chọn khu vực nghiên cứu là 5 thôn thuộc 5 xã tiếp giáp với
Khu bảo tồn bao gồm các thôn Vịn (xã Bát Mọt), thôn Lửa (xã Yên Nhân), thôn Minh Ngọc (xã Lương Sơn), thôn Tiến Sơn (xã Xuân Cẩm) và thôn Hang Cáu (xã Vạn Xuân) Gần khu bảo tồn có các cơ quan tổ chức như Trạm Khí tượng Thủy văn Cửa Đạt và Ban quản lý công trình Thủy lợi, Thủy điện Cửa Đạt, phục vụ cho việc quản lý và bảo vệ môi trường khu vực.
- Người dân xung quanh KBT vẫn còn những tác động xấu đến khu vực được bảo vệ như khai thác gỗ, củi, lâm sản phụ
- Khoảng cách từ nơi sinh sống của người dân đến KBT là rất gần
- Khu BTTN Xuân Liên mới được thành lập cách đây không lâu và không nhiều người biết về sự thành lập này
Chương trình giáo dục bảo tồn thiên nhiên (GDBT) hiện nay mới chỉ xuất hiện một cách nhỏ lẻ tại một số trường cấp II ở các thôn bản vùng đệm, với các hoạt động như cuộc thi "Em yêu rừng xanh quên em", thành lập câu lạc bộ môi trường và phát hành lịch tuyên truyền, được tài trợ bởi Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức GIZ trong giai đoạn 2011-2012 Tuy nhiên, hiệu quả của các chương trình này vẫn chưa rõ ràng và chưa được đánh giá cụ thể, đồng thời thiếu sự thực hiện bài bản và lộ trình phát triển cho từng giai đoạn và đối tượng mục tiêu.
Nghiên cứu này sẽ hỗ trợ trong việc thiết kế các chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) phù hợp và cần thiết, nhằm phục vụ cho từng nhóm đối tượng cụ thể trong cộng đồng dân cư vùng đệm Khu BTTN Xuân Liên.
Điều kiện tự nhiên
Hình 3.1 Sơ đồ Khu BTTN Xuân Liên
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, cách thành phố Thanh Hoá 65km về phía Tây Nam, tọa độ 19°52’-20°02’ vĩ độ Bắc và 104°58’-105°15’ kinh độ Đông, nằm giáp ranh với khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt (Nghệ An) và khu bảo tồn thiên nhiên Nậm Xam (Lào), tạo thành một tam giác đa dạng về hệ động thực vật phong phú.
Từ 190 51’00” đến 190 59’00” vĩ độ Bắc
Từ 1040 58’00” đến 1050 19’20” kinh độ Đông
+ Phía Bắc được giới hạn bởi suối Ken, sông Khao
+ Phía Đông giáp xã Luận Khê, Xuân Cao, Xuân Cẩm, Lương Sơn
+ Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An và giới hạn bởi dông chính nối ngọn Bù Ta Leo, Bù Róc và Bù Kha
+ Phía Tây giáp tỉnh Nghệ An và phần còn lại của xã Bát Mọt
Khu bảo tồn có tổng diện tích 26.303,6 ha, trong đó 23.475,0 ha đã được quy hoạch giao quản lý và sử dụng ổn định, còn lại 2.828,6 ha là diện tích đất tạm giao thuộc khu vực ngập nước hồ Cửa Đạt.
- Vùng đệm của KBT có diện tích 40.367,4 ha nằm trên địa bàn 5 xã Bát Mọt, Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân
Hình 3.2 Vị trí của Khu BTTN Xuân Liên trong hệ thống các khu rừng đặc dụng của tỉnh Thanh Hoá
3.2.2 Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng
Khu BTTN Xuân Liên có địa hình phức tạp và hiểm trở, với sự kết hợp giữa núi đá và núi đất, nằm trên dãy núi kéo dài từ Sầm Nưa (Lào) đến các huyện Thường Xuân và Như Xuân thuộc tỉnh Thanh Hóa Khu vực này được phân hóa thành hai đai độ cao: dưới 800m và từ 800m đến 1.600m, trong đó đỉnh cao nhất là Bù Gió, đạt độ cao 1.563m.
Nền địa chất của vùng rất đa dạng với sự hiện diện của đá trầm tích, đá phiến, Spillite, Aldezite cùng nhiều loại đá biến chất như đá lửa và đá kính Địa hình bị chia cắt mạnh mẽ bởi các dãy núi cao và thung lũng, tạo nên một hệ thống sông suối chằng chịt chảy từ tây sang đông Sông Chu, bắt nguồn từ Lào, là con sông lớn nhất trong khu vực và đóng vai trò là nguồn cung cấp nước chính cho hồ chứa nước Cửa Đạt.
3.2.3 Khí hậu và thuỷ văn
Khu BTTN Xuân Liên có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600-2300 mm và khoảng 90-130 ngày mưa Độ ẩm tương đối đạt từ 85% đến 87%, với số giờ nắng trung bình khoảng 1600-1800 giờ Nhiệt độ trung bình dao động từ 23°C đến 24°C, giảm dần ở các xã vùng cao Hướng gió chủ yếu vào mùa Đông là Tây Bắc và Đông Bắc, trong khi mùa Hè là Đông và Đông Nam Điều kiện khí hậu với lượng mưa lớn, nhiệt độ cao và ánh sáng dồi dào tạo thuận lợi cho sự phát triển của nông, lâm và ngư nghiệp.
3.2.4 Giá trị đa dạng sinh học của khu bảo tồn
Hệ sinh thái Địa hình tại Khu BTTN Xuân Liên bao gồm hai kiểu chính: vùng núi trung bình với độ cao từ 800 đến 1600m và vùng núi thấp cùng đồi cao dưới 800m Khí hậu nơi đây là nhiệt đới gió mùa, mang nhiều đặc điểm của khí hậu đồng bằng và trung du tỉnh Thanh Hóa Do đó, thảm thực vật tại Khu BTTN Xuân Liên chủ yếu là hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa mùa.
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới núi trung bình là sự kết hợp giữa cây lá rộng và cây lá kim, trong khi rừng kín thường xanh mưa nhiệt đới ở núi thấp chủ yếu gồm cây lá rộng Ngoài ra, hệ sinh thái rừng thứ sinh bao gồm các kiểu rừng tre nứa, rừng phục hồi sau nương rẫy, trảng cỏ, cây bụi và hệ sinh thái ao hồ.
Hình 3.3 Đa dạng về tài nguyên thực vật Khu BTTN Xuân Liên
Khu BTTN Xuân Liên nổi bật với hệ thực vật rừng phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều loại cây quý hiếm cần được bảo vệ Nơi đây có các kiểu rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới đặc trưng, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển nguồn gen.
Miền Bắc Việt Nam sở hữu 752 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 440 chi và 130 họ, trong đó có 38 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam và thế giới như Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Dẻ tùng sọc trắng (Anmentotaxus argotaenia) và Kim giao (Nageia fleigyi) Đặc biệt, khu vực này còn có gần 3.821,0 ha rừng nguyên sinh với các quần thể Pơ Mu, Sa Mu nguyên thuỷ có đường kính từ 1-1.5m Đây là nơi bảo tồn quần thể cây hạt trần tiêu biểu cho tỉnh Thanh Hoá và vùng núi miền Bắc Việt Nam, tạo nên hệ thực vật với nhiều loài ưu thế, mang những nét đặc trưng khác biệt so với các khu bảo tồn khác.
Toàn bộ sinh cảnh rừng của Khu BTTN Xuân Liên là nơi sinh sống của
Khu vực này đã ghi nhận sự hiện diện của 55 loài thú, 136 loài chim, 34 loài bò sát, 19 loài ếch nhái và 143 loài bướm Đặc biệt, nơi đây nổi bật với các loài như Vượn đen má trắng, Mang nhỏ, Gấu, Vượn, Gà lôi trắng và Gà tiền.
3.2.5 Đặc điểm về hang động, mặt nước cảnh quan và các giá trị khác
Rừng KBT đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước cho sông Chu, sông Khao và sông Đặt, cung cấp nước sạch cho sinh hoạt và tưới tiêu cho 86.000ha lúa, phục vụ cho ngành công nghiệp tại tỉnh Thanh Hoá KBT sở hữu cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với các dãy núi cao, thác nước và hang động độc đáo, cùng với bản sắc văn hóa truyền thống của người dân tộc Thái – Mường Vùng đệm KBT còn có các di tích lịch sử như Đền Cầm Bá Thước và di tích hội thề Lũng Nhai, cùng với hồ rộng gần 3.000ha, tạo tiềm năng lớn cho phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và nghiên cứu khoa học.
Điều kiện dân sinh kinh tế - xã hội
Vùng đệm KBT bao gồm 5 xã và 50 thôn bản với tổng dân số 30.957 người, chủ yếu là dân tộc Thái (90,08%) và dân tộc Kinh (9,92%) Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm đạt 2,01%, trong khi tỷ lệ đói nghèo lên đến 67%, cao hơn nhiều so với tỉnh Thanh Hoá và toàn quốc, gây áp lực lớn lên tài nguyên KBT Cộng đồng địa phương phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là ở các thôn giáp ranh KBT, thường xuyên vào rừng thu hái lâm sản và săn bắn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng Tuy nhiên, hoạt động khai thác gỗ và sản phẩm phi gỗ đang đe dọa sinh cảnh rừng tự nhiên và đa dạng sinh học Đời sống người dân gặp nhiều khó khăn với tập quán canh tác lạc hậu, năng suất thấp và thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 126.460 đồng/tháng, dưới mức nghèo theo tiêu chí mới Các xã trong vùng đều nhận đầu tư theo chương trình 30a của Chính Phủ.
Hình 3.4 Cộng đồng thôn bản vùng đệm Khu BTTN Xuân Liên
Sản xuất nông lâm nghiệp trong cộng đồng hiện đang gặp nhiều thách thức do sự hiểu biết hạn chế về bảo tồn và đa dạng sinh học, đặc biệt ở các dân tộc ít người Mặc dù có sự hỗ trợ từ hệ thống khuyến nông, người dân vẫn thiếu kiến thức về kỹ thuật mới trong sản xuất Ngân hàng chính sách xã hội cung cấp vốn cho phát triển sản xuất, nhưng nhiều người sử dụng vốn không hiệu quả do thiếu kinh nghiệm Mùa vụ chính là lúa nước, bên cạnh đó còn có sắn, ngô, gia súc và gia cầm Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn xảy ra hàng năm do người dân không thực hiện tiêm phòng đầy đủ.
Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và công việc gia đình, nhưng họ vẫn chưa tham gia đầy đủ vào các hoạt động cộng đồng Trong khi đàn ông thường xuyên tham gia các cuộc họp và thể hiện ý kiến một cách mạnh dạn, phụ nữ cần được khuyến khích hơn Để tăng cường sự tham gia của phụ nữ, các cuộc họp riêng đã được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho họ trình bày ý kiến về các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp và bảo tồn.
Hệ thống canh tác hiện tại chưa hợp lý, dẫn đến sự phát triển chậm của ngành chăn nuôi, với quy mô nhỏ lẻ và chưa cân đối với trồng trọt Cơ cấu cây trồng giữa các vùng chưa được bố trí hợp lý, đồng thời vốn đầu tư vào nông nghiệp còn hạn chế Dịch vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng đủ nhu cầu, khiến người dân phải mua vật tư và phân bón với giá cao, trong khi giá bán nông sản lại thấp.
Theo dữ liệu từ hệ thống phỏng vấn, thu nhập bình quân của hộ khá giả đạt 14,8 triệu đồng/năm, trong khi hộ trung bình có thu nhập khoảng 8,7 triệu đồng/năm, và hộ nghèo chỉ đạt khoảng 3 triệu đồng/năm.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm hiện trạng tài nguyên và nhận thức của cộng đồng về bảo tồn đa dạng sinh học
4.1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng liên quan đến GDBT
Các xã vùng đệm Khu BTTN Xuân Liên, nằm trong khu vực biên giới Việt – Lào, thuộc tỉnh Thanh Hóa, là nơi sinh sống chủ yếu của người Thái Điều kiện kinh tế ở đây rất khó khăn, với đời sống phụ thuộc nhiều vào tài nguyên rừng địa phương và rừng của KBT Tình trạng này đã tạo ra nhiều thách thức cho KBT, đặc biệt khi tốc độ tăng dân số tại địa phương đạt 2% và tỷ lệ hộ nghèo lên đến 67%, theo số liệu từ huyện Thường Xuân và các cuộc điều tra kinh tế - xã hội.
Tỉ lệ nghèo đói ở tỉnh Thanh Hóa cao hơn mức trung bình của cả nước, dẫn đến việc người dân thiếu kỹ năng và cơ hội tạo thu nhập thay thế Điều này đã góp phần vào việc xâm lấn khu bảo tồn và suy thoái tài nguyên thiên nhiên Các hoạt động trái phép như săn bắt động vật hoang dã và khai thác lâm sản quý hiếm đang diễn ra, gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho môi trường và sự bền vững của khu bảo tồn.
Tập tục lạc hậu của người dân địa phương đang gây suy kiệt lâm sản, trong khi đất rừng và đa dạng sinh học tại KBT bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đường biên giới và công trình thủy lợi - thủy điện Cửa Đạt Những hoạt động này không chỉ làm giảm chất lượng môi trường mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc săn bắt động vật hoang dã và khai thác quá mức các nguồn lâm sản quý giá.
- Các vấn đề về giới:
Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ quản lý và thúc đẩy hợp tác với cộng đồng vùng đệm Họ không chỉ chịu trách nhiệm chính trong gia đình, bao gồm việc chăm sóc trẻ, mà còn là những người tham gia chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp Mặc dù không có thôn bản nào nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên (KBT), phụ nữ vẫn là bên liên quan chính, đặc biệt là trong việc thu thập củi và các lâm sản phi gỗ khác trong khu vực này.
Phụ nữ không chỉ tham gia mà còn có tiếng nói quan trọng trong việc đề xuất đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế, nhằm cải thiện điều kiện sống và nâng cao thu nhập cho gia đình Họ cũng đóng vai trò thiết yếu trong công tác bảo vệ rừng, và điều này có thể được nâng cao thông qua việc tuyên truyền và phổ biến thông tin cho các gia đình và cộng đồng.
Các chương trình GDBT tại khu vực này cần tập trung vào việc giảm thiểu và giải quyết các vấn đề xâm hại vào KBT, như săn bắn động vật hoang dã và khai thác trái phép Đồng thời, cần chú ý đến tỷ lệ hộ nghèo cao và nhận thức cộng đồng còn hạn chế Đặc biệt, cần quan tâm đến phụ nữ để cải thiện mối quan hệ quản lý và thúc đẩy hợp tác với cộng đồng vùng đệm Bên cạnh các chương trình GDBT, việc cải thiện sinh kế và chia sẻ lợi ích trong quản lý tài nguyên cũng rất quan trọng Những yếu tố này đóng vai trò quyết định đến sự thành công của công tác GDBT tại đây.
4.1.2.Thực trạng, nguyên nhân biến đổi tài nguyên của KBT liên quan đến cộng đồng
4.1.2.1 Các hoạt động có ảnh hưởng tốt đến tài nguyên Khu bảo tồn
Trong khuôn khổ đề tài, các hoạt động bền vững là những hoạt động không gây hại cho tài nguyên thiên nhiên, đồng thời có tính chất bảo vệ và phát triển môi trường.
Bài viết này khám phá 30 nguồn tài nguyên trong khu vực, tập trung vào các hoạt động bảo vệ và gìn giữ tài nguyên thiên nhiên tại địa phương Thông tin chi tiết được trình bày trong bảng 4.1, nêu rõ các biện pháp và chiến lược đang được thực hiện để bảo vệ môi trường.
Bảng 4.1.Mô tả các hoạt động có ảnh hưởng tốt tới tài nguyên thiên nhiên
Hoạt động Địa điểm Mô tả và hiệu quả của hoạt động
1 Giấy xin phép khai thác gỗ làm nhà
Các thôn thuộc 2 xã Yên Nhân, Bát Mọt
Trong thôn, các hộ mới tách hộ hoặc hộ nghèo chưa có nhà ở cần làm đơn xin khai thác gỗ để xây dựng nhà Đơn phải chỉ rõ địa ranh khai thác trong vườn rừng của họ hoặc của anh em đã được chấp thuận theo NĐ 02CP Đơn này sẽ được BQL thôn và Kiểm lâm địa bàn xã xác nhận, kiểm tra và phải được UBND xã phê duyệt theo thẩm quyền và địa danh cụ thể.
Các thôn thuộc 5 xã Yên Nhân, Bát Mọt
BQL Khu BT phối hợp với chính quyền địa phương để rà soát và vận động người dân tự nguyện giao nộp súng săn Những hộ gia đình tham gia sẽ được giao khoán bảo vệ một diện tích rừng từ nguồn kinh phí Dự án 661, với quy mô từ 10 ha đến 15 ha trong một chu kỳ 5 năm, tùy thuộc vào đặc điểm và chất lượng của các loại súng được giao nộp Kết quả từ năm
2001 – 2011, KBT đã vận động người dân tự nguyện giao nộp và bàn giao cho
Chương trình thu hồi 500 khẩu súng từ 31 cơ quan chức năng đã mang lại hiệu quả lớn trong việc ngăn chặn săn bắn động vật rừng trái phép Người dân ủng hộ mạnh mẽ, nhiều hộ sẵn sàng giao nộp cả những khẩu súng gia bảo, nhận thức rõ hành vi săn bắn bị cấm và có thể bị xử phạt Việc giao nộp súng giúp họ nhận được khoản tiền bảo vệ rừng 5 năm, khoảng trên 5 triệu đồng, là nguồn thu không nhỏ cho 67% hộ nghèo trong vùng Nhà nước đã thành công trong việc thu hút người dân tham gia bảo vệ rừng, đây là mô hình cần được nhân rộng, đặc biệt khi vẫn còn hơn 200 khẩu súng săn tồn đọng trong cộng đồng.
4.1.2.2 Các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến tài nguyên KBT
- Khai thác gỗ trái phép:
Phong tục tập quán của người dân tộc Thái thường sử dụng gỗ để xây dựng nhà sàn, dẫn đến việc khai thác tài nguyên rừng do ảnh hưởng của thị trường Các đối tượng đầu nậu đã tiếp tay cho người dân trong việc này, mặc dù một nửa diện tích rừng đặc dụng gần khu dân cư đã được Ban quản lý khu bảo tồn giao khoán cho 835/6.603 tổ chức và hộ gia đình dựa trên các hợp đồng bảo vệ.
Việc khai thác chọn lọc cây gỗ trong 32 rừng (14.545 ha năm 2008, Nguyễn Đình Hải) đã dẫn đến sự suy giảm chất lượng rừng, phá vỡ cấu trúc tổ thành và tầng tán, từ đó thu hẹp sinh cảnh và ảnh hưởng đến đời sống của các quần thể động vật hoang dã.
Hình 4.1.Các đối tượng khai thác lâm sản trái phép trong KBT bị bắt giữ
- Săn bắn và đánh bắt:
Săn bắt động vật hoang dã và đánh bắt thủy sản trái phép đang trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với tài nguyên động vật rừng trong khu bảo tồn (KBT), với các phương thức như sử dụng súng, bẫy, chó săn và kích điện Đặc biệt, khu vực biên giới có hơn 200 khẩu súng, chủ yếu là súng Sămlex 256 và súng tự chế, làm gia tăng nguy cơ suy giảm tài nguyên động vật Nguy cơ này xuất phát từ thị trường tiêu thụ lớn, thiếu trang thiết bị quản lý và đội ngũ cán bộ chuyên môn chưa đồng đều.
Người dân vùng cao có 33 tập quán từ xa xưa, nhưng mối đe dọa từ những tập quán này cần được kiểm soát lâu dài Việc tuyên truyền cho cộng đồng, đào tạo cán bộ và đầu tư vào hệ thống trang thiết bị là rất quan trọng Đồng thời, triển khai phương án quản lý và thu hồi súng săn cũng là những biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn cho người dân.
Thực trạng các hoạt động GDBT đã triển khai ở Khu BTTN Xuân Liên 41 1 Chương trình GDBT trong trường học
Kết quả điều tra tại Khu BTTN Xuân Liên cho thấy có hai chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) chủ yếu được thực hiện từ khi thành lập đến nay: Chương trình GDBT trong trường học và Chương trình GDBT cho cộng đồng.
Bảng 4.7: Các chương trình giáo dục bảo tồn đã thực hiện tại KBT
STT Chương trình Đối tượng Nội dung Đơn vị tổ chức
I Chương trình GDMT trong trường học
Tổ chức cuộc thi “em yêu rừng xanh quê em”
Học sinh tiểu học và THCS xã Xuân Cẩm
- Tìm hiểu kiến thức về Khu BTTN Xuân Liên, về tài nguyên rừng trong KBT
- Kêu gọi trách nhiệm về bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường
DED (GIZ) và Khu BTTN Xuân Liên
Thành lập 5 câu lạc bộ bảo tồn “câu lạc bộ xanh” tại 5 trường cấp II trên địa bàn vùng đệm KBT
Học sinh cấp II tại
5 xã vùng đệm (10 em/1 câu lạc bộ)
- Nâng cao nhận thức cho các em học sinh về bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường
- Tuyên truyền về tầm quan trọng của tài nguyên rừng trong KBT, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
KBT và Quỹ bảo tồn rừng đặc dụng Việt Nam (VCF)
II Chương trình GDMT cho cộng đồng
Người dân địa phương 5 xã vùng đệm
Tuyền truyền hoạt động của KBT và kêu gọi bảo vệ tài nguyên rừng KBT
2 Phát hành tờ rơi, tờ gấp
Người dân thôn Vịn, xã Bát Mọt
- Tuyền truyền hoạt động của KBT, gía trị đa dạng sinh học và vai trò của KBT
- Kêu gọi bảo vệ tài nguyên rừng KBT
Xây dựng quy ước thôn bản
Người dân địa phương xã Bát Mọt và Yên Nhân
Tuyền truyền hoạt động của KBT và kêu gọi bảo vệ tài nguyên rừng KBT
Thành lập và duy trì hoạt động của Tổ bảo lâm (Tổ tuần rừng)
Các hộ nhận khoán Dự án 661 và BQL thôn bản
- Tuyên truyền bảo vệ rừng KBT
Tổ chức tuần tra rừng là hoạt động quan trọng nhằm bảo vệ diện tích nhận khoán PCCCR phối hợp với lực lượng Kiểm lâm KBT để tiến hành tuần tra các khu vực trọng điểm trên địa bàn khi có yêu cầu, đảm bảo an toàn và quản lý hiệu quả tài nguyên rừng.
KBT (từ nguồn kinh phí bảo vệ rừng DA
Họp thôn bản, ký cam kết bảo vệ rừng và
Các hộ gia đình ở các thôn bản của 5 xã vùng đệm
Họp thôn tuyên truyền về các chủ trương chính sách về bảo vệ và phát triển rừng, PCCCR
Kiểm lâm viên địa bàn ở các Trạm KL của KBT
Xây dựng chương trình phối hợp tuyên truyền giữa BQL với Mặt trận
- Tuyên truyền về bảo vệ rừng, giá trị đa dạng sinh học của KBT
KBT và MTTQ xã Bát Mọt
Bảng 4.7 cho thấy các hoạt động giáo dục môi trường tại khu bảo tồn (KBT) được thực hiện liên tục trong các năm, nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng địa phương thông qua nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau Các hoạt động này đã mang lại hiệu quả tích cực, với phần lớn cộng đồng địa phương nhận thức rõ về các chương trình bảo vệ rừng, nghiên cứu khoa học và phát triển vùng đệm của KBT Để đánh giá chi tiết các chương trình giáo dục bảo vệ tài nguyên đã được thực hiện tại KBT, bài viết sẽ trình bày cụ thể các nội dung liên quan.
4.2.1 Chương trình GDBT trong trường học
4.2.1.1 Tổ chức cuộc thi “em yêu rừng xanh quê em”
Hoạt động bảo tồn được tổ chức vào năm 2009 cho học sinh Tiểu học và THCS tại xã Xuân Cẩm, nhờ nguồn tài trợ của Tổ chức hợp tác Quốc tế Đức DED (nay là GIZ), đã thu hút gần 300 em học sinh tham gia Các em thể hiện sự phấn khởi và có hiểu biết tốt về KBT, tầm quan trọng của tài nguyên rừng và bảo vệ môi trường Qua cuộc thi, nhiều em đã chủ động báo cáo về các hành vi săn bắn động vật rừng và khai thác rừng trái phép Tuy nhiên, hoạt động này chỉ diễn ra một lần duy nhất tại một xã trong năm 2009, do thiếu nguồn kinh phí và phương pháp nhân rộng hiệu quả Chương trình chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu thông tin về đa dạng sinh học và tài nguyên rừng, nhưng chưa giáo dục về các hành vi bị cấm và kêu gọi hành động bảo vệ môi trường.
4.2.1.2 Thành lập 5 câu lạc bộ bảo tồn “câu lạc bộ xanh” tại 5 trường cấp II trên địa bàn vùng đệm KBT
Hình 4.2 Lễ ra mắt câu lạc bộ bảo tồn đa dạng sinh học trong trường học
Vào đầu năm 2012, với nguồn kinh phí từ Quỹ bảo tồn rừng đặc dụng Việt Nam (VCF), dự án đã thành lập 5 câu lạc bộ bảo tồn "câu lạc bộ xanh" tại 5 trường cấp II trong vùng đệm KBT Các hoạt động của câu lạc bộ nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh về bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ rừng và môi trường, đồng thời tuyên truyền tầm quan trọng của tài nguyên rừng trong KBT và kêu gọi hành động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Hoạt động này đã nâng cao nhận thức về bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ môi trường cho học sinh, nhưng các câu lạc bộ vẫn thiếu tính sáng tạo và phụ thuộc vào kinh phí dự án cũng như sự giám sát của Ban quản lý KBT Hơn nữa, hình thức hoạt động chưa được mở rộng đến học sinh cấp III, nông dân và cán bộ công nhân viên chức tại các cơ quan gần KBT.
Câu lạc bộ hiện tại chủ yếu tập trung vào các hoạt động bảo vệ môi trường như thu gom rác thải tại trường và cộng đồng, cũng như trồng rừng Tuy nhiên, vẫn cần có những hành động cụ thể từ các thành viên và sự kêu gọi tham gia từ gia đình trong việc bảo vệ tài nguyên rừng.
4.2.2.Các chương trình GDBT cho cộng đồng địa phương
4.2.2.1 Phát hành lịch năm mới và các loại tờ rơi, tờ gấp
Hình 4.3 Lịch năm mới và các loại tờ rơi tờ gấp tuyên truyền về Khu BTTN
Chương trình tuyên truyền bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên đã nhận được đánh giá cao từ cộng đồng địa phương nhờ vào tính hữu ích và trực quan của sản phẩm Người dân có thể tiếp cận lịch mới miễn phí, cùng với hình ảnh sinh động, giúp quảng bá thông tin đến nhiều đối tượng khác nhau Chương trình đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển du lịch sinh thái Mặc dù đã tạo ra những hiệu quả tích cực trong việc cung cấp thông tin về đa dạng sinh học và tài nguyên rừng, nhưng chương trình chỉ thực hiện được trong 3 năm do thiếu kinh phí và một số hình ảnh chưa phù hợp với người dân tộc Thái Các mô hình tương tự tại KBT loài sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca và KBT Pù Luông cũng cho thấy sự tiến bộ trong việc nâng cao nhận thức của người dân Tuy nhiên, các chương trình này cần chú trọng hơn đến nữ giới, thiết kế nội dung phù hợp với từng độ tuổi và trình độ học vấn, đồng thời cung cấp thông tin cho nhóm thợ săn về các hành vi bị cấm và quy định pháp luật liên quan.
Qua điều tra và phỏng vấn, đề tài nhận thấy GDBT là công cụ tuyên truyền hiệu quả, giúp thông tin tiếp cận đa dạng nhóm đối tượng Chương trình này cần được khôi phục và phát huy trong tương lai, đồng thời đổi mới cả hình thức, nội dung và đối tượng của các ấn phẩm.
4.2.2.2 Xây dựng quy ước thôn bản
Bản quy ước quy định các nội dung cơ bản như cấm chăn thả gia súc, gia cầm ảnh hưởng đến sản xuất nông, lâm nghiệp, nghiêm cấm chặt phá rừng bừa bãi trong khu vực khoanh nuôi và không bẫy bắt thú rừng Những quy định này nhằm bảo vệ động vật hoang dã, hướng tới một cuộc sống xanh – sạch – đẹp Mỗi hộ gia đình cần tiết kiệm củi và tham gia chương trình trồng cây lấy củi để bảo vệ môi trường.
Các bảng quy ước thôn bản đã mang lại nhiều lợi ích tích cực và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ người dân địa phương, được xem như nghĩa vụ và trách nhiệm của từng cá nhân và hộ gia đình đối với cộng đồng và khu bảo tồn Tuy nhiên, từ khi thành lập, KBT chỉ phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng quy ước cho 4 thôn thuộc 2 trong số 5 xã vùng đệm (2006 – 2010), chưa mở rộng ra các thôn khác Điều này phần lớn do quy ước còn mang tính hình thức, chưa phát huy hiệu quả, không ràng buộc trách nhiệm của người dân, và thiếu cơ chế giám sát cũng như chế tài đủ mạnh để đảm bảo tính hiệu quả thực sự.
4.2.2.3 Thành lập và duy trì hoạt động của Tổ bảo lâm (Tổ tuần rừng)
Từ năm 2001 đến 2011, KBT đã thành lập 12 Tổ bảo lâm tại 12 thôn bản của 5 xã vùng đệm nhờ vào nguồn kinh phí từ dự án 661 Các thành viên trong mỗi tổ được lựa chọn từ các hộ gia đình nhận khoán bảo vệ rừng, có sức khỏe tốt và nhiệt tình với công việc, với Trưởng thôn hoặc Phó thôn làm tổ trưởng Tổ bảo lâm chủ yếu tham gia tuyên truyền bảo vệ rừng, tổ chức tuần tra rừng và PCCCR trên toàn bộ diện tích nhận khoán, đồng thời phối hợp với lực lượng Kiểm lâm KBT để tuần tra các khu vực trọng điểm khi cần thiết.
KBT giao khoán cho từng tổ bảo vệ rừng một phần diện tích từ mỗi thôn, nhằm tạo nguồn kinh phí hoạt động cho các tổ này.
Trong những năm qua, các Tổ bảo lâm đã hoạt động hiệu quả, phối hợp cùng lực lượng Kiểm lâm của KBT để ngăn chặn và xử lý hành vi xâm hại tài nguyên rừng, đồng thời thực hiện tốt công tác PCCCR trong khu vực Theo số liệu từ Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thanh Hoá, năm 2011 không xảy ra vụ cháy rừng nào và số vụ vi phạm Luật BVPTR đã giảm 16 vụ so với năm trước.
Vào năm 2010, Tổ bảo lâm hoạt động hiệu quả trong khu vực KBT, với các thành viên là những người lớn lên và sống gần gũi với rừng Họ có khả năng nắm bắt thông tin địa phương tốt, cung cấp thông tin kịp thời về các hoạt động khai thác và săn bắn trái phép Đồng thời, Tổ bảo lâm cũng phối hợp chặt chẽ với lực lượng Kiểm lâm để ngăn chặn, bắt giữ và xử lý kịp thời các vi phạm theo quy định.
Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn tại khu vực ( Bảng 4.8)
Bảng 4.8 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn trong trường học
- Hoạt động nâng cao nhận thức GDBT cho các em học sinh được nhà trường quan tâm
- Các hoạt động nâng cao nhận thức về
GDBT được ban giám hiệu nhà trường đưa vào trong chương trình giảng dạy ngoại khóa
- Các công cụ hỗ trợ trong công tác truyền thông như: máy chiếu projector, máy vi tính, được trang cấp đầy đủ
- Đã có một số ấn phẩm, tài liệu GDBT cho học sinh (Rừng xanh số 31 do ENV ấn hành, các pa nô áp phích do FFI cung cấp )
- Cơ sở vật chất phụ vụ cho truyền thông
GDBT như: Sân khấu, loa đài, các băng rôn khẩu hiệu được nhà trường quan tâm
- Các trường học có sân khấu thuận lợi cho tổ chức các cuộc thi hoặc các hoạt động sinh hoạt ngoại khóa toàn trường
- Được phòng giáo dục và các ban ngành
- Đội ngũ giáo viên chưa được tập huấn về GDBT, chưa có kinh nghiệm và kỹ năng để thực hiện các hoạt động GDBT trong trường học
- Hiện nay chưa có bài giảng về giáo dục môi trường phù hợp cho các em học sinh tại địa phương
- Cán bộ Khu BTTN Xuân Liên thiếu các kiến thức và kỹ năng thực hiện các hoạt động GDBT
57 chức năng của huyện ủng hộ
- Thứ 5 hàng tuần nhà trường có tổ chức hoạt động về công tác Đội từ tiết 2 -> 3
Chương trình lên lịch từ đầu năm học
- Một số trường đã tiến hành chương trình
- Đội ngũ giáo viên sẽ được tiếp cận về phương pháp cũng như cải thiện được kỹ năng về GDBT
- Học sinh được tham gia các hoạt động
- Học sinh được phát huy hết khả năng sáng tạo, sự nhạy bén của mình trong các hoạt động GDBT
- Thiếu hoặc không có đủ kinh phí để tổ chức các hoạt động GDBT trong trường học một cách thường xuyên
- Khả năng tiếp thu và nhận thức của học sinh người dân tộc thiểu số ở khu vực này là tương đối hạn chế
Bảng 4.8 chỉ ra rằng có nhiều thuận lợi và cơ hội để triển khai chương trình giáo dục bảo tồn (GDBT) trong trường học, mặc dù vẫn tồn tại một số khó khăn và thách thức Tuy nhiên, những khó khăn này có thể được khắc phục thông qua việc tập huấn giáo viên và thiết kế tài liệu giảng dạy phù hợp cho học sinh THCS dân tộc thiểu số Hơn nữa, các thách thức nêu trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo tính bền vững trong thiết kế chương trình giáo dục môi trường tại các trường học.
* Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn trong cộng đồng (theo bảng 4.9)
Bảng 4.9 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc xây dựng, thực hiện các chương trình giáo dục bảo tồn trong cộng đồng
- Người dân sống gần KBT, những lợi ích trực tiếp và gián tiếp của KBT có tác động rõ đến đời sống của chính người dân
- Chính quyền địa phương và ban quản lý
- Có địa điểm thuận lợi tổ chức các hoạt động GDBT
- Có thể lồng ghép các hoạt động GDBT vào các Chương trình phát triển KT-XH của
Chính phủ như Chương trình 143, 135
- Một số quy định về bảo tồn đã được cộng đồng xây dựng và triển khai thực hiện tại 1 số thôn xóm
- ở KBT không có nguồn kinh phí dành cho các hoạt động GDBT
- KBT chưa có cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ hoặc kỹ năng về GDBT
- Chưa có công trình nghiên cứu biên soạn tài liệu GDBT và tập huấn tài liệu cho cộng đồng dân cư
- Người dân được tiếp cận các thông tin, mở mang kiến thức
- Người dân được tham gia ý kiến, đóng góp hiểu biết, tri thức bản địa vào công tác bảo tồn, bảo vệ tài nguyên rừng
- Cán bộ của KBT được cải thiện về kỹ năng GDBT
- Đời sống của người dân còn khó khăn
- Sự phụ thuộc vào rừng còn là một tập quán
- Trình độ dân trí còn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật
Dựa vào bảng 4.9, có thể thấy rằng việc thực hiện chương trình Giáo dục bảo tồn (GDBT) cho cộng đồng dân cư địa phương tại Khu BTTN Xuân Liên có nhiều thuận lợi và cơ hội để đạt hiệu quả cao Tuy nhiên, công tác GDBT vẫn cần được chú trọng và cải thiện để tối ưu hóa kết quả.
Tại khu vực này, vẫn tồn tại nhiều khó khăn như áp lực khai thác tài nguyên, chăn thả gia súc tự do, canh tác nông nghiệp trong vùng lõi, và lấn chiếm đất rừng Để nâng cao hiệu quả bảo tồn, cần triển khai chương trình giáo dục bảo tồn cho cộng đồng Việc tích hợp hoạt động giáo dục bảo tồn vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội địa phương có thể giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho chương trình này.
Đề xuất các chương trình GDBT cho cộng đồng tại KBT
Dựa trên những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức, cũng như các kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình GDBT tại Khu BTTN Xuân Liên, đề tài đề xuất các chương trình GDBT phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
4.4.1 Chương trình GDBT dành cho đối tượng là học sinh, giáo viên
Mục đích chính của chương trình giáo dục bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường là nâng cao nhận thức của học sinh về giá trị và tầm quan trọng của công tác bảo vệ rừng KBT, bảo tồn thiên nhiên Các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường và rừng cần được tích hợp vào chương trình học chính khóa và ngoại khóa, giúp học sinh hiểu biết sâu sắc hơn về môi trường, tài nguyên thiên nhiên, giá trị đa dạng sinh học của khu bảo tồn cũng như ý nghĩa của thực vật và động vật.
Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên rừng và đa dạng sinh học, cung cấp nhiều giá trị sinh thái quý giá Việc bảo vệ khu vực này không chỉ giúp duy trì hệ sinh thái mà còn là trách nhiệm của mỗi cá nhân, đặc biệt là học sinh Họ cần nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng và môi trường, từ đó hành động tích cực để gìn giữ tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ tương lai Hãy cùng nhau chung tay bảo vệ Khu BTTN Xuân Liên và môi trường sống của chúng ta.
+ Tổ chức các buổi sinh hoạt, học tập ngoại khóa
+ Tổ chức cuộc thi tìm hiểu về KBT, về rừng, môi trường vào ngày Môi trường Thế giới hàng năm
Cần củng cố và kiện toàn hoạt động của 5 câu lạc bộ bảo tồn hiện có, đồng thời thành lập thêm 7 câu lạc bộ mới tại Trường PTTH Cầm Bá Thước Việc đổi mới hình thức hoạt động và thiết lập cơ chế giám sát định kỳ cùng chế độ khen thưởng sẽ khuyến khích các thành viên tham gia tích cực hơn Phân công trách nhiệm rõ ràng cho các thành viên từ Phòng GD huyện và giáo viên các trường học trong vùng đệm cũng là điều cần thiết.
Chúng tôi chuyên thiết kế, xây dựng và cung cấp các ấn phẩm tuyên truyền trong trường học như truyện tranh, áo mưa, mũ, cặp sách, bút, sổ tay và vở viết Các sản phẩm này được phát triển dựa trên ý kiến tham vấn và được thiết kế phù hợp với từng lứa tuổi, dân tộc và giới tính.
- Đối tượng: học sinh cấp I, II, III; giáo viên, cán bộ Phòng giáo dục huyện Thường Xuân
- Cơ quan chủ trì và giám sát: BQL Khu BTTN Xuân Liên
- Cơ quan phối hợp: Phòng GD huyện Thường Xuân, các Trường cấp I,
II, III trên địa bàn
+ Từ nguồn kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, PCCCR hàng năm được cấp của KBT Xuân Liên
+ Từ nguồn kinh phí chống chặt phá rừng, chống buôn lậu lâm sản, kinh phí trích từ xử phạt các vụ vi phạm hành chính của KBT
+ Kêu gọi từ các tổ chức phi chính phủ (Khu BTTN Xuân Liên tranh thủ sự kết nối của các chuyên gia GIZ đang làm việc tại KBT )
+ Nguồn kinh phí được chi trả dịch vụ môi trường rừng của KBT
+ Nguồn kinh phí tự có của Phòng GD huyện, các Trường học
Kinh phí thu được từ các hoạt động thu gom ve chai, sách báo cũ và thu dọn rác thải được các trường học tổ chức, khuyến khích sự tham gia của toàn thể học sinh và giáo viên.
+ Các nguồn kinh phí huy động hợp pháp khác
4.4.2 Chương trình GDBT dành cho đối tượng là cán bộ công nhân viên chức nhà nước của các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT
- Mục đích: Lồng ghép công tác tuyên truyền vào hoạt động của các cơ quan này
- Đối tượng: Cán bộ công nhân viên chức nhà nước của các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT
+ Xây dựng chương trình phối hợp tuyên truyền giữa BQL với các cơ quan, tổ chức này
+ Tổ chức các buổi sinh hoạt, toạ đàm vào ngày Môi trường thế giới hàng năm
Chúng tôi chuyên thiết kế, xây dựng và cung cấp các ấn phẩm tuyên truyền như áo mưa, mũ, bút, sổ tay và đồ dùng văn phòng Mỗi ấn phẩm đều được tư vấn ý kiến và thiết kế phù hợp với từng độ tuổi, dân tộc, giới tính và nghề nghiệp, nhằm đảm bảo sự hiệu quả trong việc truyền tải thông điệp.
- Cơ quan chủ trì và giám sát: BQL Khu BTTN Xuân Liên
- Cơ quan phối hợp: Các cơ quan, tổ chức đóng gần KBT
+ Từ nguồn kinh phí dành cho công tác tuyên truyền, PCCCR hàng năm được cấp của KBT
+ Từ nguồn kinh phí chống chặt phá rừng, chống buôn lậu lâm sản, kinh phí trích từ xử phạt các vụ vi phạm hành chính của KBT
+ Kêu gọi từ các tổ chức phi chính phủ (Khu BTTN Xuân Liên tranh thủ sự kết nối của các chuyên gia GIZ đang làm việc tại KBT )
+ Nguồn kinh phí được chi trả dịch vụ môi trường rừng của KBT
+ Các nguồn kinh phí huy động hợp pháp khác
4.4.3 Chương trình GDBT dành cho cộng đồng
Hiện nay, nhiều cư dân sống trong khu vực vùng đệm của KBT chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của KBT đối với cộng đồng Sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên tại KBT đã tạo ra áp lực lớn từ chính người dân Do đó, cần nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên thông qua các chương trình giáo dục bảo tồn.
4.4.3.1 Rà soát, sửa đổi bổ sung nội dung của các quy ước thôn bản đã xây dựng trước đây tại các thôn bản của 2 xã Yên Nhân, Bát Mọt
Dựa trên bản quy ước đã được thiết lập trước đây, cần tiến hành rà soát và điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội và điều kiện thực tế hiện nay.
Ban quản lý Khu BTTN Xuân Liên đã phối hợp với chính quyền địa phương các xã tổ chức các cuộc họp thôn nhằm thu thập ý kiến của người dân Sau khi thống nhất nội dung, chính quyền địa phương cấp huyện sẽ phê chuẩn để triển khai thực hiện.
4.4.3.2 Nhân rộng việc xây dựng quy ước thôn bản
- Mục đích: Lồng ghép các quy định về bảo vệ rừng vào hương ước thôn bản để gắn trách nhiệm của cộng đồng vào việc bảo tồn thiên nhiên
- Đối tượng: Cộng đồng dân cư 3 xã Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân
- Nội dung: Tiến hành xây dựng quy ước thôn bản cho các thôn của 3 xã Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân
Trong quy ước, bổ sung một số điều khoản về trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng trong bảo vệ rừng KBT
Ban quản lý KBT sẽ phối hợp với chính quyền địa phương các xã để tổ chức các cuộc họp thôn nhằm thu thập ý kiến của người dân Sau khi thống nhất nội dung, BQL sẽ làm việc với chính quyền huyện để phê chuẩn và triển khai tại tất cả các thôn bản còn lại.
4.4.3.3 Phát hành lịch tuyên truyền vào dịp Tết hàng năm Đây là hoạt động rất thực tế và mang lại hiệu quả cao; Khu BTTN Xuân Liên trên cơ sở nguồn kinh phí được trang cấp hàng năm, kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương để phát hành lịch Tết mỗi năm, các hình ảnh trên tờ lịch lồng ghép các hình ảnh tuyên truyền về bảo vệ rừng và BTTN, sao cho thống nhất 1 tờ lịch Tết của địa phương và KBT, tránh trường hợp UBND, HĐND, MTTQ, Hội phụ nữ… của huyện xã đều có 1 tờ lịch Tết riêng như hiện nay Các hình ảnh, thông tin tuyên truyền phải phù hợp với thành phần dân tộc, đặc điểm của địa phương và gần gũi với cuộc sống của đồng bào dân tộc Thái (chiếm trên 90% dân số)
4.4.3.4 Duy trì hoạt động của các Tổ bảo lâm
Trên cơ sở kiện toàn các Tổ bảo lâm, cần cải thiện quy chế hoạt động và thành viên, đồng thời xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích cho cộng đồng tham gia bảo tồn, nhằm tạo sinh kế bền vững Hoạt động này bao gồm thu hái lâm sản phụ, quy hoạch khu chăn thả gia súc, chia sẻ lợi ích từ phí dịch vụ môi trường rừng, phát triển du lịch cộng đồng và sinh thái, cùng với việc sử dụng kinh phí xử phạt vi phạm hành chính để khuyến khích cung cấp thông tin và tham gia bắt giữ các đối tượng khai thác, săn bắn trái phép, góp phần vào công tác PCCCR trong khu vực quản lý.
4.4.3.5 Rà soát lại nội dung, hiệu quả của các bản cam kết bảo vệ rừng, PCCCR để cùng với thôn bản chỉnh sửa, bổ sung hoặc ký cam kết mới
Các bản cam kết cần đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm của từng thôn bản, thành phần dân tộc, điều kiện kinh tế và trình độ học vấn của cộng đồng Quan trọng nhất là phải xác định rõ trách nhiệm của các hộ gia đình trong công tác bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR).
4.4.3.6 Nhân rộng chương trình phối hợp truyên truyền với Mặt trận Tổ quốc của 4 xã còn lại (Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân Cẩm, Vạn Xuân)