TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN Tóm tắt những kết luận mới của luận án: 1. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét tại xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, 2018 Tỷ lệ KSTSR được phát hiện bằng kỹ thuật Real-Time PCR chiếm 23,87% cao gấp 17,95 lần tỷ lệ KSTSR được phát hiện bằng RDT (1,33%) và gấp 11,21 lần tỷ lệ KSTSR được phát hiện bằng xét nghiêm lam máu soi kính hiển vi (2,13%). Tỷ lệ nhiễm KSTSR: Trong vòng 14 ngày trước khi được khảo sát đối tượng có đi rừng nhiễm cao hơn đối tượng ở nhà (OR=2,85; 95%CI=1,34-6,05), có giao lưu biên giới cao hơn không giao lưu (OR=1,67; 95%CI=0,10-2,78); ngủ lại rừng buổi tối cao hơn không ngủ lại (OR=3,33; 95%CI=1,92-5,74); ngủ rẫy tỷ lệ nhiễm cao hơn không ngủ lại rẫy (OR=1,67; 95%CI=1,11-2,51) và đối tượng đã từng mắc sốt rét tỷ lệ nhiễm cao hơn chưa từng mắc (OR=1,8; 95%CI=1,23-2,59), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p45 tuổi tỷ lệ đáp ứng miễn dịch với loài KSTSR này chiếm 9,3% tại Đắk Ơ và 9,9% tại xã Bù Gia Mập
Tỷ lệ đáp ứng miễn dịch với bệnh sốt rét ở người dân vùng sốt rét lưu hành nặng không phân biệt theo nhóm tuổi, nhưng có mối tương quan thuận giữa độ tuổi và mức độ miễn dịch; tuổi càng cao thì tỷ lệ miễn dịch càng cao Miễn dịch sốt rét liên quan đến triệu chứng lâm sàng và việc phát hiện sớm người nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở người lớn là rất quan trọng, vì họ có thể bị nhiễm nhiều lần hoặc mang ký sinh trùng với mật độ thấp mà không có triệu chứng rõ ràng Đối với những người đã có miễn dịch, hiệu quả điều trị sốt rét cao hơn so với những người chưa có miễn dịch Ở các quần thể có miễn dịch thấp, sốt rét có nguy cơ bùng phát khi có mầm bệnh và yếu tố truyền bệnh, do đó cần duy trì biện pháp phòng chống tích cực, đặc biệt là giám sát người di biến động từ vùng sốt rét lưu hành Nghiên cứu cho thấy người sống lâu trong vùng này thường có miễn dịch cao, đôi khi nhiễm ký sinh trùng mà không có triệu chứng, có thể trở thành nguồn lây cho cộng đồng khi có véc tơ truyền bệnh Tại xã Đắk Ơ và xã Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng, cần có biện pháp truyền thông giáo dục sức khỏe phù hợp để nâng cao kiến thức và thực hành phòng ngừa bệnh sốt rét, góp phần giảm tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh này.
1.1.3 Người mang ký sinh trùng sốt rét không triệu chứng lâm sàng
Người mang KSTSR không triệu chứng là những người có ký sinh trùng sốt rét trong máu nhưng không biểu hiện triệu chứng lâm sàng, thường là những người sống lâu ở vùng sốt rét lưu hành hoặc đã mắc bệnh nhiều lần Họ không đến cơ sở y tế để khám bệnh, dẫn đến việc KSTSR chỉ được phát hiện qua các đợt điều tra cộng đồng Những người này không biết mình bị bệnh, tạo điều kiện cho việc lây lan sốt rét KSTSR do P falciparum không triệu chứng là một thách thức lớn trong công tác phòng chống sốt rét Các quốc gia đang hướng tới loại trừ sốt rét theo tiêu chí của Tổ chức Y tế thế giới, nhưng tình hình sốt rét đang giảm và KSTSR đa kháng thuốc có thể thay đổi theo thời gian Do đó, cần có công cụ phát hiện KSTSR nhạy và đặc hiệu cao để giám sát hiệu quả Kỹ thuật sinh học phân tử ngày càng quan trọng trong chương trình phòng chống sốt rét, vì nhiều trường hợp nhiễm KSTSR có thể không được phát hiện bằng phương pháp truyền thống Phát hiện và điều trị sớm sốt rét là tiêu chí quan trọng để giảm tỷ lệ bệnh nhân sốt rét ác tính và tử vong Hiện nay, xét nghiệm KSTSR chủ yếu được thực hiện bằng kỹ thuật lam máu soi kính hiển vi hoặc test chẩn đoán nhanh, trong khi kỹ thuật sinh học phân tử chưa được áp dụng rộng rãi Nghiên cứu tại huyện Nam Trà My cho thấy tỷ lệ nhiễm KSTSR qua kính hiển vi là 7,8%, trong đó P falciparum chiếm 81,4%.
P vivax 17,7% Tỷ lệ KSTSR được phát hiện bằng kỹ thuật PCR chiếm 22,6%, trong đó đối tượng nhiễm KSTSR do P vivax chiếm 43,2% Tỷ lệ nhiễm KSTSR điều tra tại các khu vực Miền Trung chiếm 29,14% trong đó loài KSTSR do P falciparum chiếm 9,70%, KSTSR do P vivax chiếm 7,40%, nhiễm KSTSR phối hợp P falciparum + P vivax chiếm 7,10% và KSTSR do P malariae chiếm 4,10%
Tình hình sốt rét
1.2.1.1 Tình hình mắc sốt rét, sốt rét ác tính, tử vong do sốt rét
Năm 2018, toàn cầu ghi nhận khoảng 228 triệu ca mắc sốt rét và 405.000 ca tử vong, giảm 9,16% so với năm 2010 và 1,30% so với năm 2017 Số ca tử vong do sốt rét giảm 2,64% so với năm 2017 và 30,77% so với năm 2010 Khu vực châu Phi chiếm 93,0% số ca mắc và 94,0% số ca tử vong, tiếp theo là Đông Nam Á với 3,4% và khu vực Đông Địa Trung Hải với 2,1% Đặc biệt, trẻ em dưới 5 tuổi chiếm 67,0% trong tổng số ca tử vong do sốt rét, tương đương 272.000 ca Trong số các ca mắc, P falciparum chủ yếu tập trung ở vùng cận Sahara châu Phi (99,70%), Đông Nam Á (50,0%), Địa Trung Hải (71,0%) và Thái Bình Dương (65,0%) Trong khi đó, P vivax chủ yếu xuất hiện tại châu Mỹ (75,0%) và Đông Nam Á (53,0%), với Ấn Độ chiếm 47,0%.
Giai đoạn 2000-2018, các quốc gia không ghi nhận trường hợp nhiễm KSTSR nội địa trong ba năm liên tiếp đủ điều kiện đề nghị TCYTTG cấp chứng nhận loại trừ sốt rét Năm 2018, TCYTTG đã thẩm định và cấp chứng nhận loại trừ sốt rét cho Paraguay, Uzbekistan, cùng với các quốc gia như Trung Quốc, EI Salvador, Iran, Malaysia và Timor – Leste báo cáo không có trường hợp nhiễm KSTSR nội địa.
Hình 1.1 Tình hình sốt rét trên thế giới từ năm 2000-2018 [127]
Tỷ lệ mắc sốt rét toàn cầu đã giảm từ 71 ca/1.000 dân vào năm 2010 xuống còn 57 ca/1.000 dân vào năm 2018 Tại khu vực châu Phi, tỷ lệ mắc sốt rét cũng giảm từ 294 ca/1.000 dân vào năm 2014 xuống còn 229 ca/1.000 dân vào năm 2018.
Tỷ lệ nhiễm KSTSR tại một số quốc gia cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm tuổi và các loại ký sinh trùng Tại Campuchia (2016), tỷ lệ nhiễm ở trẻ em từ 0-14 tuổi chỉ là 3,50%, thấp hơn so với 8,80% ở nhóm tuổi ≥15 Trong đó, P falciparum chiếm 1,60%, P vivax 1,10%, P malariae 0,01% và nhiễm phối hợp P falciparum + P vivax là 0,2% Tại Myanmar (2017), tỷ lệ nhiễm KSTSR chung đạt 23,20%, với P falciparum chiếm 12,0%, P vivax 8,36%, P malariae 0,09% và phối hợp P falciparum + P vivax 2,76% Năm 2019, tỷ lệ nhiễm KSTSR ở các vùng sốt rét trọng điểm Myanmar chỉ còn 0,7% Trong khi đó, vào năm 2015, tỷ lệ nhiễm KSTSR tại khu vực biên giới Thái Lan - Myanmar trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét là 1,10%, với P vivax chiếm 0,73% và P falciparum 0,37%.
Bảng 1.1 Tình hình mắc sốt rét trên thế giới từ năm 2010-2018
Số ca mắc sốt rét (tính theo 1.000)
Nguồn: Báo cáo sốt rét của Tổ chức Y tế thế giới [127]
Từ năm 2010 đến 2018, tình hình mắc sốt rét trên toàn cầu có xu hướng giảm dần Cụ thể, năm 2018 so với năm 2010, số trường hợp mắc sốt rét ở châu Phi giảm 2,93%, Đông Nam Á giảm 68,40%, trong khi đó, châu Mỹ, Địa Trung Hải và Tây Thái Bình Dương lần lượt tăng 14,13%, 13,95% và 7,67% Tỷ lệ mắc sốt rét toàn cầu trong năm 2018 giảm 9,16% so với năm 2010.
Bảng 1.2 Tình hình tử vong do sốt rét trên thế giới từ năm 2010-2018
Tử vong do sốt rét
Thế giới 585.000 536.000 508.000 477.000 463.000 427.000 427.000 416.000 405.000 Trẻ em