Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
− Phương pháp phân tích hệ thống
− Phương pháp phân tích thống kê
− Phương pháp thảo luận nhóm
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
− Tiểu luận góp phần cung cấp và làm rõ hơn những thay đổi trong quá trình nhận thức của Đảng về CNH, HĐH
Tiểu luận này nhằm làm rõ những nội dung cơ bản về nhận thức của Đảng đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong thời kỳ đổi mới, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa thực tiễn của quá trình này.
- Tiểu luận trình bày sâu sắc, có hệ thống quá trình thay đổi nhận thức của Đảng về CNH, HĐH qua các thời kỳ
Đảng đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong thời kỳ đổi mới Để nâng cao hiệu quả của quá trình này, cần đánh giá và tổng kết những thành tựu cũng như thách thức đã gặp phải Các giải pháp đề xuất bao gồm tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở hạ tầng, và khuyến khích đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực kinh tế Việc thực hiện những giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước.
− Ngoài ra, tiểu luận còn có thể là tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về nhận thức của Đảng về CNH, HĐH trong thời kỳ đổi mới.
Lịch sử nghiên cứu
Tìm hiểu đường lối công nghiệp hóa của Việt Nam trong thời kì đổi mới
Chí Minh, do giáo viên Nguyễn Hoàng Minh hướng dẫn
Bài luận này phân tích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH) ở Việt Nam trước và trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh chủ trương của Đảng, kết quả và nguyên nhân của sự chuyển mình này Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang nỗ lực phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là ưu tiên hàng đầu Việc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu là điều kiện tiên quyết để tránh phụ thuộc vào nước ngoài và bảo vệ độc lập quốc gia Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, cần khai thác hiệu quả các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến.
Link bài viết: http://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-tim-hieu-duong-loi-cong-nghiep-hoa- cua-dang-ta-trong-thoi-ky-doi-moi-72714/
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng 4.0
Tác giả: TS Trần Văn Thiện (Đại học Văn Lang) (2019)
Cách mạng công nghiệp 4.0 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, dẫn đến sự bùng nổ tri thức và thay đổi căn bản trong sản xuất, tiêu thụ, lối sống, tổ chức quản lý và giáo dục Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần nắm bắt thời cơ, chủ động hội nhập quốc tế, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, tiếp thu và vận dụng phù hợp các thành tựu khoa học công nghệ mới, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ Các chương trình nghiên cứu cần tập trung vào những vấn đề cơ bản và đặc thù của Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Link bài viết: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/qua-trinh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa- dat-nuoc-trong-boi-canh-cua-cuoc-cach-mang-40-63530.html
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa từ đổi mới đến nay -thành tựu và những vấn đề đặt ra
Tác giả: TS Nguyễn Giáo - Viện nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Bài viết được đăng vào 5:41, ngày 29/6/2020 trên tạp chí cộng sản
Bài viết phân tích quan điểm của Đảng về văn hóa từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Tác giả nêu rõ những thay đổi trong quan điểm và đường lối của Đảng qua từng kỳ Đại hội, đồng thời chỉ ra kết quả đạt được và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra cho đất nước.
Link bài viết : https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-
/2018/816918/quan-diem-cua-dang-ve-xay-dung-nen-van-hoa-tu-sau-doi-moi-den- nay -thanh-tuu-va-nhung-van-de-dat-ra.aspx
Nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa và thực trạng CNH – HĐH ở nước ta hiện nay
Tác giả: Th.S Nguyễn Thị Hằng - Bộ môn LLCT trường Cao đẳng Sư phạm Gia
Bài viết được đăng vào 2:33:58 ngày 14/01/2015 trên trang trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai
Bài viết phân tích quá trình nhận thức của Đảng về tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa (CNH) qua các Đại hội từ III đến XI, đồng thời so sánh sự phát triển nhận thức trước và sau đổi mới trong tư duy lãnh đạo và các nguồn lực Tác giả chỉ ra thực trạng bao gồm các đường lối chính sách, thành tựu đạt được và những hạn chế trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Ngoài ra, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế này, thể hiện sự sâu sắc trong phân tích của tác giả.
Link bài viết: http://cdspgialai.edu.vn/Article/Detail/737
Tìm hiểu quan điểm “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” trong dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
Tác giả: Nguyễn Hải Lý – GV khoa Lý luận cơ sở trường chính trị Lê Duẩn
Bài viết được đăng vào 25/09/2020 – 16:08 PM được đăng trên trang trường chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa Đảng ta đã thành công trong việc đổi mới sáng tạo ở nhiều lĩnh vực, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển trong các ngành như y tế, giáo dục, và công nghệ thông tin Mặc dù đối mặt với thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các vấn đề như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, và ô nhiễm môi trường, Đảng đã chuẩn bị đầy đủ nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo thành công trong cuộc cách mạng công nghiệp này.
Bài viết tập trung vào việc tìm hiểu quan điểm về việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo Nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các thành tựu khoa học vào thực tiễn để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến vai trò của các chính sách và chiến lược trong việc tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu của Đại hội XIII của Đảng.
Quan điểm của đồng chí Lê Duẩn về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với hiện thực hóa trong giai đoạn hiện nay
Tác giả: Nguyễn Quốc Thanh
Bài viết được đăng ngày 07/04/2021 tại cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị
Một trong những di sản lý luận về cách mạng XHCN của Lê Duẩn là việc thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam Với tư duy độc lập và sáng tạo, ông đã làm rõ nhiều vấn đề cụ thể trong quá trình công nghiệp hóa, từ kháng chiến đến kiến quốc, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN Những lý luận này vẫn giữ tính thời sự quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế toàn cầu, tạo điều kiện cho phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống người lao động, giải phóng sức lao động nặng nhọc, và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, hướng tới sự phát triển toàn diện và tự do.
Tôi không biết!
Đổi mới tư duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Bài viết được đăng vào 21:44, Chủ Nhật, 04-10-2015 trên trang báo Nhân Dân điện tử
Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong quá trình đổi mới đất nước, đồng thời tái hiện quá trình phát triển của CNH, HĐH qua các kỳ Đại hội từ III đến XII Tác giả chỉ ra những quan điểm lệch lạc và chính sách không hợp lý của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy CNH, HĐH, đồng thời đề xuất các tiêu chí phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế, xã hội và môi trường Bài viết cũng khẳng định mối liên hệ chặt chẽ và không thể tách rời giữa CNH và HĐH trong bối cảnh hiện đại.
Link bài viết: https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/doi-moi-tu-duy-ve-cong-nghiep-hoa-hien-dai- hoa-244282?fbclid=IwAR1Y0EozqlG_Kv-zSroQR-
Nhìn lại 30 năm đổi mới và về mục tiêu tổng quát, động lực phát triển đất nước 5 năm tới
Tác giả: GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Bài viết được đăng vào 05:56 ngày 08/10/2015 trên trang Công an nhân dân online
Nội dung: Đầu tiên về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và nhìn lại
Trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016), có ba nội dung chính: bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước ảnh hưởng đến việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; đánh giá tổng quát thành tựu và hạn chế; và rút ra bài học từ 30 năm đổi mới Về mục tiêu tổng quát và động lực phát triển đất nước giai đoạn 2016 - 2020, cũng có ba nội dung quan trọng: dự báo tình hình thế giới và trong nước; phát huy các nhân tố tạo động lực phát triển; và xác định các phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong nhiệm kỳ Đại hội XII.
Link bài viết: https://bitly.com.vn/l95ims
Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Tác giả: Nghiên cứu sinh Đỗ Khánh Chi (2016)
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là những vấn đề quan trọng được nhiều quốc gia, đặc biệt là Việt Nam, chú trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân luôn là ưu tiên hàng đầu trong các chương trình nghị sự của Đảng và Nhà nước Qua các kỳ đại hội, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và nông dân, từ đó đưa ra những chủ trương và định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình và yêu cầu phát triển của đất nước trong từng giai đoạn.
Kể từ khi thành lập, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ then chốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Link bài viết: https://bom.to/HMk7gzU1xFSLtG
Công nghiệp háo hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần 4
Tác giả : TS Phạm Thuyên
Cuốn sách "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư" của TS Phạm Thuyên cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) tại Việt Nam Tác phẩm nêu rõ những thách thức và cơ hội mà đất nước đang đối mặt trong quá trình này, đồng thời đề xuất các giải pháp căn cơ để thúc đẩy CNH, HĐH trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu.
Với gần 900 trang sách chia thành 5 chương, tác giả phân tích bản chất và tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đối với công nghiệp hóa (CNH) và hiện đại hóa (HĐH) Bài viết cũng nêu rõ thực trạng quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam, đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới đến nay.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc hiện đại hóa ngành công nghiệp là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế Việt Nam Sự chuyển đổi này không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất mà còn thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp Các chính sách hỗ trợ từ chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới, từ đó góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được chia làm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học hình thành quan điểm
Chương 2: Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chương 3: Các giai đoạn thay đổi nhận thức của Đảng về mục tiêu và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kì đổi mới.
Chương 4: Đánh giá về quá trình nhận thức của Đảng thời kì đổi mới và rút ra bài học.
CƠ SỞ KHOA HỌC HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM
Quan điểm của Mác
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, bắt nguồn từ cuộc cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa Mác và Ăng - ghen đã chỉ ra rằng trong đại công nghiệp, cách mạng bắt đầu từ tư liệu lao động, đặc biệt là máy công cụ Máy móc không chỉ thúc đẩy phân công lao động xã hội mà còn giảm thiểu lao động cơ bắp, yêu cầu người lao động nâng cao trình độ học vấn Mác dự đoán rằng sự phát triển của đại công nghiệp sẽ làm cho việc tạo ra của cải ngày càng ít phụ thuộc vào thời gian và số lượng lao động, mà thay vào đó, phụ thuộc vào trình độ khoa học và tiến bộ kỹ thuật cũng như khả năng ứng dụng chúng vào sản xuất.
Cách mạng trong phương thức sản xuất công nghiệp đã tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ trong cấu trúc ngành kinh tế và lao động xã hội Bắt đầu từ công nghiệp nhẹ, cuộc cách mạng này đã lan rộng sang nông nghiệp, giao thông vận tải và cuối cùng là công nghiệp nặng Sự chuyển đổi này yêu cầu lao động phải chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, dẫn đến sự giảm sút cả tương đối và tuyệt đối của lao động nông nghiệp Mác đã dự đoán rằng quá trình công nghiệp hóa sẽ tiếp tục thúc đẩy sự dịch chuyển lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Quan điểm của Lênin
V.LLênin cũng phân tích sự tác động của công nghiệp tới lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp sẽ làm cho công cụ lao động ngày càng tiến bộ hơn, dẫn đến năng suất lao động trong nông nghiệp tăng khi đó đỏi hỏi phải phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp và kéo theo nó là những ngành công nghiệp khác cũng phát triển Theo Lênin: “Ngoài máy móc ra, sự cần thiết phải cày bừa ruộng đất tốt hơn nữa sẽ đưa đến chỗ thay thể những công cụ thổ sơ trrớc đây, bằng
Lênin nhấn mạnh rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thành công khi xây dựng một nền sản xuất hiện đại với công nghệ tiên tiến và năng suất lao động vượt trội hơn chủ nghĩa tư bản Đối với những quốc gia có nền kinh tế lạc hậu và bị chiến tranh tàn phá như Nga, công nghiệp hoá là bước đi thiết yếu để tạo dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong đó điện khí hoá đóng vai trò quan trọng nhất Ông luôn coi trọng việc phát triển ngành sản xuất với công nghệ hiện đại và đào tạo công nhân có trình độ cao, vì vậy, trong giai đoạn khó khăn sau chiến tranh, ông vẫn quyết định chi hàng triệu rúp để cử người ra nước ngoài học tập.
Công nghiệp phát triển không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nông nghiệp mà còn thúc đẩy các quá trình kinh tế khác, từ đó mở rộng và hiện đại hóa nông nghiệp, giúp nông sản hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Cách mạng công nghiệp đã tạo cơ hội cho việc mở rộng thị trường trong nước, đồng thời giúp hàng hóa dễ dàng lưu thông ra ngoài biên giới quốc gia, tham gia vào phân công lao động và thị trường thế giới.
Sản xuất bằng máy móc đã cơ khí hoá quy trình khai thác tài nguyên và vận tải, giúp gia tăng sản lượng sản phẩm và thuận lợi trong lưu thông Điều này đã mở rộng thị trường toàn cầu, dẫn đến sự quốc tế hoá trong đời sống kinh tế và thúc đẩy xu hướng toàn cầu hoá.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghiệp hoá nông nghiệp đối với sự phát triển của đất nước Ông cho rằng, để nâng cao đời sống nông dân, cần phải phát triển nông nghiệp thông qua việc áp dụng máy móc sản xuất một cách rộng rãi Để thực hiện điều này, việc khoanh vùng sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết.
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã rút ra bài học từ những thất bại trong việc áp dụng mô hình phát triển công nghiệp nặng một cách máy móc Qua đó, Đảng đã đổi mới và hoàn thiện quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phản ánh quá trình đổi mới tư duy lý luận và chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH), Việt Nam có lợi thế là nước đi sau, có thể học hỏi từ kinh nghiệm của các nước đi trước để rút ngắn thời gian thực hiện Trong khi Anh mất 120 năm, Mỹ 90 năm, Nhật Bản 70 năm và các nước công nghiệp mới chỉ hơn 30 năm, Việt Nam đang trong bối cảnh chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT) với sự bùng nổ của công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ nano và vật liệu mới Đây là cơ hội hiếm hoi để Việt Nam thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp các nước phát triển, vì vậy việc chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển dựa vào tri thức là yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Sự nghiệp xây dựng, đổi mới và bảo vệ đất nước luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diễn ra liên tục trong bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng và khó lường.
Thứ nhất, sự sụp đổ của Liên Xô các nước ở Đông Âu đã khiến cho hệ thống
Mặc dù chủ nghĩa xã hội cộng sản (XHCN) đã tê liệt hoàn toàn, nhưng điều này không làm thay đổi bản chất của thời đại, khi loài người vẫn tiếp tục con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội Những mâu thuẫn toàn cầu ngày càng trở nên sâu sắc, và cuộc đấu tranh cho dân tộc cũng như giai cấp vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau.
Mặc dù mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân và các cuộc chiến tranh thế giới đã kết thúc, nhiều khu vực trên thế giới vẫn đang phải đối mặt với xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc và tôn giáo, cùng với các cuộc chiến tranh cục bộ và hoạt động can thiệp nhằm lật đổ chính quyền.
Thế giới hiện đang đối mặt với những thách thức toàn cầu như dịch bệnh và thiên tai, những vấn đề này tác động sâu sắc đến đời sống và xã hội Không một quốc gia hay cá nhân nào có thể tự mình giải quyết những vấn đề này, đòi hỏi sự hợp tác và nỗ lực chung từ tất cả mọi người.
Thứ tư, Công cuộc phát triển khoa học và công nghệ không ngừng được cải tiến và nâng cao góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Hiện nay, quan hệ quốc tế đang thể hiện xu hướng hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển Khu vực Thái Bình Dương ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực đấu tranh vì hòa bình.
Trước những biến động lớn của thế giới, Việt Nam đã phải đối mặt với cả những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực Đảng ta nhận thức rõ về các thời cơ cũng như thách thức lớn mà đất nước cần vượt qua trên con đường phát triển.
Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới đã tạo nền tảng vững chắc cho việc chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn Trong bối cảnh hòa bình, ổn định và hợp tác toàn cầu, đặc biệt là trong khu vực Thái Bình Dương, khả năng hội nhập của Việt Nam với thế giới ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
− Nguy cơ chệch khỏi con đường XHCN
− Nạn tham nhũng, quan liêu bao che
− Nguy cơ về diễn biến hoà bình của thế lực thù địch
Tất cả các nguy cơ đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và không thể bị xem nhẹ, vì bất kỳ nguy cơ nào cũng có thể tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.3 Thực trạng thực hiện đường lối công nghiệp hóa trong thời kỳ trước đổi mới
Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) tại Việt Nam vẫn chưa được định hình rõ ràng và chưa phát triển hiệu quả các ngành công nghiệp ưu tiên Đồng thời, việc tận dụng công nghệ và nguồn lực đầu tư nước ngoài chưa đạt được mức độ cần thiết để tạo ra sự lan tỏa, từ đó thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tương xứng Đặc biệt, quá trình công nghiệp hóa chưa được gắn chặt với hiện đại hóa, dẫn đến việc phát triển công nghiệp chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp.
Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn đang triển khai chậm và chưa đạt hiệu quả cao Chất lượng nguồn nhân lực thấp cùng với hạ tầng yếu kém vẫn là những điểm nghẽn, cản trở quá trình CNH, HĐH đất nước.
Nguyên nhân dẫn đến hạn chế:
- Do nền kinh tế đất nước còn lạc hậu lại chịu tàn phá của chiến tranh
Việc xác định bước đi không hợp lý và sai lầm trong bố trí phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến định hướng phát triển dài hạn.
Những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa đã làm chậm quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội Do đó, cần có một quan điểm mới và tiến bộ hơn để đất nước nhanh chóng đạt được công nghiệp hóa - hiện đại hóa, sánh vai cùng các quốc gia phát triển.
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ cuối thế kỷ XVIII, lịch sử đã chứng kiến hai loại hình công nghiệp hoá chính: công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa Mặc dù chúng tương đồng về lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ, nhưng lại khác biệt về mục đích, phương thức thực hiện và sự chi phối của quan hệ sản xuất Công nghiệp hoá diễn ra ở các quốc gia và thời điểm lịch sử khác nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội đa dạng, dẫn đến sự khác biệt trong nội dung khái niệm.
Tuy nhiên, theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp
Đảng ta quan niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi toàn diện các hoạt động sản xuất, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội Quá trình này chuyển từ việc sử dụng sức lao động thủ công sang việc áp dụng công nghệ và phương pháp hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam cần phải kết hợp chặt chẽ, không chỉ tập trung vào phát triển công nghiệp mà còn phải chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và toàn bộ nền kinh tế theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại Điều này bao gồm việc áp dụng các bước cơ giới hóa, tự động hóa, và tin học hóa, đồng thời kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại Mục tiêu là nhanh chóng hiện đại hóa những khâu quan trọng để nâng cao hiệu quả và năng suất trong phát triển kinh tế.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên lạc hậu sang nền kinh tế thị trường hiện đại, với mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn Để phát triển nền sản xuất lớn, cần thiết phải có cơ sở hạ tầng và công cụ lao động tiên tiến Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mọi quốc gia đều phải thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho sự phát triển này.
Cơ sở kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật công nghiệp mà lực lượng lao động sử dụng để tạo ra của cải vật chất Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một nhiệm vụ kinh tế quan trọng và là yêu cầu khách quan Để phát triển nền sản xuất lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật cần dựa trên trình độ công nghệ hiện đại và không ngừng được hoàn thiện.
Chúng ta cần không ngừng hiện đại hóa công nghệ và đổi mới để đảm bảo sự sống còn của quốc gia Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất hiện đại là yếu tố then chốt giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, từ đó thúc đẩy năng suất lao động và đáp ứng nhu cầu của nhân dân Công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là con đường tất yếu để đạt được mục tiêu này.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ lao động thủ công sang sử dụng phổ biến sức lao động kết hợp với công nghệ hiện đại Quá trình này dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học, nhằm tạo ra năng suất lao động cao hơn.
Trong bối cảnh thế giới chuyển mình từ văn minh công nghiệp sang hậu công nghiệp, nhiều nước châu Á đã chọn con đường công nghiệp hóa để nhanh chóng hòa nhập vào nền văn minh hiện đại, biến những vùng nghèo nàn thành xã hội phát triển Những kinh nghiệm quý báu từ các nước này là bài học thiết thực cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam Công nghiệp hóa trở thành nhu cầu cấp bách, là chìa khóa cho sự phát triển và tăng trưởng, bởi vì nó là phương tiện mạnh mẽ để nâng cao năng suất lao động, gia tăng số lượng và đa dạng sản phẩm Sự khác biệt giữa các nước phát triển và các nước khác chính là quá trình công nghiệp hóa.
Công nghiệp hoá đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền kinh tế hiện đại, mang lại năng suất cao và cơ cấu sản xuất đa dạng, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn so với nền kinh tế chưa công nghiệp hoá Để đạt hiệu quả tối ưu, công nghiệp hoá cần gắn liền với hiện đại hoá và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhằm phát triển chiều rộng và tạo việc làm cho lực lượng lao động đông đảo Hơn nữa, việc áp dụng các bước đi tắt đón đầu trong phát triển chiều sâu sẽ giúp hình thành các ngành mũi nhọn, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học và công nghệ toàn cầu.
Khoa học và công nghệ hiện đại đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa, tuy nhiên, hiện đại hóa không chỉ giới hạn ở khía cạnh này mà còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị và văn hóa, thể hiện sự sâu sắc và rộng lớn của nó.
Hiện đại hoá là quá trình mà các nước đang phát triển hướng tới tăng trưởng kinh tế, cải cách chính trị và củng cố xã hội nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế xã hội văn minh Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đặt ra nhiều thách thức trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và hành động Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật và phân công lao động mới, nhằm tích luỹ xã hội chủ nghĩa và mở rộng tái sản xuất Đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa hiện nay ưu tiên phát triển công nghiệp nặng hợp lý, dựa trên nền tảng phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, khác với quan niệm trước đây về vị trí tuyệt đối của công nghiệp nặng.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi phức tạp và đa dạng, mang tính chất phổ biến nhưng được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia Quá trình này không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế mà còn bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau, phản ánh sự chuyển mình của xã hội và công nghệ trong bối cảnh toàn cầu.
- Trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nền kinh tế
- Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi lực lượng sản xuất và công nghệ kỹ thuật, từ đó nâng cao năng suất lao động và tạo ra tốc độ phát triển nhanh chóng Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phức tạp và đa dạng của mối quan hệ giữa các ngành yêu cầu nâng cao năng lực quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước, cũng như khả năng tích luỹ vốn Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá không chỉ thúc đẩy phát triển toàn diện yếu tố con người mà còn tạo điều kiện mở rộng hợp tác quốc tế và củng cố quốc phòng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa để ngăn chặn nguy cơ tụt hậu kinh tế, Đảng ta đã đề ra đường lối này từ Đại hội VIII (tháng 9-1996) như một nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội Trong suốt những năm đất nước có chiến tranh, Đảng và Nhà nước vẫn kiên trì theo đuổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo sức mạnh cho đất nước Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, các nghị quyết từ Đại hội VI đến Đại hội VIII đều khẳng định đường lối đổi mới và đề ra các nội dung cụ thể cho từng giai đoạn Đại hội Đảng VIII nhấn mạnh rằng giai đoạn từ nay đến năm 2000 là thời điểm quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Với ý nghĩa to lớn đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành yêu cầu tất yếu, là con đường đúng đắn để phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Giai đoạn 1986 – 1996
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn quá độ của đất nước, nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từ đó tạo điều kiện cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
3.1.1 Đại hội VI của Đảng
Tại Đại hội VI, sau khi rút ra bài học từ các nền kinh tế toàn cầu, chúng ta đã bắt đầu thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế dựa trên tư duy mới và tổng kết các thử nghiệm thực tế Giai đoạn 1986-1990 được coi là bước khởi đầu cho sự phát triển kinh tế mạnh mẽ sau này Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện, với trọng tâm là đổi mới kinh tế Mục tiêu tổng quát cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định tình hình kinh tế - xã hội và xây dựng những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn tiếp theo Đại hội VI xác định sẽ tập trung thực hiện ba Chương trình quan trọng.
1) Chương trình về lương thực - thực phẩm với mục tiêu đảm bảo đủ lương thực cho toàn xã hội và có lương thực dự trữ, đáp ứng ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm
2) Chương trình hàng tiêu dùng với mục tiêu đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân dân về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu
3) Chương trình xuất khẩu với mục tiêu tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu Cùng với những nhiệm vụ trọng tâm này, Đại hội cũng xác định nhiệm vụ chú trọng phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc và các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân
3.1.2 Đại hội VII của Đảng
Đại hội VII đã khẳng định những thành công trước đó bằng cách thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2000 Hội nghị Trung ương tiếp tục thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững cho đất nước.
7 khóa VII (7/1994) đã ra Nghị quyết “Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm
Nghị quyết 2000 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, thúc đẩy phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ phục vụ sản xuất Đại hội VII lần đầu tiên xác định rõ ràng phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong Văn kiện của Đảng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa để không bị tụt hậu so với thế giới Đặc biệt, phát triển nông nghiệp và nông thôn được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, với cam kết từ nay đến cuối thập kỷ sẽ tập trung vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến.
3.1.3 Đại hội VIII của Đảng Đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đến năm 2020: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” Đại hội VIII cho rằng “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt nhất định còn chưa vững chắc Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Từ đó, Đại hội đã xác định mục tiêu đến năm 2000 và năm 2020 Đại hội VIII đã bổ sung, phát triển thành 6 quan điểm lớn chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Những quan điểm tổng quát này cho thấy rõ hơn: mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta là sự kết hợp giữa chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hướng mạnh về xuất khẩu, coi thị trường bên ngoài là một yếu tố giữ vị trí đặc biệt quan trọng cho sự phát triển Đại hội VIII xác định nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỷ 1990 là:
Chúng ta cần đặc biệt chú trọng đến việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp cũng như nông thôn Điều này bao gồm việc phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, kết hợp chặt chẽ với ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
− Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng kinh tế là rất quan trọng, đặc biệt là tại những điểm ách tắc và yếu kém nhất, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững.
− Mở rộng thương nghiệp, du lịch và dịch vụ
− Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghiệp
3.1.4 Đại hội IX của Đảng
Kiểm điểm và đánh giá Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 – 2000, bài viết tổng kết những thành tựu và bài học quan trọng từ 15 năm đổi mới, từ đó đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 với mục tiêu “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hiện đại.” Đại hội IX đã thông qua chiến lược này cùng với phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005, xác định chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI nhấn mạnh “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,” với nhiệm vụ trung tâm là phát triển các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Giai đoạn 1996 đến nay
Nhiệm vụ chính là kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm từ 2001 đến 2005, cùng với việc xem xét Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn 2001 – 2010 đánh dấu 20 năm đổi mới, trong đó quyết định phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho 5 năm 2006 – 2010 là rất quan trọng Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã tiến hành kiểm điểm sự lãnh đạo, đề ra phương hướng và nhiệm vụ xây dựng Đảng, đồng thời thực hiện việc bổ sung và sửa đổi Điều lệ Đảng Cuối cùng, việc bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X cũng đã được tiến hành.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là cần thiết để giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân Cần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng gia tăng giá trị, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường Thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như công nghệ sinh học vào sản xuất là rất quan trọng Đồng thời, tăng cường tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, bảo vệ và phát triển rừng, và phát triển nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, bảo vệ nguồn lợi thủy sản một cách hiệu quả Việc kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 2001 cũng cần được tiến hành nghiêm túc.
Năm 2005, Việt Nam đã xác định phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế cho giai đoạn 2006 – 2010 với mục tiêu tổng quát là thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững, nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển Đồng thời, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, hướng tới việc trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
Đại hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời phát huy sức mạnh toàn dân tộc để thúc đẩy công cuộc đổi mới, nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển Trong bối cảnh quốc tế và trong nước, giai đoạn 2006 – 2010 được đánh giá là quyết định cho việc hoàn thành Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 Mục tiêu trong giai đoạn này bao gồm đẩy mạnh đổi mới toàn diện, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, và giữ vững ổn định chính trị – xã hội Mục tiêu cuối cùng là tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.2.2 Đại hội XI của Đảng
Nhiệm vụ chính của Đại hội X của Đảng bao gồm kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, đề ra phương hướng và nhiệm vụ cho giai đoạn 2011 – 2015, cũng như tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001 – 2010 và xác định chiến lược cho giai đoạn 2011 – 2020 Đại hội còn tiến hành tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cho nhiệm kỳ 2011 – 2015.
Xác định thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường là mục tiêu quan trọng Cần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, hiệu quả và bền vững, kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ Đặc biệt, chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng và chế tạo, đồng thời nâng cao trình độ công nghệ trong nông, lâm, ngư nghiệp Cần bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền và thúc đẩy nhanh chóng các vùng kinh tế trọng điểm, tạo điều kiện cho các vùng khó khăn phát triển Trong giai đoạn 2001 – 2010, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã mang lại nhiều thành tựu, giúp đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và nâng cao vị thế quốc tế, tạo tiền đề quan trọng cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp theo.
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Chủ đề của đại hội nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc và đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.2.3 Đại hội XII của Đảng Đại hội XII sẽ đi sâu kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, nhìn lại 30 năm đổi mới, rút ra những bài học; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong 5 năm tới Đại hội XII cũng sẽ kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII gồm các đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới Xác định “CNH, HĐH đất nước phải tiến hành qua ba bước: Tạo tiền đề, điều kiện để tiến hành CNH, HĐH; đẩy mạnh CNH, HĐH và nâng cao chất lượng CNH, HĐH trong năm tới cần chú trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh bền vững; phấn đấu cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; “Xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại Chú trọng những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế; những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân, tỷ lệ lao động qua đào tạo ); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỷ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính )”
3.2.4 Đại hội XIII của Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có trách nhiệm lịch sử to lớn đối với Tổ quốc, đồng bào và dân tộc ta, không chỉ trong giai đoạn 5 năm 2021 – 2025 mà cho cả những thập niên tới, cho những thế hệ tương lai của đất nước Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đổi mới, hội nhập và phát triển, phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức, đồng lòng, kiên định niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn, Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.
ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ RÚT RA BÀI HỌC
Thành tựu
4.1.1 Về đặc trưng mô hình XHCN
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, thực hiện quản lý đất nước và tổ chức nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, mang lại hòa bình cho miền Bắc Từ đó, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trước Đổi mới được xây dựng trên nguyên tắc “nhân dân làm chủ tập thể” với nền kinh tế kế hoạch hóa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất Để phát triển văn hóa và con người mới xã hội chủ nghĩa, Việt Nam tiến hành cách mạng văn hóa Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện hai chức năng: chuyên chính với kẻ thù giai cấp và xây dựng chế độ mới Các dân tộc trong nước được đảm bảo quyền bình đẳng và phát triển thông qua việc thành lập các khu tự trị Việt Nam cũng xây dựng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước XHCN và các Đảng cộng sản, công nhân trên toàn thế giới, đồng thời chống lại thực dân đế quốc và mọi hình thức áp bức dân tộc.
Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã đưa đến thắng lợi, thống nhất đất nước, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội do hậu quả của hơn 30 năm chiến tranh tàn khốc Hệ thống hạ tầng bị tàn phá, nền kinh tế kiệt quệ, và tình hình an ninh biên giới bị xâm phạm bởi kẻ thù, cùng với sự bao vây, cấm vận từ các quốc gia thù địch Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới vào năm 1991 càng làm cho hoàn cảnh của Việt Nam trở nên khắc nghiệt Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn này, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối Đổi mới, khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của đất nước Công cuộc Đổi mới bắt đầu từ việc "đổi mới tư duy", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhìn thẳng vào sự thật, dựa vào dân, và coi trọng sáng kiến từ nhân dân Qua đó, Đảng đã đánh giá lại những bài học từ các mô hình chủ nghĩa xã hội thực tiễn, từ đó trở lại với những quan điểm quan trọng của Mác, Ăng-ghen và Lênin về quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành tựu lý luận của Đảng ta trong mô hình chủ nghĩa xã hội gắn liền với hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Để đạt được mục tiêu này, Đảng đã xác định 9 mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết đúng đắn, bao gồm: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; đổi mới kinh tế và chính trị; tuân theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất; mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; cùng với vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
4.1.2 Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phương thức quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển và xây dựng chủ nghĩa xã hội Dựa trên bài học thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, Đảng ta đã phát triển lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xác định mục tiêu và phương pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam Nội dung này liên quan đến kinh tế tri thức và phát triển bền vững, nhằm xây dựng cơ cấu hợp lý, phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, và khu vực Đồng thời, cần xây dựng nền kinh tế tự chủ, hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển đất nước.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành từ thời kỳ Đổi mới, bắt đầu từ Đại hội VI, với nhận thức ngày càng đầy đủ của Đảng Đây là nền kinh tế vận hành đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước Nó đại diện cho nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, dưới sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xác định có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ Trong mô hình này, nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển và cạnh tranh bình đẳng, với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế tư nhân là động lực quan trọng Nhà nước khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phát triển hệ thống an sinh xã hội để bảo đảm công bằng và đời sống bền vững cho nhân dân.
Việc vượt qua những hạn chế và sai lầm của nền kinh tế kế hoạch hóa trước Đổi mới đã dẫn đến sự phát triển lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một thành tựu quan trọng của Đảng ta Điều này không chỉ là cơ sở lý luận mà còn là điều kiện thiết yếu, góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ và liên tục của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên qua.
4.1.3 Về văn hóa, xã hội và con người
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đặc trưng quan trọng của mô hình xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta xác định từ Cương lĩnh 1991, nhằm xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam Nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa đã phát triển từ Đề cương văn hóa năm 1943, và ngày càng được củng cố trong quá trình cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ Đổi mới, khi văn hóa được coi là “nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.” Mục tiêu phát triển văn hóa là xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, phục vụ hạnh phúc và lợi ích chân chính của nhân dân, đồng thời phát triển tự do và toàn diện của con người Để đạt được mục tiêu này, Đảng chủ trương kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật, và phát triển nền báo chí, truyền thông hiện đại phục vụ cho nhu cầu phong phú của nhân dân và sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong quá trình Đổi mới, Đảng đã hoàn thiện nhận thức về con người, coi đây là "trung tâm của chiến lược phát triển" và là động lực chính cho sự phát triển Mối quan hệ giữa con người và văn hóa được nhấn mạnh, với mục tiêu phát triển văn hóa nhằm hoàn thiện nhân cách và nâng cao phẩm giá con người Đảng yêu cầu kết hợp vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường và cộng đồng để tạo ra môi trường xã hội văn hóa tích cực, ngăn chặn những tác động tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân Đồng thời, Đảng chủ trương thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và chính sách, bao trùm các lĩnh vực như giáo dục, y tế, và an sinh xã hội Nhà nước đóng vai trò trung tâm, huy động mọi nguồn lực xã hội để đảm bảo công bằng và mang lại hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng một xã hội văn minh và hài hòa.
4.1.4 Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng, lý luận quân sự và an ninh của Đảng đã phát triển mạnh mẽ, tạo nền tảng cho lực lượng vũ trang cách mạng và cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, dẫn đến những chiến công vĩ đại Trong bối cảnh thế giới thay đổi sâu sắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, Đảng đã đổi mới nhận thức về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời giữ gìn an ninh quốc gia Quan điểm mới về đối tác và đối tượng nhấn mạnh rằng mọi quốc gia tôn trọng độc lập, chủ quyền và thiết lập quan hệ hợp tác bình đẳng với Việt Nam đều được xem là đối tác.
Đảng xác định củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, với mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội Để đạt được điều này, Đảng chủ trương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với an ninh nhân dân, tăng cường hợp tác quốc tế và phát triển sức mạnh tổng hợp của đất nước Việc phát triển kinh tế - xã hội cần gắn liền với việc nâng cao sức mạnh quốc phòng, an ninh Đảng cũng nhấn mạnh việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân hiện đại, kết hợp với lực lượng dự bị và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của Đảng, cùng với quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, là yếu tố then chốt trong việc bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo an ninh quốc gia và duy trì trật tự, an toàn xã hội.
Đảng ta theo đuổi một đường lối đối ngoại nhất quán, nhấn mạnh sự độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và dân tộc, với mục tiêu xây dựng một Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh Trong bối cảnh thế giới thay đổi, Đảng đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ, chủ động hội nhập quốc tế để nâng cao vị thế đất nước Việt Nam cam kết trở thành bạn bè, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội toàn cầu Những đổi mới trong nhận thức lý luận của Đảng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ ngoại giao, thúc đẩy phát triển kinh tế, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4.1.5 Về phát huy dân chủ XHCN, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Dựa trên nguyên lý xây dựng đảng vô sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin và bối cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển lý luận quan trọng về xây dựng Đảng Cương lĩnh 2011 khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại diện trung thành cho lợi ích của họ và của dân tộc Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, đồng thời áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức.
Hạn chế
Công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ cùng các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương hiện còn nhiều bất cập Sự thiếu quyết liệt, kiểm tra và đôn đốc, cùng với việc thiếu phối hợp chặt chẽ đã dẫn đến hiệu lực và hiệu quả công tác chưa cao.
Cuộc khủng hoảng tài chính và thiên tai nghiêm trọng đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, làm chậm quá trình phát triển và cản trở việc đạt được các mục tiêu đề ra Mặc dù vốn đầu tư xã hội tăng liên tục trong những năm gần đây, nhưng việc quyết định đầu tư và lựa chọn dự án vẫn còn nhiều bất cập, thường chạy theo phong trào Chất lượng thi công xây dựng kém, thời gian thực hiện kéo dài và chi phí cao đã dẫn đến lãng phí và thất thoát trong quá trình xây dựng, vấn đề này vẫn chưa được khắc phục hiệu quả.
Phát triển kết cấu hạ tầng hiện nay vẫn còn lạc hậu và chưa tương thích với cơ chế thị trường Đầu tư chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, trong khi việc huy động nguồn lực từ khu vực ngoài nhà nước còn hạn chế Điều này dẫn đến việc chưa tạo ra sự ủng hộ mạnh mẽ và chia sẻ trách nhiệm từ toàn dân.
Tư duy giáo dục hiện nay chậm đổi mới và không theo kịp sự phát triển của đất nước trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế Chính sách giáo dục và đào tạo chưa tạo động lực để huy động sự tham gia của toàn xã hội Công tác quy hoạch nguồn nhân lực công nghiệp chưa được chú trọng, dẫn đến chất lượng đào tạo của các trường trong nước không đáp ứng yêu cầu, khiến doanh nghiệp phải tốn kém chi phí để đào tạo lại nhân viên.
Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững Mặc dù giá trị xuất khẩu đạt mức cao, nhưng hiệu quả lại thấp, với sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu chưa qua chế biến.
Bài học rút ra
Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, cần quản lý và điều hành tốt các mối quan hệ, đặc biệt là giữa khoa học, công nghệ và tri thức Sự phát triển của khoa học và công nghệ là yếu tố thiết yếu cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức Do đó, cần tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ và xây dựng chính sách phát triển phù hợp, tập trung vào các ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, công nghệ số hóa, công nghệ năng lượng mới, vật liệu mới và công nghệ sinh học Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin sẽ hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì công nghệ thông tin chính là chìa khóa để tiến vào nền kinh tế tri thức Để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, cần khắc phục sự chênh lệch về công nghệ.
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển chương trình giáo dục là cần thiết để đào tạo thêm cử nhân kinh tế và công trình kỹ thuật, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia Đồng thời, cần chú trọng đào tạo công nhân có tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và biết cách xử lý nguyên liệu để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu.
Hội nhập nhanh chóng mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ các doanh nghiệp trong nước có thể dẫn đến tình trạng ngành công nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào các doanh nghiệp FDI, từ đó không thể phát triển các doanh nghiệp nội địa một cách bền vững.
Cần chú trọng vào việc liên kết kinh tế giữa các vùng, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, đảm bảo chương trình phát triển phù hợp với quy hoạch kinh tế - xã hội của từng quốc gia và ngành nghề Nội dung liên kết cần bao quát tất cả lĩnh vực như kinh tế, xã hội, doanh nghiệp, nông dân và bảo vệ môi trường Đồng thời, cần có chế tài nghiêm minh để xử lý các hành vi tham nhũng gây thất thoát tài sản nhà nước, khen thưởng cho những sáng kiến và phát minh có giá trị thực tiễn trong sản xuất, và thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, đôn đốc từ các cơ quan nhà nước trong quá trình chỉ đạo thực hiện.
Đảng đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được khẳng định qua nhiều Đại hội Mục tiêu này là lâu dài, cơ bản và cần thực hiện qua nhiều giai đoạn, đã làm thay đổi căn bản diện mạo đất nước và tạo tiền đề cho sự phát triển Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục do nhiều lý do chủ quan và khách quan Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã đề ra những quan điểm và chủ trương đúng đắn, huy động nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho sự nghiệp CNH, HĐH Thế giới hiện nay đang trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức lớn Tình hình thế giới biến động mạnh, với sự gia tăng cạnh tranh bảo hộ và chiến tranh kinh tế, đang tạo ra những khó khăn cho quá trình CNH, HĐH của đất nước.
Việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) cần có đường lối đúng đắn để đạt hiệu quả cao, với mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, gắn liền với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế Quá trình này không chỉ điều hòa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mà còn tăng nhanh quá trình hiện đại hóa, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống người dân Những thành công trong CNH, HĐH ở Việt Nam đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối này trong thời kỳ đổi mới Tuy nhiên, lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH là một quá trình khó khăn và lâu dài, đòi hỏi Đảng phải tổng kết thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác để hoàn thiện lý luận và áp dụng vào thực tiễn, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.