LỜIMỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT ban hành ngày 13/6/2014 (sau đây gọi là Luật BHYT sửa đổi) từ năm 2015-2019, báo cáo thanh quyết toán thực tế hằng năm của BHXH Việt Nam cho thấy chi phí KCB BHYT vẫn tăng với tốc độ lớn. Nguồn quỹ KCB BHYT là có giới hạn, mà chi phí KCBtăng liên tục hằng năm tác động rất lớn đến khả năng cân đối quỹ BHYT và tính bền vững của chính sách. Vấn đề kiểm soát chi KCB BHYT trong giai đoạn này đang được thực hiện như thế nào khi thực tế, nếu đơn vị bội chi quỹ KCB hầu như vẫn được thanh toán toàn bộ? Kiểm soát chi KCB BHYT là một bài toán khó, yêu cầu phải có cái nhìn tổng quan về nhiều yếu tố và giai đoạn, từ phương thức, hiệu quả của việc giao quỹ của BHXH các tỉnh, thành phố đến việc khi có nguồn kinh phí, cơ sở y tế có ý thức về số chi KCB của họ không, có tiết kiệm được chi phí không? BHXH các tỉnh, thành phố đã có những biện pháp gì để đảm bảo quỹ KCB BHYT chi hiệu quả? Giai đoạn 2015-2019 với nhiều thay đổi về chính sách BHYT, cụ thể trong việc thanh quyết toán chi phí KCB BHYT cùng với đó là sự biến động thấy rõ về số chi KCB BHYT toàn quốc nói chung và đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với sự gia tăng nhiều số lượng các cơ sở y tế tư nhân tham gia KCB BHYT. Là một cán bộ Ban Thực hiện chính sách BHYT tại cơ quan BHXH Việt Nam, trực tiếp theo dõi tình hình quyết toán và các vấn đề liên quan thực hiện chính sách BHYT của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, tôi thực hiện đề tài “Kiểm soát chi khám chữa bệnh BHYT của Bảo hiểm xã hộiViệt Nam đối với Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long” nhằm thu thập, phân tích, xem xét tổng thể tình hình chi KCB BHYT tại 13 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn 5 năm thực hiện Luật BHYT sửa đổi, đánh giá một cách khách quan tình hình cân đối quỹ/ dự toán KCB BHYT tại đây để từ đó có những kiến nghị, giải pháp về việc kiểm soát chi phí KCB BHYT đối với BHXH các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo hiệu quả chi tiêu từ quỹ BHYT trong những năm tiếp theo, trong đó chú trọngnội dung nâng cao hiệu quả việc giao và sử dụng nguồn kinh phí KCB BHYT, những vấn đề cần điều chỉnh trong cách tính, giao nguồn kinh phí cho cơ sở y tế khi năm 2021 được khám chữa bệnh thông tuyến tỉnh. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu BHYT luôn là vấn đề được quan tâm toàn xã hội, là một trong hai trụ cột an sinh xã hội của nước ta. Đến thời điểm hiện tại có một số nghiên cứu về các khía cạnh liên quan của BHYT như: Lê Hoài Nam (2018), “Tổ chức thực thi chính sách phát triển bảo hiểm y tế của bảo hiểm xã hội huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn” – Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Trường Đại học kinh tế quốc dân. Đề tài này tập trung nghiên cứu về việc thực hiện các chính sách về BHYT tại huyện Lộc Bình, đánh giá về tìnhhình chi KCB BHYT tại các cơ sở trong khu vực này và đưa ra các đề xuất tăng cường hiệu quả chính sách BHYT, bao gồm cả yếu tố kiểm soát chi phí và phát triển nguồn quỹ BHYT. Tuy nhiên Luận văn mới chỉ đánh giá về tình hình thực hiện chính sách BHYT ở đơn vị cấp huyện, chưa bao quát được khu vực, kiến nghị và đề xuất cũng mang tính đặc thù cho riêng huyện Lộc Bình. Vũ Thị Phương Thảo (2017), “Thực trạng giám định bảo hiểm y tế tại Trung tâm Giám định bảo hiểm y tế và thanh toán đa tuyến” - Luận văn Thạc sỹ Kinh tế Bảo hiểm, Trường Đại học kinh tế quốc dân. Vấn đề giám định BHYT là một trong những công cụ hiệu quả, chủ yếu nhất để kiểm soát chi phí KCB BHYT. Đề tài đã đưa ra thực trạng về công tác giám định hiện nay tại 2 Trung tâm giám định thuộc BHXH Việt Nam, đề xuất được phương hướng nhằm tăng hiệu quả thực hiện giám định với mục tiêu kiểm soát chi phí KCB BHYT. Tuy nhiên, công tác giám định BHYT ở mỗi vùng miền lại có những hiệu quả khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố quản lý và đặc thù khác nhau. Ninh Thị Hương Trang (2016), “Tổ chức thực thi Chính sách phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Việt Nam” – Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Trường Đại học kinh tế quốc dân. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là vấn đề phát triển đối tượng BHYT, tăng nguồn quỹ KCB BHYT. Luận văn đã nêu thực trạng phát triển đối tượng và quyền lợi được quỹ BHYT thanh toán, tuy nhiên luận văn chỉ tập trung phân tích về khía cạnh để phát triển hiệu quả nguồn quỹ BHYT của BHXH Việt Nam, chưa đề cập đến vấn đề kiểm soát chi hiệu quả của BHXH Việt Nam đối với việc thanh toán quyền lợi thẻ BHYT để đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí BHYT trong dài hạn. Nguyễn Văn Hòa (2015), “Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách BHYT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, đề xuất giải pháp để thực hiện tốt Luật BHYT” – Đề tài nghiên cứu khoa học của BHXH Việt Nam. Đề tài đã phân tích thực trạng thực hiện chính sách BHYT trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng từ khi thực hiện Luật BHYT (2008), trong đó có vấn đề chi KCB BHYT. Nội dung đề tài đã bao quát các vấn đề của tỉnh Sóc Trăng về cả hai mặt thu, chi KCB BHYT; giải pháp và khuyến nghị cũng nhằm mục tiêu triển khai thực hiện tốt Luật BHYT trên địa bàn tỉnh. Có thể thấycho đến naychưa có công trình nghiên cứu tổng quan về vấn đề thực hiện chính sách BHYT nói chung và kiểm soát chi phí KCB BHYT nói riêng tại cấp khu vực trong giai đoạn thực hiện Luật BHYT sửa đổi (2015-2019) nhất là thời điểm áp dụng nhiều chính sách để kiểm soát chi KCB BHYT hiệu quá hơn từ 2017 trờ đi. Thay vì kiểm soát chi KCB BHYT chỉ căn cứ theo quỹ BHYT, một vài năm gần đây, căn cứ chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, BHXH Việt Nam đã thực hiện việc giao dự toán chi KCB BHYT cho các tỉnh, thành phố và BHXH các tỉnh, thành phố giao nguồn kinh phí đến từng cơ sở. Đây là vấn đề còn rất mới đối với các cấp quản lý nói chung và cơ sở y tế, người tham gia BHYT nói riêng. Có thể thấy chưa có đề tài nào đề cập tới vấn đề giao nguồn kinh phí KCB BHYT này, đánh giá hiệu quả của việc giao kinh phí KCB BHYT tới cơ sở y tế, gồm cả giao quỹ và giao nguồn kinh phí KCB BHYT theo dự toán từng tỉnh, thành phố tại cấp độ toàn quốc hay khu vực để từ đó đánh giá được công tác kiểm soát chi của các cấp BHXH hiện nay. Từ thực tiễn hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu nào chuyên sâu về vấn đề kiểm soát chi, đặc biệt đánh giá so sánh được tính hiệu quả của 2 phương thức giao quỹ và giao nguồn kinh phí KCB BHYT tại cơ sở y tế, tác giả lựa chọn vùng Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực năng động đang thu hút mạnh mẽ bộ phận tư nhân tham gia KCB BHYT, đã có nhiều biến động trong quản lý chi KCB BHYT để nghiên cứu,bước đầu đặt nền móng đi sâu nghiên cứu, đánh giá về các vấn đề liên quan dự toán chi KCB BHYT nêu trên và coi đây là bước đầu tiên trước khi phát triển nghiên cứu định hướng sang các vùng kinh tế khác, sau cùng là có cái nhìn tổng quan toàn quốc, kỳ vọng những nghiên cứu chuyên sâu theo khu vực sẽ đánh giá được hiệu quả hay tác động của chính sách, là tiền đề dự báo những giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát chi tiêu cho KCB BHYT giai đoạn sắp tới, khi Luật BHYT sẽ được sửa đổi. 3. Mục tiêu nghiên cứu -Khung lý thuyết, cơ sở pháp lý về việc kiểm soát chi KCB BHYT; -Đánh giá tình hình kiểm soát chi KCB BHYT tại 13 tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2015-2019; - Đề xuất giải pháp kiểm soát chi phí KCB BHYT tại các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kiểm soát chi và chi KCB BHYT. b. Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về việc kiểm soát chi KCB BHYT của BHXH Việt Nam đối với BHXH 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng sông Cửu Long; - Không gian: Đề tài nghiên cứu về 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng sông Cửu Long; - Thời gian: Đề tài nghiên cứu trong giai đoạn thực hiện Luật BHYT sửa đổi, từ năm 2015-2019.
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ KIỂM SOÁT CHI KHÁM CHỮA BỆNH BHYT CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM ĐỐI VỚIBẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH
Chi khám chữa bệnh BHYT
Bảo hiểm y tế (BHYT) là hình thức bảo hiểm bắt buộc do Nhà nước tổ chức, nhằm chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng theo quy định của Luật BHYT Theo từ điển bách khoa Việt Nam, BHYT huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Việt Nam áp dụng BHYT theo hướng tiếp cận của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), coi đây là một phần của an sinh xã hội quốc gia BHYT hoạt động phi lợi nhuận, giúp chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí y tế cho người tham gia, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương như người nghèo và dân tộc thiểu số.
- Khái niệm về quỹ BHYT
Quỹ bảo hiểm y tế (BHYT) là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng BHYT và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia, quản lý tổ chức BHYT và các khoản chi phí hợp pháp liên quan Theo quy định, 90% số tiền đóng BHYT được phân bổ cho chi phí khám chữa bệnh, trong khi 10% còn lại dành cho quỹ dự phòng và chi phí quản lý quỹ, trong đó ít nhất 5% số tiền đóng phải được sử dụng cho quỹ dự phòng.
Quỹ BHYT có chức năng giảm gánh nặng tài chính cho y tế từ ngân sách nhà nước, đồng thời hỗ trợ người có thẻ BHYT khi gặp phải ốm đau, đặc biệt là các bệnh nặng và mãn tính như bệnh tim mạch, tiểu đường hay chạy thận Hơn nữa, quỹ BHYT còn đóng vai trò quan trọng trong an sinh xã hội, đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân với mức đóng góp hợp lý dựa trên mức lương cơ bản.
- Khái niệm chi BHYT và chi KCB BHYT
Chi phí bảo hiểm y tế (BHYT) bao gồm các khoản chi cho những đối tượng được hưởng chế độ BHYT, như chi phí khám chữa bệnh (KCB), quản lý quỹ BHYT, quản lý và sử dụng quỹ dự phòng, cùng với chi phí phát triển sự nghiệp BHYT Trong đó, chi KCB BHYT là một phần quan trọng trong tổng chi của quỹ BHYT.
Chi phí KCB BHYT là khoản thanh toán cho những người sở hữu thẻ BHYT, bao gồm các khoản như tiền khám bệnh, tiền giường, dịch vụ kỹ thuật, thuốc, máu và dịch truyền Người có thẻ BHYT sẽ được hưởng các quyền lợi này khi khám chữa bệnh tại cơ sở đăng ký KCB ban đầu hoặc các cơ sở khác, theo phạm vi và mức hưởng quy định trong Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) khi khám chữa bệnh (KCB) sẽ được quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB từ 80% đến 100% tùy theo mức hưởng Họ có quyền đăng ký KCB ban đầu tại các cơ sở y tế đủ điều kiện, không phân biệt địa giới hành chính, phù hợp với nơi làm việc và cư trú Chi phí KCB bao gồm cả chi phí phát sinh tại cơ sở y tế đăng ký và chi phí khi chuyển tuyến hoặc tự đi khám tại cơ sở khác Ngoài ra, người có thẻ BHYT có thể thanh toán trực tiếp tại cơ quan bảo hiểm xã hội trong một số trường hợp như cấp cứu hoặc khi chi phí cùng chi trả vượt quá 06 tháng lương cơ sở sau 5 năm tham gia BHYT liên tục.
Chi phí quản lý quỹ BHYT là khoản chi được xác định theo mức quy định, mà hàng quý và hàng năm, các cơ quan BHXH tại các tỉnh, thành phố phải lập kế hoạch thu chi và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Chi quản lý và sử dụng quỹ dự phòng từ quỹ BHYT là khoản chi quan trọng tại BHXH Việt Nam, nhằm bổ sung kinh phí KCB BHYT cho các tỉnh, thành phố khi số thu BHYT không đủ để chi cho KCB trong năm Quỹ dự phòng được phân cấp tương tự như quỹ BHYT, và có thể được sử dụng để điều tiết ngân sách tại BHXH tỉnh Ngoài ra, quỹ này còn được sử dụng để hoàn trả ngân sách nhà nước cho kinh phí cấp trùng thẻ BHYT.
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHIKHÁM CHỮA BỆNH BHYT CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAMĐỐI VỚI BẢO HIỂM XÃ HỘI 13 TỈNH, THÀNH PHỐ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tổng quan về Bảo hiểm xã hội Việt Nam
2.1.1 Về hệ thống cơ quan Bảo hiểm xã hội tại Việt Nam các cấp
Vào ngày 16/02/1995, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 19/CP, chính thức thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam, nhằm thống nhất các chức năng và nhiệm vụ của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cùng với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Trải qua 25 năm phát triển, BHXH Việt Nam đã đồng hành cùng sự chuyển mình của đất nước, với những văn bản và sắc lệnh đầu tiên của Chính phủ về an sinh xã hội, đánh dấu những bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Trước năm 1945, Việt Nam chưa có hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội, chỉ tồn tại một số nhà thờ tổ chức nuôi dưỡng trẻ mồ côi, thực hiện các hoạt động tế bần, thể hiện hình thức bảo hiểm xã hội sơ khai.
- Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954:
Tháng 12 năm 1946, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân, trong đó khẳng định quyền được trợ cấp cho người tàn tật và người già Tuy nhiên, do hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, việc thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội (BHXH) thời kỳ này còn hạn chế Sự kiện này đánh dấu mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với chính sách BHXH, tạo tiền đề cho sự phát triển của BHXH trong tương lai.
- Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975:
Miền Bắc đã giải phóng và bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH) được chú trọng và phát triển nhanh chóng Điều lệ BHXH đã được ban hành nhằm thúc đẩy sự phát triển này.
Ngày 27 tháng 12 năm 1961 đánh dấu sự ra đời của văn bản gốc về Bảo hiểm xã hội (BHXH) dành cho cán bộ Nhà nước, bao gồm 6 chế độ BHXH và quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của các cơ quan, tổ chức và đơn vị trong ngân sách nhà nước.
- Giai đoạn từ năm 1975 đến 1995:
BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước với nhiều lần được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội.
Có thể thấy kể từ khi có Sắc lệnh 54/SL ban hành ngày 1/1/1945 đến năm
Năm 1995, các nhiệm vụ trong lĩnh vực an sinh xã hội tại Việt Nam được thực hiện bởi một số tổ chức như Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Nội Vụ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cùng với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Giai đoạn từ 1995 đến nay:
BHXH đã mở rộng đối tượng tham gia và thành lập quỹ BHXH độc lập, không phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước Quỹ này được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động, và sự hỗ trợ từ NSSN Đồng thời, Nhà nước cũng đã thiết lập cơ quan chuyên trách để quản lý quỹ và xử lý các chế độ trợ cấp liên quan.
Một trong những cột mốc quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội tại Việt Nam là việc chuyển giao bảo hiểm y tế (BHYT) từ Bộ Y tế sang Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam theo Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/01/2002 Điều này khác biệt so với nhiều quốc gia khác, khi Việt Nam tổ chức các quỹ riêng biệt bao gồm quỹ BHXH, quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và quỹ BHYT, tất cả đều được quản lý và thực hiện bởi hệ thống tổ chức BHXH.
2.1.1.2 Chiến lược phát triển và hệ thống tổ chức
Bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT) được BHXH Việt Nam coi là hai chính sách xã hội quan trọng, đóng vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội Việc mở rộng và tăng nhanh đối tượng tham gia vào BHXH và BHYT không chỉ góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội mà còn đảm bảo ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung,thống nhất từ trung ương đến địa phương, gồm có:
H i đ ng Qu n lý BHXH ội đồng Quản lý BHXH ồng Quản lý BHXH ản lý BHXH Chính phủ
BHXH Vi t Nam (trung ệt Nam (trung ng) ương)
BHXH t nh, thành ph ỉnh, thành phố ố
Bảo hiểm xã hội quận, huyện tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho người dân Các cơ sở BHXH tại địa phương, bao gồm chi nhánh BHXH ở xã và phường, đảm bảo quyền lợi và hỗ trợ cho người tham gia.
- Cơ quanBHXH Trung ương là BHXH Việt Nam;
- Cơ quanBXHH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trực thuộc BHXH Việt Nam;
Cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) tại các huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh, cũng như thành phố trực thuộc Trung ương, hoạt động dưới sự quản lý của BHXH tỉnh.
Hình 2.1: Tổ chức quản lý của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2.1.2 Về Bảo hiểm xã hội Việt Nam và việc thực hiện chính sách BHYT
Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có vai trò quan trọng trong việc quản lý và tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội tại Trung ương.
BHYT chịu trách nhiệm thu và chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp, đồng thời quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, BHTN, BHYT Tổ chức này cũng thực hiện thanh tra chuyên ngành việc đóng BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật BHXH Việt Nam bao gồm 9 đơn vị sự nghiệp và 15 đơn vị hỗ trợ, trong đó có 5 ban chuyên môn và 10 vụ giúp việc cho Tổng Giám đốc.
Chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội, với nhiều văn bản quy định và sửa đổi được ban hành để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước BHXH Việt Nam chủ động phối hợp với các Bộ, ngành để hoàn thiện cơ sở pháp lý và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT khi khám chữa bệnh Dưới sự quan tâm của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chính sách BHYT đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào an sinh xã hội BHXH Việt Nam thường xuyên hợp tác với các cơ quan trong việc triển khai các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về BHYT, hướng tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân và nâng cao sức khỏe nhân dân Để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho chính sách BHYT, BHXH Việt Nam đã tham gia xây dựng các văn bản pháp luật liên quan, bao gồm Luật BHYT và các Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách, nhằm điều chỉnh giá dịch vụ khám chữa bệnh và giải quyết các vấn đề tồn tại trong cơ cấu giá dịch vụ.
Thông tư 50 của Bộ Y tế quy định chi tiết về phân tuyến chuyên môn kỹ thuật trong hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh Thông tư này cũng đề cập đến việc phân tuyến chuyên môn kỹ thuật, quy trình đăng ký khám chữa bệnh ban đầu, và hướng dẫn thẩm định các điều kiện cần thiết để ký hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu.
Số văn bản quy phạm pháp luật về BHYT được ban hành từ 1992 đến nay là
169 văn bản bao gồm Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định.