Tính cấp thiết của đề tài
BCTC cần một bên thứ ba độc lập để đánh giá tính trung thực và minh bạch của thông tin, và bên thứ ba này chính là các kiểm toán viên (KTV) Các KTV thực hiện công việc kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các thông tin trong BCTC của công ty Trách nhiệm của KTV được thể hiện qua ý kiến cuối cùng của họ về bản BCTC.
Để giám sát và đánh giá sự phát triển của các công ty tại Việt Nam, Bộ Tài chính yêu cầu các tổ chức niêm yết và công ty đại chúng quy mô lớn phải công bố thông tin tài chính hàng quý, cùng với báo cáo bán niên và báo cáo thường niên được kiểm toán bởi các kiểm toán viên công chứng Những yêu cầu này khắt khe hơn so với nhiều quốc gia khác, nơi báo cáo bán niên không cần phải kiểm toán.
Ý kiến kiểm toán (YKKT) được chia thành hai loại chính: ý kiến chấp nhận toàn phần (bao gồm có và không có vấn đề cần nhấn mạnh) và ý kiến không chấp nhận toàn phần (gồm ý kiến ngoại trừ, từ chối đưa ra ý kiến và ý kiến trái ngược theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam - VSA số 705) Trong năm loại YKKT, ý kiến chấp nhận toàn phần được coi là tích cực, cho thấy công ty hoạt động hiệu quả Ngược lại, các ý kiến ngoại trừ, trái ngược và từ chối thường được xem là tiêu cực, phản ánh vấn đề trong hoạt động kinh doanh của công ty Tuy nhiên, YKKT trong báo cáo tài chính bán niên và thường niên không phải lúc nào cũng đồng nhất, có nhiều trường hợp ý kiến của kiểm toán viên khác nhau giữa hai báo cáo này, do các yếu tố khách quan và chủ quan tác động.
Theo nghiên cứu của Chiang & Lin (2012), báo cáo bán niên thường chứa nhiều ước tính và tỷ lệ, dẫn đến sự không chắc chắn trong nội dung Hơn nữa, thời gian chuẩn bị báo cáo bán niên của các công ty chỉ kéo dài 2 tháng, ngắn hơn đáng kể so với 4 tháng dành cho báo cáo hàng năm.
Lê Thị Hương Trà Lớp: K19CLC-KTA
Học viện Ngân hàng 2 cho phép nhận toàn phần khóa luận tốt nghiệp với điều chỉnh cho các báo cáo hàng năm Bài viết chỉ ra rằng, do báo cáo bán niên không bị ảnh hưởng bởi báo cáo hàng quý và cuộc họp thường niên của cổ đông, các kiểm toán viên (KTV) có xu hướng đưa ra ý kiến tiêu cực trong các báo cáo bán niên nhằm bảo vệ bản thân, trong khi lại đưa ra ý kiến tích cực trong các báo cáo hàng năm để duy trì mối quan hệ với những khách hàng quan trọng.
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào khám phá các yếu tố tác động đến sự khác biệt giữa báo cáo tài chính (BCTC) giữa kỳ và cuối kỳ của các doanh nghiệp Bài nghiên cứu này sẽ là nghiên cứu đầu tiên về vấn đề quan trọng này.
Nghiên cứu này dựa trên các bài nghiên cứu trước đây và tình hình thực tế tại Việt Nam, nhằm khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến sự khác biệt ý kiến kiểm toán giữa kỳ và cuối kỳ trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết Đặc biệt, ngành xi măng nổi bật với nhiều doanh nghiệp có sự khác biệt rõ rệt, như CTCP Vicem Bao bì Bút Sơn, CTCP Xi măng Bỉm Sơn, và CTCP Que hàn Việt Đức Trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, ngành sản xuất xi măng đóng vai trò quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng Do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung vào các công ty thuộc ngành xi măng niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh (TP.HCM) - HOSE.
1 Tổng quan các công trình nghiên cứu
1.1 Các nghiên cứu liên quan trực tiếp
Hiện nay, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra ảnh hưởng của các nhân tố đến sự khác biệt YKKT trong báo cáo tài chính giữa kỳ và cuối kỳ Các nghiên cứu này được chia thành hai nhóm chính: một nhóm tập trung vào phân tích các yếu tố chủ quan và nhóm còn lại chú trọng vào các yếu tố khách quan tác động đến sự khác biệt YKKT Trong đó, nhóm nghiên cứu về yếu tố chủ quan đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
Sự phụ thuộc tài chính của kiểm toán viên (KTV) vào khách hàng có thể dẫn đến việc giảm chất lượng kiểm toán vì lợi ích cá nhân, ảnh hưởng tiêu cực đến danh tiếng công ty Nghiên cứu của DeAngelo (1981) chỉ ra rằng tầm quan trọng của khách hàng tỷ lệ thuận với số tiền nhận được từ họ Các nghiên cứu của Bonner và cộng sự (1998), Reynold và Francis (2000), DeFond và cộng sự (2002) nhấn mạnh rằng nguy cơ kiện tụng có thể được giảm thiểu, từ đó tăng cường tính độc lập của KTV Hơn nữa, theo Narayanan (1995), do KTV cá nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp kiểm toán thất bại, giám sát nội bộ trong các công ty kiểm toán thường không đầy đủ Điều này đặt ra câu hỏi về tính độc lập trong ý kiến của KTV, khi mà các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến quyết định của họ, dẫn đến rủi ro đạo đức trong nghề nghiệp.
Kiểm toán là một quá trình đàm phán giữa kiểm toán viên (KTV) và khách hàng, nhằm giảm thiểu xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và bên ngoài Nghiên cứu của Windsor & Ashkanasy (1995) chỉ ra rằng, khi lý tưởng đạo đức của KTV thấp, khả năng chống lại áp lực từ khách hàng cũng giảm Matsumura và cộng sự (1997) đã phân tích hành vi chiến lược của KTV trong các quyết định liên quan, trong khi Tucker & Matsumura (1998) tập trung vào xét đoán về tính hoạt động liên tục Hai nghiên cứu này cho thấy KTV có xu hướng hành xử dựa trên khoa học, và khi khả năng đàm phán yếu, họ khó khăn hơn trong việc duy trì tính độc lập, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng của các báo cáo kiểm toán Trước khi đưa ra ý kiến cá nhân, KTV thường thảo luận kỹ lưỡng với khách hàng để đạt được sự đồng thuận.
Lê Thị Hương Trà Lớp: K19CLC-KTA
Học viện Ngân hàng 3 Khóa luận tốt nghiệp ý với đề xuất thay đổi của KTV, KTV vẫn có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Giao tiếp giữa KTV và khách hàng tạo điều kiện cho việc đàm phán các yêu cầu kiểm toán Chung & Kallapur (2003) nhấn mạnh tầm quan trọng của khách hàng cá nhân đối với KTV, cho thấy rằng khả năng đàm phán của khách hàng có ảnh hưởng đến quyết định giá cả và chất lượng kiểm toán Nghiên cứu cho rằng KTV thường đưa ra ý kiến ngoại trừ trong báo cáo bán niên để giảm thiểu rủi ro kiểm toán, trong khi lại chấp nhận toàn phần trong báo cáo thường niên để làm hài lòng khách hàng Khi thiếu nhận thức về đạo đức nghề nghiệp, KTV dễ bị tác động bởi các khuyến khích kinh tế từ khách hàng, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của họ.
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng KTV có chuyên môn cao mang lại chất lượng kiểm toán tốt hơn, như Balsam & cộng sự (2003), Velury (2003), Carcello & Nagy (2004), và Reichelt & Wang (2010) Trong bối cảnh Đài Loan, Fan & cộng sự (2007) cho rằng KTV công chứng chịu trách nhiệm cá nhân khi kiểm toán thất bại, dẫn đến chất lượng kiểm toán và công ty kiểm toán có sự tương quan thấp hơn so với sự thành thạo của KTV cá nhân Sự thành thạo này được hình thành từ kinh nghiệm làm việc với nhiều công ty trong cùng ngành, giúp KTV hiểu rõ hơn về điều kiện của khách hàng và cải thiện khả năng giải quyết vấn đề.
Nhóm nghiên cứu về các nhân tố khách quan chủ yếu tập trung vào ảnh hưởng của vụ bê bối Enron đến sự thay đổi ý kiến của KTV.
Nghiên cứu của Geiger & cộng sự (2005) và Fargher & Jiang (2008) chỉ ra rằng, sau vụ bê bối kế toán Enron năm 2001, hành vi của kiểm toán viên (KTV) trở nên thận trọng hơn đối với các công ty gặp khó khăn tài chính Đồng thời, Francis & Yu (2009) phát hiện rằng các văn phòng kiểm toán lớn hơn cung cấp dịch vụ kiểm toán chất lượng cao hơn, điều này mang lại lợi ích cho khách hàng của họ.
Lê Thị Hương Trà Lớp: K19CLC-KTA
Học viện Ngân hàng đã chỉ ra rằng sau vụ án Enron, sự thao túng lợi nhuận trong báo cáo tài chính (BCTC) giảm đáng kể Nghiên cứu của Fu và cộng sự (2005) cho thấy việc ghi nhận dồn tích tùy ý giảm rõ rệt và các kiểm toán viên (KTV) thường xuyên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần hơn Yang & Guan (2006) phát hiện rằng tầm quan trọng của khách hàng có mối liên hệ tiêu cực với các khoản dồn tích bất thường, khẳng định rằng vụ Enron đã ảnh hưởng đến hành vi của KTV Nghiên cứu của Guan và cộng sự (2008) cho thấy BCTC trở nên bảo thủ hơn sau các gian lận Enron/Procomp Sau sự cố này, nhiều đạo luật và quy định đã được ban hành để củng cố tính độc lập của KTV Geiger & Raghunandan (2002) chỉ ra rằng KTV đã thay đổi cách đưa ra ý kiến về các công ty gặp khó khăn tài chính khi luật pháp thay đổi Fargher & Jiang (2008) chứng minh rằng KTV đã điều chỉnh thái độ đối với lợi ích của khách hàng nhằm đối phó với rủi ro kiện tụng và tái lập danh tiếng Bài viết cũng quan tâm đến việc môi trường kiểm toán thay đổi có ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán trong các báo cáo cuối niên độ và giữa niên độ hay không.
Nghiên cứu của Chiang & Lin (2012) đã phân tích các doanh nghiệp niêm yết tại Đài Loan trong giai đoạn 1999 - 2008 để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự khác biệt ý kiến kiểm toán trong báo cáo tài chính bán niên và thường niên Mô hình nghiên cứu chỉ ra ba yếu tố chính: tầm quan trọng của khách hàng, nhiệm kỳ của kiểm toán viên (KTV) và chuyên môn của KTV trong ngành kiểm toán Kết quả cho thấy tầm quan trọng của khách hàng có tác động tích cực lớn đến sự khác biệt ý kiến, trong khi chuyên môn của KTV có tác động ngược chiều và nhiệm kỳ của KTV không ảnh hưởng đến sự khác biệt này Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trước sự kiện Enron, các quyết định của KTV bị ảnh hưởng nhiều bởi các doanh nghiệp được kiểm toán, nhưng sau Enron, KTV đã chú trọng hơn đến việc duy trì danh tiếng và có thái độ bảo thủ hơn khi đưa ra ý kiến kiểm toán, dẫn đến ít sự khác biệt hơn giữa các kỳ báo cáo.
Lê Thị Hương Trà Lớp: K19CLC-KTA