1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​

76 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 1,75 MB

Cấu trúc

  • Chương 1. TỔNG QUAN (11)
    • 1.1. Đại cương về sữa mẹ (11)
      • 1.1.1. Một số khái niệm về nuôi con bằng sữa mẹ (11)
      • 1.1.2. Thành phần cơ bản của sữa mẹ (12)
    • 1.2. Tầm quan trọng của sữa mẹ (13)
      • 1.2.1. Sữa mẹ giúp trẻ phát triển trí não hoàn hảo (13)
      • 1.2.2. Sữa mẹ có tác dụng chống dị ứng (13)
      • 1.2.3. NCBSM là điều kiện để gắn bó tình cảm mẹ con (13)
      • 1.2.4. Bảo vệ sức khỏe bà mẹ (13)
      • 1.2.5. Cho bú sữa mẹ thuận lợi và kinh tế (14)
    • 1.3. Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu (14)
      • 1.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi (14)
      • 1.3.2. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu (14)
      • 1.3.3. Lợi ích của bú sớm sau sinh (15)
    • 1.4. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước về thực trang nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu (16)
    • 1.5. Những yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu (19)
      • 1.5.1. Yếu tố về dân tộc, nghề nghiệp, trình độ học vấn của bà mẹ (19)
      • 1.5.2. Tình trạng kinh tế, văn hóa, xã hội (21)
      • 1.5.3. Độ tuổi của bà mẹ (21)
      • 1.5.4. Phương pháp đẻ và các chính sách về thai sản (21)
    • 1.6. Tình hình ăn bổ sung trên thế giới và ở Việt Nam (23)
  • Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (25)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (25)
    • 2.2. Thời gian nghiên cứu (25)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (25)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (25)
      • 2.3.2. Cỡ mẫu, địa điểm nghiên cứu và cách chọn mẫu (25)
      • 2.3.3. Biến số và chỉ số nghiên cứu (27)
      • 2.3.4. Tiêu chuẩn đánh giá (28)
      • 2.3.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu (29)
    • 2.4. Xử lý và phân tích số liệu (29)
    • 2.5. Sai số và cách khắc phục (30)
    • 2.6. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu (30)
  • Chương 3. KẾT QUẢ (31)
    • 3.1. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc tỉnh Thái Nguyên (31)
    • 3.2. Một số yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi (35)
      • 3.2.1. Các yếu tố liên quan tới việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu (35)
      • 3.2.2. Các yếu tố liên quan tới việc trẻ được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu (41)
  • Chương 4. BÀN LUẬN (46)
    • 4.1. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ (46)
      • 4.1.1. Thực trạng nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (46)
      • 4.1.2. Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh (47)
    • 4.2. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (50)
      • 4.2.1. Trình độ học vấn của bà mẹ (50)
      • 4.2.2. Nghề nghiệp của bà mẹ (51)
      • 4.2.3. Chế độ thai sản và thời gian quay trở lại làm việc của bà mẹ (52)
      • 4.2.4. Các yếu tố liên quan khác (53)
  • KẾT LUẬN (55)
    • trong 6 tháng đầu (1)
      • 1.1 Ngày khám/ phỏng vấn Ngày Tháng Năm PP (0)
      • 1.2 Ngày sinh của TRẺ Ngày Tháng Năm 2. Điều kiện làm việc và hỗ trợ bà mẹ (0)
      • 4.1 Chị đã phải đi làm trở lại chưa? Có (0)
    • PP 4.4 Chị phải làm việc xa nhà bao nhiêu ngày (0)
      • 3.2 Chị đã từng cho trẻ bú chưa? Có (0)
    • PE 3.8 PE 3.3 (0)

Nội dung

TỔNG QUAN

Đại cương về sữa mẹ

1.1.1 Một số khái niệm về nuôi con bằng sữa mẹ

- NCBSM: là đứa trẻ được nuôi dưỡng trực tiếp bằng bú mẹ hoặc gián tiếp do sữa mẹ vắt ra

Sữa non là loại sữa được tiết ra trong vài ngày đầu sau khi sinh, có màu vàng và độ sánh đặc hơn so với sữa trưởng thành Loại sữa này chứa hàm lượng cao chất đạm, Vitamin A và nhiều kháng thể, giúp trẻ sơ sinh tăng cường sức đề kháng chống lại vi khuẩn và siêu vi khuẩn Mặc dù chỉ được tiết ra với một lượng nhỏ, sữa non đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của trẻ.

- Bú sớm : là trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh

Bú mẹ hoàn toàn (BMHT) là chế độ dinh dưỡng mà trẻ chỉ nhận sữa từ vú mẹ, vú nuôi, hoặc sữa mẹ đã được vắt ra Trong thời gian này, trẻ không được ăn bất kỳ loại thực phẩm nào khác, bao gồm cả thức ăn lỏng và rắn, ngoại trừ các dạng giọt hoặc siro bổ sung vitamin và khoáng chất, cũng như thuốc.

Bú mẹ là phương pháp nuôi dưỡng chủ yếu, trong đó sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng chính cho trẻ Bên cạnh đó, trẻ có thể được cung cấp thêm một lượng nhỏ nước uống đơn thuần, nước hoa quả, ORS, nước đường hoặc các loại thức ăn lỏng truyền thống.

- Ăn bổ sung: đứa trẻ vừa được bú sữa mẹ vừa được ăn thức ăn ở dạng đặc hoặc nửa đặc [40]

Cai sữa là quá trình ngừng cho trẻ bú sữa mẹ, đánh dấu sự chuyển giao vai trò cung cấp năng lượng và dinh dưỡng từ sữa mẹ sang các thực phẩm trong bữa ăn gia đình, nhằm kết thúc thời kỳ bú mẹ.

- Cân nặng sơ sinh thấp: Trẻ sơ sinh nhẹ cân khi có cân nặng tại lúc sinh dưới 2500 gram [40]

1.1.2 Thành phần cơ bản của sữa mẹ

Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo nhất cho trẻ, cung cấp đầy đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ hợp lý Điều này giúp trẻ hấp thu tốt và phát triển khỏe mạnh, đồng thời ngăn ngừa tình trạng suy dinh dưỡng cũng như tăng cân quá mức.

Sữa mẹ chứa hàm lượng protein thấp hơn so với sữa công thức, nhưng lại cung cấp đủ các axit amin cần thiết và dễ tiêu hóa cho trẻ nhỏ Các loại protein trong sữa mẹ bao gồm casein, albumin, lactabumin, β-Lactoglobulin, globulin miễn dịch (kháng thể) và các glycoprotein khác Đặc biệt, casein là một loại protein quan trọng giúp ngăn ngừa bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp, viêm tai và dị ứng.

Sữa mẹ chứa các acid béo thiết yếu như acid linoleic, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển hệ thần kinh, thị giác và tính bền vững của mạch máu ở trẻ nhỏ Lipid trong sữa mẹ dễ tiêu hóa hơn nhờ có enzyme lipase.

Sữa mẹ chứa nhiều lactose hơn sữa công thức, cung cấp nguồn năng lượng bổ sung cho trẻ Một phần lactose trong sữa mẹ được chuyển hóa thành acid lactic trong ruột, giúp cải thiện khả năng hấp thu canxi và các khoáng chất.

Sữa mẹ chứa nhiều Vitamin A hơn sữa công thức, giúp trẻ bú sữa mẹ phòng ngừa bệnh khô mắt do thiếu Vitamin A Ngoài ra, các Vitamin khác trong sữa mẹ cũng đủ cung cấp cho trẻ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ duy trì chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý.

Muối khoáng trong sữa mẹ cung cấp calci và sắt, mặc dù lượng này thấp hơn so với sữa công thức, nhưng tỷ lệ hấp thu lại cao hơn Điều này giúp đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của trẻ, giảm nguy cơ còi xương và thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ bú mẹ.

Bú sữa mẹ giúp trẻ phát triển nhanh chóng, ngăn ngừa suy dinh dưỡng, đồng thời hỗ trợ sự thông minh của trẻ Sữa mẹ cung cấp đầy đủ vitamin, ngăn ngừa tình trạng thiếu máu do thiếu sắt và thiếu hụt canxi, phốt pho.

Tầm quan trọng của sữa mẹ

1.2.1 Sữa mẹ giúp trẻ phát triển trí não hoàn hảo

Sữa mẹ không chỉ hỗ trợ sự phát triển thể chất của trẻ mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển trí não Trẻ bú mẹ được cung cấp Taurine, một thành phần thiết yếu cho các mô tế bào, đặc biệt là tế bào não Các acid béo thiết yếu như omega 3 và omega 6, là tiền tố DHA và AA, cũng góp phần quan trọng trong việc hình thành màng tế bào não và võng mạc, giúp trẻ thông minh và có thị lực tốt Hơn nữa, trẻ bú mẹ còn hấp thu tốt sắt và vitamin C, góp phần nâng cao sức khỏe tổng thể.

[40] Sữa mẹ rất có ích với trẻ nhẹ cân, thiếu tháng và có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng khởi phát muộn [46]

1.2.2 Sữa mẹ có tác dụng chống dị ứng

Trẻ bú sữa mẹ ít có nguy cơ bị dị ứng eczema hơn so với trẻ uống sữa công thức, nhờ vào sự hiện diện của IgA và các đại thực bào giúp chống dị ứng Nhiều nghiên cứu ở Châu Âu đã chỉ ra rằng một số trẻ em bị dị ứng sữa công thức có thể gặp nguy hiểm đến tính mạng, trong khi trẻ bú sữa mẹ chưa bao giờ ghi nhận trường hợp tương tự, nhờ vào các chất chống dị ứng có trong sữa mẹ.

1.2.3 NCBSM là điều kiện để gắn bó tình cảm mẹ con

Sữa mẹ không chỉ tạo sự gắn bó giữa mẹ và con mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý hài hòa của trẻ Hơn nữa, chỉ có người mẹ với sự quan sát tinh tế mới có thể nhận diện sớm và chính xác những thay đổi bình thường hoặc bất thường ở trẻ.

1.2.4 Bảo vệ sức khỏe bà mẹ

Cho con bú sớm sau khi sinh không chỉ giúp tử cung co hồi nhanh chóng mà còn hỗ trợ cầm máu, ngăn ngừa tình trạng thiếu máu sau sinh và giúp sản dịch nhanh chóng hết Việc cho con bú đúng cách và đủ lượng cũng làm chậm quá trình trở lại của kinh nguyệt, từ đó giảm nguy cơ thụ thai.

Cho con bú mẹ sẽ giảm được nguy cơ bị ung thư vú, ung thư tử cung

[2], [40] Nhờ cho con bú vóc dáng người mẹ sẽ nhanh hồi phục

1.2.5 Cho bú sữa mẹ thuận lợi và kinh tế

Việc cho trẻ ăn trở nên thuận tiện hơn bao giờ hết, vì không cần dụng cụ hay quá trình đun nấu, pha chế phức tạp Điều này giúp tiết kiệm thời gian chuẩn bị và không bị ràng buộc bởi giờ giấc, cho phép bạn có thể cho trẻ ăn ngay lập tức bất kỳ lúc nào.

- Kinh tế vì không phải mua

- Khi người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh thần thoải mái sẽ đủ sữa cho con bú [2], [5].

Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

1.3.1 Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi

Nhu cầu năng lượng của trẻ sơ sinh đủ tháng và có cân nặng bình thường có thể được đáp ứng hoàn toàn bởi sữa mẹ trong 6 tháng đầu, miễn là người mẹ có tình trạng dinh dưỡng tốt.

Sản xuất sữa của mẹ được điều chỉnh theo nhu cầu của trẻ, đảm bảo đủ sữa cho cả mẹ sinh đôi hoặc sinh ba Khi nhu cầu của trẻ tăng, sản xuất sữa cũng sẽ tăng trong vài ngày hoặc thậm chí vài giờ Mức tiêu thụ sữa mẹ của trẻ bú hoàn toàn tăng từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6; tuy nhiên, nếu trẻ được ăn bổ sung sớm, lượng sữa tiêu thụ có thể giảm Việc tiết sữa rất linh hoạt, cho phép mẹ tăng sản xuất thông qua việc vắt sữa thường xuyên và có khả năng cho bú lại sau khi đã dừng.

1.3.2 Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Trong những năm gần đây, sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em đã được cải thiện đáng kể, với chương trình nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) được xem là ưu tiên hàng đầu Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc xác định NCBSM là một trong bốn biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em, đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng trong 6 tháng đầu đời Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định rằng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong giai đoạn này không chỉ cải thiện sự tăng trưởng và phát triển mà còn ảnh hưởng tích cực đến kết quả học tập và khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai WHO cũng chỉ ra rằng NCBSMHT có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ em mỗi năm Do đó, WHO khuyến cáo các bà mẹ cho con bú thường xuyên, bất kể thời gian, và trong 6 tháng đầu, trẻ chỉ cần bú sữa mẹ mà không cần bất kỳ loại thức ăn hay nước nào khác.

1.3.3 Lợi ích của bú sớm sau sinh

Khuyến nghị của TCYTTG về nuôi dưỡng trẻ nhỏ:

- Bắt đầu cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ

+ Thời gian bắt đầu cho trẻ bú

Mẹ nên cho con bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh, càng sớm càng tốt, và không cho trẻ mới đẻ ăn bất kỳ thức ăn nào trước khi bú mẹ lần đầu Trẻ đói thường bú nhiều hơn trẻ đã no, và việc cho trẻ ăn thức ăn khác trước khi bú có thể cản trở sự tiết sữa, dẫn đến không đủ sữa nuôi con Bú sớm giúp trẻ tận dụng sữa non, loại sữa giàu dinh dưỡng và phù hợp với cơ thể non nớt của trẻ Hơn nữa, hành động bú của trẻ kích thích tiết sữa mẹ nhiều hơn thông qua phản xạ Prolactin, đồng thời giúp co hồi tử cung tốt ngay sau sinh và hạn chế mất máu.

Trẻ bú càng nhiều thì sữa mẹ sẽ được sản xuất nhiều hơn Số lần cho trẻ bú phụ thuộc vào nhu cầu của trẻ, vì vậy hãy cho trẻ bú bất kỳ lúc nào khi trẻ cảm thấy đói, kể cả vào ban đêm khi trẻ khóc đòi ăn.

Trẻ em nên được bú mẹ càng lâu càng tốt, với việc cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời Không nên cai sữa trước 12 tháng và nên kéo dài thời gian bú từ 18 đến 23 tháng Khi trẻ bị bệnh, đặc biệt là tiêu chảy, cần cho trẻ bú nhiều hơn bình thường để tránh tình trạng suy dinh dưỡng.

Một số nghiên cứu trong và ngoài nước về thực trang nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Từ lâu NCBSM đã được sự quan tâm ở nhiều nước trên thế giới

Năm 1979, nghiên cứu của Annie Cherian tại Zaria, Nigeria cho thấy hầu hết trẻ em được bú ngay sau sinh Mặc dù 31% bà mẹ tin tưởng vào sữa của mình, vẫn có một tỷ lệ nhỏ bà mẹ cho con bú muộn vì lo ngại rằng sữa non không tốt cho sức khỏe sơ sinh.

Theo báo cáo của WHO năm 1993, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu tại Srilanca chỉ đạt 13%, với tỷ lệ này thấp hơn ở khu vực thành thị (7%) so với nông thôn (14%) Trong khi đó, tại Châu Âu, xu hướng nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đang gia tăng, với tỷ lệ các bà mẹ thực hiện NCBSM ở Bulgaria, Đức, Hungary và Thụy Sỹ dao động quanh mức 90% Tuy nhiên, tỷ lệ NCBSM ở các nước Tây Âu lại thấp hơn, cụ thể là 67% ở Anh, 50% ở Pháp và 35% ở Ireland.

Gần đây, vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều quốc gia Một nghiên cứu tại Australia năm 2006 cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh bắt đầu NCBSM đạt 93%, nhưng đến 6 tháng tuổi, chỉ còn 45,9% trẻ được nuôi bằng sữa mẹ, với 12% bú mẹ chủ yếu Tại một bệnh viện ở Mỹ, các nghiên cứu từ năm 1999 đến 2001 cho thấy tỷ lệ cho con bú sữa mẹ sớm vẫn duy trì ở mức cao, lần lượt là 87% (1999), 82% (2000) và 87% (2001), trong khi tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn giảm từ 34% (1999) xuống 25% (2001).

Trong một nghiên cứu dọc tại Anh cũng chỉ rõ NCBSM giảm dần trong

Trong ba tháng đầu, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) giảm mạnh trong các tháng tiếp theo: 54,8% trong tháng đầu, 43,7% trong tháng thứ hai, 31% trong tháng thứ ba, 9,6% trong tháng thứ tư và chỉ còn 1,6% trong tháng thứ năm Tại Trung Quốc, tỷ lệ NCBSM đã giảm xuống mức thấp nhất vào những năm 80 trước khi tăng trở lại vào những năm 90 Đáng chú ý, tỷ lệ NCBSM ở khu vực thành thị luôn thấp hơn so với khu vực nông thôn Một nghiên cứu tại tỉnh Thượng Hải cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn khác nhau giữa thành phố, ngoại ô và nông thôn, với tỷ lệ ở ngoại ô và nông thôn cao gần gấp đôi so với thành phố (63,4% và 61% so với 38%) Tỷ lệ NCBSM ở ba vùng này lần lượt là 96,5%, 96,8% và 97,4% Một nghiên cứu khác so sánh tỷ lệ NCBSM giữa các năm 1994-1996 và 2003-2004 tại một vùng thuộc Tây Bắc Trung Quốc cũng cho thấy sự khác biệt rõ rệt.

Trong tháng đầu của tỷ lệ NCBSM năm 2003-2004, Trung Quốc ghi nhận sự giảm sút so với năm 1994-1995 Mặc dù tỷ lệ NCBSM ban đầu cao, nhưng sau 3 tháng, tỷ lệ này đã giảm rõ rệt Các mục tiêu quốc gia của Trung Quốc về NCBSM không đạt được trong cả hai giai đoạn nghiên cứu.

Một trong những chỉ số quan trọng đánh giá chất lượng nuôi dưỡng trẻ nhỏ bằng sữa mẹ là thực hành cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh Theo báo cáo của WHO năm 2016, tỷ lệ trẻ được bú mẹ ngay trong 1 giờ đầu là 17,7% ở Peru và 60,9% ở Nhật Bản Trong khi đó, tỷ lệ các bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong 1 giờ đầu ở Nepal, Sri Lanka và Cuba đạt khoảng 90%.

Nghiên cứu năm 2006 tại Australia cho thấy tỷ lệ trẻ bắt đầu nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là 97,7%, nhưng đến 6 tháng tuổi, chỉ còn 35,6% trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ, trong khi 57% trẻ bú mẹ chủ yếu Tại Việt Nam, từ đầu những năm 1980, nhiều nghiên cứu về thói quen và thực hành nuôi con của các bà mẹ đã được thực hiện Đào Ngọc Diễn và Nguyễn Trọng An cùng cộng sự năm 1983 đã khảo sát 500 trẻ dưới 5 tuổi tại Hà Nội, cho thấy hầu hết trẻ được bú mẹ trong vòng 2-3 ngày Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ bú mẹ lần đầu trong 24 giờ chỉ đạt 15,8% ở nội thành và 35,5% ở nông thôn, với 68-97% trẻ được ăn thêm sau đó.

4 tháng đầu Thời gian cai sữa trung bình là 12 tháng, trong đó 13,4% trẻ được cai sữa trước 12 tháng [9]

Nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang (1996) cho thấy tỷ lệ trẻ bú mẹ sớm trong 30 phút đầu sau sinh chỉ đạt 30%, và tỷ lệ bú muộn trong 24 giờ là 20,1% Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ là 20%, với thời gian bú trung bình là 14 tháng và 60% trẻ 12 tháng vẫn tiếp tục bú mẹ Tương tự, nghiên cứu của Phạm Văn Phú và Nguyễn Xuân Ninh tại Quảng Nam cho thấy chỉ có 2/816 trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4-6 tháng đầu, trong khi tỷ lệ mẹ cho ăn, uống trước khi bú lần đầu lên đến 42,8%.

Nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng trên 359 trẻ dưới 2 tuổi tại Hà Nội cho thấy 66,7% bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Tỷ lệ cho bú từ 1 đến 24 giờ đạt 28,7%, trong khi đó, chỉ 4,5% bà mẹ cho con bú sau 24 giờ.

Theo nghiên cứu của Mai Thị Tâm, tỷ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong 30 phút đầu sau sinh đạt 87,2%, trong khi tỷ lệ trẻ bú trong vòng 6 giờ là 72,6% Bên cạnh đó, chỉ có 32% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Thời gian cho con bú trung bình cũng được ghi nhận trong nghiên cứu này.

Tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, nghiên cứu của Nguyễn Lân và Trịnh Bảo Ngọc cho thấy chỉ có 44,4% trẻ em được bú mẹ ngay trong vòng 1 giờ sau sinh, trong khi 15,2% bà mẹ cho con bú sau 24 giờ Hơn 50% trẻ em đã ăn hoặc uống thức ăn khác trước khi được bú lần đầu, mặc dù tỷ lệ trẻ 12 tháng tiếp tục bú mẹ đạt 60%.

Nghiên cứu cho thấy rằng việc nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đã nhận được sự quan tâm ngày càng tăng, với tỷ lệ trẻ được bú sớm và bú mẹ hoàn toàn có xu hướng tăng theo thời gian Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn thấp so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa và khó khăn.

Những yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thành công của nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độ tuổi và trình độ học vấn của mẹ, cũng như môi trường xung quanh Quá trình NCBSM được hỗ trợ tốt hơn khi có sự gần gũi với trẻ trong 24 giờ đầu và cho trẻ bú sớm Tuy nhiên, một số yếu tố tiêu cực như việc làm quen với sữa bột và mẹ trở lại làm việc sớm có thể ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con bằng sữa mẹ.

1.5.1 Yếu tố về dân tộc, nghề nghiệp, trình độ học vấn của bà mẹ

Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra rằng các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) trong 6 tháng đầu đời có sự khác biệt rõ rệt theo chủng tộc Tại Tây Ban Nha, tỷ lệ trẻ bú mẹ trong những giờ đầu tiên rất cao, đặc biệt ở phụ nữ mới nhập cư, những người thường cho trẻ bú ngay sau sinh và kéo dài thời gian bú hơn so với phụ nữ đã định cư lâu Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ Mỹ da đen và gốc Tây Ban Nha cho con bú sớm gấp 3,2 lần so với phụ nữ Mỹ da trắng Nghiên cứu của McLachlan, H L trên 300 bà mẹ từ Thổ Nhĩ Kỳ, Úc và Việt Nam sinh con tại Úc cho thấy 98% bà mẹ Thổ Nhĩ Kỳ cho con bú sớm, trong khi tỷ lệ này ở Úc là 84% và Việt Nam là 75% Đặc biệt, 40% bà mẹ Việt Nam sử dụng sữa công thức cho con trong bệnh viện sau sinh, so với chỉ 19% ở các bà mẹ Úc.

Khu vực sống và trình độ học vấn của mẹ là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hành bú sớm sau sinh và nuôi con bằng sữa mẹ Nghiên cứu cho thấy sự liên quan giữa các yếu tố này và thói quen cho con bú.

Nghiên cứu của Lê Thị Hương và cộng sự tại Hà Nội trên 2.690 trẻ em cho thấy phụ nữ nông thôn có xu hướng cho con bú nhiều hơn so với phụ nữ thành thị Cụ thể, tỷ lệ trẻ trai được bú sớm sau sinh ở thành thị đạt 40% so với 35% ở nông thôn, trong khi tỷ lệ trẻ gái lần lượt là 49% và 40% Tuy nhiên, việc nuôi con bằng sữa mẹ trong tháng đầu tiên và ba tháng tiếp theo lại phổ biến hơn ở nông thôn cho cả trẻ trai và gái Đặc biệt, phụ nữ đã hoàn thành ít nhất trung học cơ sở có xu hướng cho con bú ít hơn so với những bà mẹ có trình độ văn hóa thấp hơn Tại khu vực thành thị, số ngày bú hoàn toàn của các bà mẹ có trình độ học vấn cao thường thấp hơn, với thời gian trung bình cho bú hoàn toàn là 108 ngày cho mẹ học hết cấp 2, 88 ngày cho mẹ học hết cấp 3 và 82 ngày cho mẹ có trình độ đại học hoặc cao hơn.

Nhiều nghiên cứu cho thấy việc cho con bú sớm phụ thuộc vào sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh, độ tuổi của mẹ, thời gian chuyển dạ, và sự tư vấn từ nhân viên y tế Các bà mẹ gặp khó khăn trong việc tiết sữa hoặc cảm thấy đau đớn cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến việc không cho trẻ bú sớm.

Các yếu tố nhân khẩu học và văn hóa có ảnh hưởng đến thực hành cho trẻ bú sớm và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ, như đã chỉ ra trong nhiều nghiên cứu tại Việt Nam Một nghiên cứu dọc tại Quảng Xương, Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ các bà mẹ cho con bú sớm sau sinh đạt 98,3% và tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn trong tuần đầu tiên là 83,6% Tuy nhiên, việc cho trẻ ăn bổ sung sớm vẫn diễn ra phổ biến.

1.5.2 Tình trạng kinh tế, văn hóa, xã hội

Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) ở Mỹ cao hơn ở các bà mẹ mù chữ và có mức kinh tế xã hội thấp Trẻ em từ các gia đình nghèo thường bắt đầu bú mẹ sớm hơn so với trẻ em từ các gia đình giàu có, với tỷ lệ lần lượt là 89% và 7% Mặc dù tỷ lệ NCBSM từ 3-6 tháng ở gia đình nghèo thấp hơn, nhưng tỷ lệ trẻ được bú mẹ đến 12 tháng lại cao nhất trong nhóm này Các bà mẹ có trình độ học vấn và địa vị kinh tế xã hội cao thường cho rằng trẻ cần được cho ăn dặm sớm trước 4 tháng và coi việc NCBSM là cần thiết cho trẻ dưới 2 tuổi Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng kinh tế xã hội của gia đình có ảnh hưởng lớn đến thời gian NCBSM, với các bà mẹ có trình độ học vấn cao thường tiếp tục cho con bú hoàn toàn sau 3 tháng tuổi.

1.5.3 Độ tuổi của bà mẹ

Nghiên cứu tại Australia cho thấy trẻ sơ sinh có mẹ dưới 30 tuổi ít có khả năng được nuôi bằng sữa mẹ, trong khi một nghiên cứu ở Chile chỉ ra rằng các bà mẹ không cho con bú hoàn toàn chủ yếu là những bà mẹ thanh thiếu niên.

1.5.4 Phương pháp đẻ và các chính sách về thai sản

Phương pháp đẻ (sinh thường hay đẻ mổ), địa điểm sinh và các yếu tố sức khỏe có tác động đáng kể đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) của các bà mẹ Nghiên cứu năm 2009 tại Bình Dương cho thấy rằng phương pháp sinh, niềm tin về khả năng có đủ sữa mẹ, quyết định lựa chọn loại sữa cho trẻ trước khi sinh, ảnh hưởng từ mẹ chồng, cùng với kiến thức về dinh dưỡng cho trẻ dưới 6 tháng tuổi đều ảnh hưởng đến việc thực hành cho trẻ bú sớm và NCBSM sau này.

Nghiên cứu của A&T chỉ ra rằng cắt tầng sinh môn và sinh mổ ảnh hưởng đến việc cho trẻ bú sớm, với 67,6% sản phụ sinh thường cho trẻ bú trong vòng 1 giờ, trong khi tỷ lệ này ở sản phụ cắt tầng sinh môn và sinh mổ chỉ đạt 54% và 11,3% Các bà mẹ sinh mổ có xu hướng cho trẻ ăn sữa bột nhiều hơn trong 3 ngày đầu sau sinh Ngoài ra, chỉ 45,3% sản phụ sinh tại bệnh viện cho con bú trong giờ đầu, thấp hơn so với 72% ở các trạm y tế xã và nhà hộ sinh Hành vi nuôi con bằng sữa mẹ cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa xã hội, như sự tham gia của người thân và thói quen cho trẻ ăn bổ sung sớm Tổ chức dinh dưỡng Nhi khoa Châu Âu khuyến cáo không nên cho trẻ ăn bổ sung trước 17 tuần, nhưng thực tế thường xảy ra sớm hơn, dẫn đến nguy cơ thừa cân và béo phì ở trẻ.

Sự ảnh hưởng của chính sách thai sản:

Điều kiện làm việc và chế độ nghỉ thai sản của bà mẹ có ảnh hưởng lớn đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ Việc nhiều bà mẹ phải trở lại làm việc sớm, thường trước tháng thứ 4 sau sinh, được coi là một rào cản lớn đối với việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Theo nghiên cứu định tính toàn quốc về tác động của các chính sách đến việc nuôi con bằng sữa mẹ, nhiều nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách nhận định rằng việc duy trì nuôi con bằng sữa mẹ trong giai đoạn này là rất khó khăn.

Nghiên cứu của Skafida V tiến hành tại Scotland từ năm 2004 -

Nghiên cứu năm 2005 chỉ ra rằng nghề nghiệp và thời gian nghỉ đẻ của bà mẹ có ảnh hưởng đáng kể đến việc nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) trong 6 tháng đầu Cụ thể, những bà mẹ làm việc toàn thời gian có nguy cơ ngừng cho con bú cao gấp 1,6 lần so với những bà mẹ không làm việc Ngoài ra, những người mẹ có thời gian nghỉ đẻ dài thường duy trì việc NCBSM lâu hơn.

Nghiên cứu chỉ ra rằng việc kéo dài thời gian nghỉ thai sản có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Cụ thể, ba yếu tố ảnh hưởng đến việc cho con bú sớm và thời gian cho con bú bao gồm thời gian nghỉ thai sản, độ dài nghỉ thai sản có lương và thời điểm trở lại làm việc Phụ nữ đi làm lại trong vòng 3 đến 6 tháng sau sinh có khả năng ngừng cho con bú trước 6 tháng cao gấp 3 lần so với những bà mẹ không trở lại làm sớm Chế độ nghỉ thai sản có tác động lớn đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, với nhiều bằng chứng từ các quốc gia cho thấy chính sách nghỉ thai sản dài và có lương thúc đẩy việc nuôi con bằng sữa mẹ Một nghiên cứu gần đây tại Đài Loan cũng khẳng định rằng việc mẹ đi làm lại sớm, đặc biệt là trước 6 tháng tuổi của trẻ, là rào cản cho việc cho con bú sớm và duy trì việc cho bú.

Tình hình ăn bổ sung trên thế giới và ở Việt Nam

Thời gian bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung ở nhiều quốc gia, đặc biệt là tại Châu Phi, thường diễn ra rất sớm, với 87% phụ nữ ở Lagos (Nigeria) cho con ăn bổ sung vào cuối tháng thứ nhất Tại Thái Lan, trẻ em cũng được cho ăn bột quấy, cháo hoặc chuối chỉ sau vài ngày sinh Tuy nhiên, các thực phẩm giàu dinh dưỡng như thịt, cá và dầu mỡ lại thường được cho ăn muộn hơn, và khi trẻ ốm, nhiều bà mẹ chỉ cho ăn cơm với muối vì lo ngại rằng thịt và trứng sẽ làm tăng nhiệt độ cơ thể.

Nghiên cứu về thực hành ăn bổ sung cho trẻ tại Việt Nam cho thấy lý do chính khiến các bà mẹ cho con ăn bổ sung là do bận đi làm xa (54,9%) và thiếu sữa (16,9%) Tỷ lệ trẻ được cho ăn bổ sung sớm rất cao, với 88,9% trẻ đã ăn bổ sung trong 4 tháng đầu đời Mặc dù 73,3% bà mẹ cho rằng thời điểm cho ăn bổ sung là sớm, nhưng trung bình trẻ bắt đầu ăn bổ sung khi được 3,75 tháng tuổi Nguyên nhân dẫn đến quyết định này chủ yếu là do mẹ phải đi làm (63,1%) và trẻ khóc/đói (63,8%) Đặc biệt, ở nông thôn, việc trở lại công việc đồng áng sớm sau sinh là một rào cản lớn khiến trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu, dẫn đến việc trẻ bị đói và mẹ phải cho ăn bổ sung dù biết rằng chưa phải thời điểm thích hợp.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi hiện đang sinh sống ở 20 xã thuộc 4 huyện nghiên cứu

- Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu

+ Bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi

+ Đồng ý tham gia nghiên cứu, sống trên địa bàn liên tục từ 6 tháng trở lên

+Tham gia chính trong việc chăm sóc trẻ ở 6 tháng đầu tiên

- Tiêu chuẩn loại trừ: Những bà mẹ không có khả năng hoặc hạn chế trong giao tiếp, bà mẹ tự nguyện không tham gia trong quá trình nghiên cứu.

Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế nghiên cứu cắt dọc

Nghiên cứu tại 2 thời điểm lúc trẻ được 3 tháng tuổi, lúc trẻ được 6 tháng tuổi của những trẻ dưới 24 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu

2.3.2 Cỡ mẫu, địa điểm nghiên cứu và cách chọn mẫu

Cỡ mẫu được tính toán dựa trên công thức tính cỡ mẫu mô tả cho một tỷ lệ Theo công thức:

Theo nghiên cứu của Mai Thị Tâm, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 32% Để cải thiện độ chính xác trong nghiên cứu, tác giả đã chọn p=0,32 và áp dụng độ chính xác tương đối ε = 0,1 Kết quả tính toán cho thấy cỡ mẫu cần thiết cho quần thể điều tra sàng lọc là 816.

- Địa điểm nghiên cứu và cách chọn mẫu

Thái Nguyên, tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, cách Hà Nội khoảng 80km, có dân cư hơn một triệu người, trong đó 70% sống ở khu vực nông thôn Tỉnh này là nơi sinh sống của 8 dân tộc, với dân tộc Kinh chiếm khoảng 81% và các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Sán Dìu, Hmong, Sán Cháy, Hoa và Dao chiếm 19% Nghiên cứu được tiến hành trên 20 xã thuộc 4 huyện tiêu biểu của tỉnh, đảm bảo tính ngẫu nhiên và phản ánh đúng đặc điểm dân số, tỷ lệ sinh con và số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.

Dựa vào đặc điểm địa lý, dân số lựa chọn những phụ nữ thích hợp cho nghiên cứu sinh sống tại 20 xã thuộc 4 huyện của tỉnh Thái Nguyên

- Huyện Phú Lương ( Động Đạt, Phấn Mễ, Vô Tranh, Yên Lạc, Yên Đổ)

- Huyện Định Hóa (Lam Vỹ, Trung Lương, Bình Thành, Sơn Phú, Phú Đình)

- Huyện Võ Nhai (Dân Tiến, La Hiên, Bình Long, Lâu Thượng, Tràng Xá)

- Huyện Đại Từ (An Khánh, Hùng Sơn, Bản Ngoại, Hoàng Nông, Khôi Kỳ)

Với cỡ mẫu 816 cặp mẹ con, việc thu thập số liệu cho trẻ em yêu cầu tiến hành điều tra từ một quần thể lớn Ước tính cỡ mẫu cần thiết cho quá trình sàng lọc quần thể là điều quan trọng để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.

- Dân số trung bình của một xã là 7000 người

- Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (18-40 tuổi) khoảng 15%, như vậy 1 xã có khoảng 1050 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ

- Ước tính khoảng 35% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có con nhỏ dưới 24 tháng tuổi

Trong nghiên cứu theo dõi 1600 ca đẻ, sau khi loại bỏ các đối tượng không phù hợp, số lượng còn lại là 1382 cặp mẹ con, cho thấy cỡ mẫu này đảm bảo tính chính xác cho nghiên cứu.

2.3.3 Biến số và chỉ số nghiên cứu

- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn số con,

- Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ:

+ Bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ

+ Bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu

+ Ăn/ uống các thức ăn khác ngày sau khi sinh

- Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ

+ Tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong một giờ đầu sau đẻ theo đặc điểm của bà mẹ: độ tuổi, học vấn, dân tộc, kinh tế hộ gia đình

+ Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu theo đặc điểm của bà mẹ: độ tuổi, học vấn, dân tộc, số con

+ Tỷ lệ trẻ trẻ ăn bổ sung sớm theo đặc điểm của bà mẹ: độ tuổi, học vấn, dân tộc

- Một số yếu tố liên quan đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ:

+ Các yếu tố về nhân khẩu học của bà mẹ: tuổi, tuổi kết hôn, nghề nghiệp, dân tộc, trình độ học vấn, số con

+ Các yếu tố kinh tế hộ gia đình

+ Thông tin của cuộc đẻ: cách sinh, nơi sinh

+ Các yếu tố của trẻ: Giới tính, đẻ non, cân nặng trẻ khi sinh,

Xác định một số tỷ lệ đánh giá thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong

Tỷ lệ trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh được tính bằng cách lấy số trẻ từ 0 đến 23 tháng tuổi được bú mẹ trong khoảng thời gian này chia cho tổng số trẻ trong độ tuổi đó được điều tra, sau đó nhân với 100%.

Tỷ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Số trẻ < 6 tháng được bú mẹ hoàn toàn x 100%

Tổng số trẻ dưới 6 tháng điều tra

Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh được đánh giá qua số trẻ được bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh Việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSMHT) trong 6 tháng đầu được coi là đạt khi bà mẹ chỉ cho trẻ bú sữa mẹ mà không bổ sung thêm bất kỳ thức ăn hay đồ uống nào khác trong 179 ngày đầu Tỷ lệ NCBSMHT được tính toán dựa trên việc khảo sát thực hành ăn uống của trẻ dưới 6 tháng trong 24 giờ qua.

Xác định tuổi (theo tháng) của trẻ theo Tổ chức Y tế Thế giới [50]

- 0 tháng tuổi: kể từ khi mới sinh đến trước ngày tròn tháng (từ 1 đến

- 1 tháng tuổi: Kể từ ngày tròn một tháng đến trước ngày tròn 2 tháng (từ 30 ngày đến 59 ngày)

2.3.5 Công cụ và phương pháp thu thập số liệu

- Phương pháp thu thập số liệu

Dữ liệu trong bài viết được thu thập từ dự án "Bổ sung vi chất dinh dưỡng từ trước khi mang thai" của Văn phòng dự án Emory - Đại học Y Dược Thái Nguyên, trong đó học viên đã tham gia nghiên cứu ngay từ những ngày đầu.

Bộ câu hỏi được xây dựng nhằm phục vụ mục tiêu nghiên cứu, bao gồm thông tin nhân khẩu học, cân nặng sơ sinh của trẻ, tình trạng sinh nở của mẹ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) của mẹ và các yếu tố liên quan đến thực hành NCBSM.

+ Cân trẻ: Sử dụng cân lòng máng SECA để cân nặng trẻ sơ sinh

- Các bước thu thập số liệu

Lập danh sách các bà mẹ có con trong độ tuổi cần thu thập số liệu Thông báo cho y tế thôn bản để mời các bà mẹ đến trạm y tế tham gia phỏng vấn.

Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi nhằm thu thập thông tin về việc cho trẻ bú sữa mẹ.

Xử lý và phân tích số liệu

Sau khi hoàn tất phỏng vấn, các bộ câu hỏi sẽ được đánh giá về tính phù hợp và độ hoàn chỉnh Những phiếu khảo sát thiếu thông tin cần thiết hoặc không phù hợp sẽ được phỏng vấn lại, hoặc loại bỏ những câu hỏi không đúng với đối tượng mẫu đã chọn.

Dữ liệu được mã hóa và nhập vào máy tính bằng phần mềm EPIDATA 3.1, với quy trình nhập liệu được thực hiện hai lần nhằm giảm thiểu sai sót Các biến số được kiểm tra giá trị tối đa, tối thiểu và các trường hợp dữ liệu trống để đảm bảo tính chính xác so với bộ phiếu điều tra gốc.

- Phân tích số liệu được thực hiện trên phần mềm STATA 10

Sai số và cách khắc phục

Sai số nhớ lại: Khắc phục bằng cách gợi lại một số mốc liên quan đến quá trình chăm sóc trẻ.

Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu

Được sự cho phép của Hội đồng đạo đức Viện nghiên cứu Y-Xã hội học và sự đồng thuận của chính quyền địa phương, nghiên cứu sẽ được triển khai với sự chú trọng đến đạo đức nghiên cứu Đối tượng điều tra là con người, vì vậy việc giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi ích cho họ là điều quan trọng Chúng tôi cam kết tôn trọng và bảo mật thông tin cá nhân của từng đối tượng tham gia nghiên cứu.

Những thông tin về danh tính đối tượng được giữ bí mật

Trước khi tiến hành phỏng vấn, người tham gia sẽ được thông tin rõ ràng về mục đích của cuộc điều tra nhằm đảm bảo sự đồng ý Họ có quyền từ chối tham gia mà không gặp bất kỳ ảnh hưởng nào đến việc chăm sóc y tế tại địa phương.

Kết quả nghiên cứu là yếu tố quan trọng cho các cơ quan y tế trong việc theo dõi tình trạng chăm sóc sức khỏe trẻ nhỏ, từ đó nâng cao hiệu quả của các can thiệp truyền thông dinh dưỡng trong tương lai.

Cuộc điều tra này được thực hiện với mục tiêu bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng, không nhằm vào bất kỳ mục đích nào khác Chúng tôi mong muốn giải thích rõ ràng với các bà mẹ về ý nghĩa của cuộc điều tra để nhận được sự ủng hộ và hợp tác từ phía họ.

Sẵn sàng trả lời mọi thông tin liên quan đến cách chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cho trẻ khi bà mẹ cần biết sau cuộc phỏng vấn.

KẾT QUẢ

Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc tỉnh Thái Nguyên

có con dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc tỉnh Thái Nguyên

Cho bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ

Thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau khi sinh

Cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ các thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

Trong một nghiên cứu, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đạt 60,27% Đáng chú ý, 51,99% trẻ được bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh, trong khi 45,58% trẻ được cho ăn các thức ăn ngoài sữa mẹ ngay sau khi sinh.

Bảng 3.1 Các thực hành nuôi con bằng sữa mẹ theo huyện nghiên cứu Đại Từ Định Hóa Phú

Cho bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ

(170) Cho ăn/ uống các thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau sinh

Cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu 58,65

Nhận xét: Không có sự khác biệt trong việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại 4 huyện của địa bàn nghiên cứu

Bảng 3.2 Tình hình cho trẻ ăn/ uống thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau sinh

Thức ăn đầu tiên của bé SL (%)

Nước đường/mật ong/ nước hoa quả 94 6,80

Tỷ lệ các bà mẹ cho trẻ sử dụng sữa công thức hoặc sữa bò ngay sau khi sinh đạt 40,09%, cho thấy xu hướng phổ biến trong việc lựa chọn dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh Trong khi đó, việc cho trẻ uống nước trắng hay các thức uống khác rất hiếm gặp.

Bảng 3.3 Đặc điểm chung của bà mẹ Đặc điểm SL Mean ± SD/ %

Trình độ văn hóa mẹ

Sơ cấp/ trung cấp/ cao đẳng/ đại học 159 11,51

Số con trong gia đình

Thời gian quay lại làm việc

Trong một nghiên cứu với 1382 bà mẹ tham gia, tuổi trung bình là 26, với bà mẹ lớn tuổi nhất là 41 và trẻ nhất là 17 Khoảng 50% bà mẹ dưới 25 tuổi, trong khi phần lớn (26-35 tuổi) chiếm đa số Nghề nghiệp chủ yếu của các bà mẹ là nông dân, chiếm hơn 80%, còn lại là cán bộ viên chức, dịch vụ buôn bán và nghề khác Về trình độ học vấn, khoảng 89% bà mẹ có trình độ dưới THPT, trong khi chỉ 11% có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học.

- Số con trong gia đình của các bà mẹ trong nghiên cứu có tới 79,67% là con đầu tiên

- Đa số các bà mẹ trong nghiên cứu đi làm trước 6 tháng (62,44%)

Bảng 3.4 Thông tin cuộc đẻ

Phương pháp sinh Đẻ thường 981 70,98

Mổ đẻ/ đẻ forceps/ đẻ giác hút 401 29,02

Trong nghiên cứu, có 1.090 bà mẹ sinh con tại bệnh viện huyện, chiếm 78,87% tổng số bà mẹ tham gia Kết quả cho thấy 70,98% trong số đó đã lựa chọn phương pháp sinh đẻ tự nhiên.

Bảng 3.5 Các đặc điểm chung của trẻ

Thông tin SL %/ Mean ± SD

Cân nặng sơ sinh trẻ 1382 3076,25 ± 438,08

Tình trạng đẻ non Đẻ non 144 10,42 Đẻ đủ tháng 1238 89,58

Trong nghiên cứu, thông tin chung về trẻ được trình bày trong bảng 3.5 cho thấy không có sự chênh lệch giới tính, với 50,94% là nam Hầu hết trẻ có cân nặng sơ sinh từ 2500g trở lên, chiếm khoảng 95% Ngoài ra, 90% trẻ sinh ra đủ tháng.

Một số yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi

3.2.1 Các yếu tố liên quan tới việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Bảng 3.6 Tuổi của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu

Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa độ tuổi của bà mẹ với thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Bảng 3.7 Dân tộc mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu

Không bú mẹ hoàn toàn trong

Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa dân tộc mẹ và việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Tỷ lệ cho con bú hoàn toàn ở các dân tộc thiểu số cao hơn rõ rệt so với người Kinh Nguyên nhân có thể là do điều kiện kinh tế hạn hẹp, khiến các bà mẹ ở đây chỉ có khả năng nuôi con bằng sữa mẹ mà không bổ sung thêm sữa ngoài hay thực phẩm khác.

Bảng 3.8 Nghề nghiệp của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu

Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa nghề nghiệp của mẹ và việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn Cụ thể, những bà mẹ làm nghề nông có xu hướng cho con bú mẹ hoàn toàn nhiều hơn so với các mẹ thuộc các nghề nghiệp khác.

Bảng 3.9 Trình độ học vấn của mẹ và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Chỉ số

Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu

Không bú mẹ hoàn toàn trong

Cao đẳng/ đại học/ sau đại học 78 49,06 81 50,94 159

Nghiên cứu cho thấy rằng trình độ học vấn của mẹ có ảnh hưởng đến việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Cụ thể, những bà mẹ có trình độ học vấn cao như cao đẳng, đại học hoặc sau đại học lại có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ thấp hơn, chỉ đạt 49,06%, so với các bà mẹ có trình độ học vấn cấp 1, 2, 3.

Bảng 3.10 Số con của bà mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Không bú mẹ hoàn toàn trong

Số lượng con của bà mẹ ảnh hưởng đến việc thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn Các bà mẹ có từ 2 con trở lên có tỷ lệ thực hành cao hơn so với những bà mẹ lần đầu sinh Điều này cho thấy rằng những bà mẹ có kinh nghiệm sẽ nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ.

Bảng 3.11 Bà mẹ quay lại làm việc trước 6 tháng và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Thời gian quay lại làm việc

Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Chưa quay lại làm việc 571 66,16 292 33,86 863 Đã quay lại làm việc 297 57,23 222 42,77 519

Những phụ nữ chưa trở lại làm việc có tỷ lệ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn cao hơn (66,16%) so với những phụ nữ đã quay lại làm việc (57,23%) Sự khác biệt này mang ý nghĩa thống kê rõ ràng.

Bảng 3.12 Nơi sinh trẻ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu

Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

SL % SL % Đẻ ở nhà 14 60,86 9 39,14 23 Đẻ ở trạm y tế 28 66,66 14 33,34 42 Đẻ ở bệnh viện huyện 654 60,00 436 40,00 1090 Đẻ ở bệnh viện tỉnh 70 59,32 48 40,68 118 Đẻ ở bệnh viện trung ương 59 54,12 50 45,88 109

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa nơi sinh trẻ và việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Bảng 3.13 Tình trạng đẻ của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Không bú mẹ hoàn toàn trong

SL % SL % Đẻ mổ/ Đẻ khó 231 57,6 170 42,4 401 Đẻ thường 599 61,06 382 38,94 981

Những bà mẹ sinh thường có tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn cao hơn (61,06%) so với các bà mẹ sinh mổ hoặc sinh khó (57,6%) Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.14 Tình trạng đẻ non và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Không bú mẹ hoàn toàn trong

SL % SL % Đẻ non 81 56,25 63 43,75 144 Đẻ đủ tháng 750 60,58 488 39,42 1238

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa tình trạng đẻ với việc thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Bảng 3.15 Cân nặng trẻ khi đẻ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số

Cân nặng trẻ khi đẻ

Không bú mẹ hoàn toàn trong

Nghiên cứu cho thấy, các bà mẹ có trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2500gr có tỷ lệ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn thấp hơn rõ rệt so với các bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng trên 2500gr, và sự khác biệt này đạt ý nghĩa thống kê.

3.2.2 Các yếu tố liên quan tới việc trẻ được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu ngay sau khi sinh

Bảng 3.16 Tuổi của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

Nghiên cứu cho thấy không có mối liên hệ thống kê đáng kể giữa độ tuổi của mẹ và việc thực hành cho trẻ bú mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh.

Bảng 3.17 Dân tộc mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

Những bà mẹ dân tộc thiểu số và bà mẹ dân tộc Kinh có tỷ lệ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh tương đương nhau.

Bảng 3.18 Nghề nghiệp của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng

1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

Kết quả từ bảng 3.18 chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa các bà mẹ nông dân và những bà mẹ làm nghề khác trong việc thực hành cho con bú sớm.

Bảng 3.19 Trình độ học vấn của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

Cao đẳng/ đại học/ sau đại học 73 45,91 86 54,09 159

Nhận xét: Bảng 3.19 cho thấy không có sự khác biệt giữa trình độ học vấn với việc thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu

Bảng 3.20 Số con của bà mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

Các bà mẹ sinh con từ lần thứ hai trở lên có tỷ lệ cho con bú sớm trong giờ đầu sau sinh cao gấp 1,5 lần so với các bà mẹ sinh con lần đầu Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với giá trị p < 0,05.

Bảng 3.21 Nơi sinh trẻ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

SL % SL % Đẻ ở nhà 14 60,86 9 40,14 23 Đẻ ở trạm y tế 27 64,28 15 35,72 42 Đẻ ở bệnh viện huyện 594 54,49 496 45,51 1090 Đẻ ở bệnh viện tỉnh 56 47,45 62 52,55 118 Đẻ ở bệnh viện trung ương 30 27,52 79 72,48 109

Kết quả từ bảng trên cho thấy tỷ lệ các bà mẹ sinh con tại các tuyến địa phương (tỉnh, huyện, trạm y tế) cho trẻ bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh cao hơn rõ rệt so với các bà mẹ sinh tại tuyến trung ương Điều này có thể được giải thích bởi vì các bà mẹ ở tuyến trung ương thường gặp phải những vấn đề trong quá trình sinh, như sinh khó hoặc gặp sự cố.

Bảng 3.22 Tình trạng đẻ của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng

1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

SL % SL % Đẻ mổ/ Đẻ khó 108 26,93 293 73,07 401 Đẻ thường 611 62,26 370 37,74 981

Những bà mẹ sinh thường có tỷ lệ cho con bú mẹ sớm sau khi sinh cao gấp gần 3 lần so với những bà mẹ sinh mổ hoặc sinh khó Có mối liên quan thống kê đáng kể giữa phương thức sinh và thực hành cho con bú trong giờ đầu sau khi sinh.

Bảng 3.23 Tình trạng đẻ non và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng

1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cân nặng trẻ khi đẻ

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng n % n % Đẻ non 63 44,75 81 55,25 144 Đẻ đủ tháng 655 52,90 583 47,10 1238

Bảng 3.23 chỉ ra rằng không có mối liên hệ giữa tình trạng đẻ non và việc thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh.

Bảng 3.24 Cân nặng trẻ khi đẻ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng

1 giờ đầu sau sinh Chỉ số

Cân nặng trẻ khi đẻ

Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng

Nghiên cứu cho thấy rằng các bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng dưới 2500 gram có tỷ lệ cho trẻ bú sớm ngay sau khi sinh thấp hơn so với các bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng trên 2500 gram.

BÀN LUẬN

Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ

4.1.1 Thực trạng nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu

Bú mẹ hoàn toàn là quá trình trẻ chỉ nhận sữa từ vú mẹ, vú nuôi hoặc sữa mẹ đã vắt ra, không sử dụng bất kỳ loại thức ăn lỏng hay rắn nào khác, ngoại trừ giọt, siro chứa vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuốc.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, biểu đồ 3.1 cho thấy 60,27% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Tỷ lệ này có sự khác biệt giữa các huyện, trong đó huyện Định Hóa, mặc dù là huyện nghèo nhất, lại có tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn cao nhất với 74,6% Tiếp theo là các huyện Phú Lương và Đại Từ.

Theo kết quả nghiên cứu trước đây của một số tác giả ở một số vùng ở

Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang, tỉ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu năm 1996 tại Hà Nội là 45,5%, trong khi Lê Thị Kim Chung ghi nhận tỉ lệ này là 62,7% vào năm 2000 Tỉ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn khác nhau giữa các địa phương, với Phú Thọ chỉ đạt 4,6% và Quảng Nam có 2/816 trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong giai đoạn 4-6 tháng Báo cáo của Viện Dinh Dưỡng năm 2006 cho thấy tỉ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn quốc chỉ là 12,2%, cho thấy tỉ lệ trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhiều so với các địa phương khác.

Trên thế giới, Trung Quốc là một trong những quốc gia rất tích cực trong việc đẩy mạnh vấn đề NCBSM Trong một nghiên cứu gần đây tại

Trung Quốc cho thấy có 25,8% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu, tăng gấp đôi sovới năm 1990 [53] Tại Australia trong một nghiên cứu năm

Năm 2006, chỉ có 45,9% trẻ em 6 tháng tuổi được nuôi bằng sữa mẹ ở các mức độ khác nhau, và chỉ 12% được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ Tại Singapore, một nghiên cứu cho thấy chỉ 21% các bà mẹ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng, với dưới 5% bà mẹ nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ.

4.1.2 Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh

Theo khuyến cáo của WHO/UNICEF, mẹ nên cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh, càng sớm càng tốt, vì những giọt sữa đầu tiên chứa nhiều chất dinh dưỡng và kháng thể Hành động mút vú của trẻ không chỉ kích thích tuyến yên giải phóng Prolactin, giúp tăng lượng sữa, mà còn kích thích sản xuất Oxytoxin, gây co các tế bào cơ quanh tuyến sữa, từ đó tạo ra phản xạ tiết sữa Oxytoxin cũng có tác dụng hỗ trợ cầm máu nhanh chóng cho mẹ sau sinh.

Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 51,9% bà mẹ cho trẻ bú ngay sau một giờ sinh, dẫn đến khoảng một nửa số trẻ không được hưởng lợi từ bữa bú đầu tiên quý giá Tỷ lệ thực hành bú sớm trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả từ dự án A&T tại 11 tỉnh, bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Đắk Nông, Tiền Giang và Cà Mau.

Theo nghiên cứu năm 2011, tỷ lệ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh đạt 51,9%, cao hơn so với 50,5% trong các nghiên cứu trước đó So sánh với một số nghiên cứu khác trong nước, tỷ lệ này cũng cho thấy sự gia tăng, cụ thể như nghiên cứu của Huỳnh Văn Tú và Nguyễn Vũ Linh tại bệnh viện phụ sản bán công Bình Dương (29,7%), nghiên cứu của Đinh Thị Phương Hòa tại 4 bệnh viện ở Hà Nội năm 2006 (44,1%), và nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt tại xã Khánh Hà, Thường Tín, Hà Nội (42,3%).

Nghiên cứu của Từ Mai năm 2009 cho thấy 30% bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh, trong khi nghiên cứu tại Trung tâm khám tư vấn dinh dưỡng năm 2008 ghi nhận tỷ lệ này là 49,3% Một nghiên cứu khác của Huỳnh Văn Dũng và cộng sự tại huyện Tam Nông, Phú Thọ năm 2012 cho thấy tỷ lệ thực hành đạt 46,7% So với nhiều nghiên cứu khác ở nông thôn và thành phố, tỷ lệ này cao hơn đáng kể Tuy nhiên, khi so sánh với nghiên cứu tại vùng miền núi về bà mẹ dân tộc Dao, tỷ lệ thực hành bú sớm cũng cao hơn (51,9% so với 47,5%) nhưng không có sự khác biệt đáng kể.

So sánh với nghiên cứu của dự án IFEN II Hội Chữ thập đỏ Việt Nam năm 2005 và xã Dân Hòa Hà Tây năm 2006, tỷ lệ bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh trong nghiên cứu này đạt 51,9%, cao hơn tỷ lệ chung 45,8% của 6 tỉnh trong dự án Tuy nhiên, kết quả này vẫn thấp hơn một số nghiên cứu khác trong cùng lĩnh vực, chẳng hạn như nghiên cứu mô tả cắt ngang của tác giả Lê Thị Hương thực hiện năm 2008 tại huyện.

Tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng nửa giờ đầu sau sinh tại Văn Yên, Yên Bái và Hải Lăng, Quảng Trị lần lượt đạt 90% và 88% Một nghiên cứu dọc tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ này còn cao hơn, đạt 98,3% Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010 của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm sau sinh là 76,2% Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm chỉ đạt 51,9%, thấp hơn so với mức trung bình quốc gia và các nghiên cứu trước đó.

So sánh với các nghiên cứu trước đây, tình hình trẻ bú sớm sau sinh đã có sự cải thiện đáng kể Nghiên cứu của Cao Thị Hậu và Phạm Thúy Hòa (1991) cho thấy tỷ lệ mẹ cho con bú trong vòng 30 phút đầu sau sinh chỉ đạt 5,5% ở nông thôn và 8% ở thành phố Một nghiên cứu khác của Đào Ngọc Diễn và Nguyễn Trọng An cho thấy hầu hết trẻ được bú mẹ sau 2-3 ngày, với tỷ lệ bú trong vòng 24 giờ chỉ đạt 15,8% ở nội thành và 35,5% ở nông thôn Các nghiên cứu gần đây như của Ngô Văn Toàn (2005) ghi nhận tỷ lệ mẹ cho con bú sớm trong 1 giờ đầu sau đẻ tại Quảng Trị là 63,7%, trong khi Trần Chí Liêm và cộng sự (2007) tại Ba Bể - Bắc Kạn là 65,7% Nghiên cứu của Phạm Văn Hoan và các tác giả khác (2005-2006) tại một số tỉnh ghi nhận tỷ lệ này là 45,8% ở Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Lai Châu, Điện Biên và 69,4% ở Hà Tây Đặc biệt, nghiên cứu về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ người Mỹ gốc Việt cho thấy 75% bà mẹ cho con bú sớm, tỷ lệ này cũng tương tự ở các bà mẹ người Úc gốc Việt.

Một số yếu tố liên quan đến thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu

4.2.1 Trình độ học vấn của bà mẹ

Trình độ học vấn của người mẹ có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng nuôi dưỡng trẻ, đặc biệt là trong việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Nghiên cứu cho thấy, các bà mẹ có trình độ học vấn thấp thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn nhiều hơn so với các bà mẹ có trình độ học vấn cao, với 64,22% bà mẹ có trình độ cấp 1 thực hiện hành vi này, trong khi chỉ có 49% bà mẹ có trình độ trung cấp trở lên Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng bà mẹ ở nông thôn thường có trình độ học vấn thấp hơn và thời gian bú kéo dài hơn Hơn nữa, các bà mẹ có trình độ học vấn cao có xu hướng cai sữa muộn hơn và hiểu biết tốt hơn về dinh dưỡng trẻ em Mặc dù một số nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt về thời gian cho trẻ bú lần đầu sau sinh, nhưng nhìn chung, trình độ học vấn của mẹ được coi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc nuôi con bằng sữa mẹ Ở các nước phát triển, mối quan hệ giữa trình độ học vấn và tỷ lệ cho con bú thường có xu hướng ngược lại so với các nước đang phát triển, cho thấy sự phức tạp trong vấn đề này.

4.2.2 Nghề nghiệp của bà mẹ

Nghề nghiệp của mẹ có ảnh hưởng đáng kể đến dinh dưỡng của trẻ, chủ yếu thông qua thời gian chăm sóc, điều kiện kinh tế và cơ hội giao tiếp Trong nghiên cứu, 80,9% bà mẹ làm ruộng cho thấy họ có thời gian chăm sóc con nhiều hơn so với 19,1% bà mẹ làm công nhân viên chức Mối liên hệ giữa nghề nghiệp của mẹ và việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn chỉ có ý nghĩa thống kê ở nhóm nông dân, với tỷ lệ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn cao hơn Mặc dù tỷ lệ cho trẻ bú sớm trước 1 giờ sau sinh ở nhóm làm ruộng cao hơn, nhưng chưa có ý nghĩa thống kê Điều này có thể do các bà mẹ nông thôn thường sinh con tại trạm y tế xã và gặp con ngay sau sinh, trong khi các bà mẹ ở đô thị thường sinh tại bệnh viện và có tỷ lệ mổ đẻ cao, gây khó khăn trong việc cho trẻ bú sớm Hơn nữa, sự phổ biến của quảng cáo sữa và điều kiện kinh tế tốt hơn ở thành phố cũng góp phần làm giảm tỷ lệ trẻ bú sớm sau sinh ở nhóm mẹ thành phố.

4.2.3 Chế độ thai sản và thời gian quay trở lại làm việc của bà mẹ Đã có nhiều nghiên cứu tìm ra mối liên quan giữa việc quay trở lại làm việc của bà mẹ và việc nuôi con bằng sữa mẹ [54] Ở các nước Bắc Âu, tỉ lệ NCBSM cao chính là nhờ chính sách về thời gian nghỉ việc của bà mẹ sau đẻ

Tại Na Uy, phụ nữ sau sinh được nghỉ 116 tuần, trong đó có 42 tuần được hưởng 100% lương, với tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đạt 85% trong 4 tháng đầu và 80% trong 6 tháng đầu Ở Việt Nam, từ năm 1984, chế độ nghỉ đẻ đã được kéo dài lên 6 tháng, nhưng hiện tại, phụ nữ chỉ được nghỉ 4 tháng trước khi trở lại công việc Điều này dẫn đến việc các bà mẹ làm ruộng có nhiều thời gian chăm sóc con hơn so với các bà mẹ làm công chức Mặc dù các bà mẹ nông thôn phải đi làm sớm, nhưng họ làm gần nhà và có thể về cho con bú giữa giờ, giải thích cho việc trẻ em trong nhóm này có tỷ lệ bú kéo dài hơn so với các nhóm nghề nghiệp khác.

4.2.4 Các yếu tố liên quan khác

Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan thống kê giữa phương pháp sinh của bà mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh, với tỷ lệ bà mẹ sinh thường cho trẻ bú sớm cao gấp gần 3 lần so với bà mẹ sinh mổ (p < 0,05) Nguyên nhân có thể do bà mẹ sinh thường phục hồi sức khỏe nhanh hơn và được tiếp xúc với con sớm hơn Nhiều nghiên cứu, như của Nguyễn Việt Dũng, chỉ ra rằng phương pháp đẻ, nơi đẻ và sức khỏe của bà mẹ ảnh hưởng đến thực hành cho con bú sớm Tương tự, nghiên cứu của Nguyễn Vũ Linh và Huỳnh Văn Tú tại Bình Dương cũng khẳng định phương pháp đẻ ảnh hưởng đến thực hành cho trẻ bú sớm Theo tổ chức A&T, chỉ có 11,3% bà mẹ sinh mổ cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, trong khi tỷ lệ này ở bà mẹ sinh thường là 67,6%.

Các yếu tố như số con của bà mẹ, nơi sinh trẻ và cân nặng lúc sinh có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Bà mẹ có từ 2 con trở lên có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh cao hơn so với bà mẹ sinh con lần đầu Ngược lại, bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng dưới 2500 gram thường có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và bú sớm thấp hơn so với bà mẹ có trẻ nặng trên 2500 gram Điều này có thể giải thích bởi vì bà mẹ có nhiều kinh nghiệm nuôi con hơn, trong khi trẻ nhẹ cân thường gặp vấn đề sức khỏe như sinh non, dẫn đến cơ hội bú sớm thấp hơn.

Ngày đăng: 06/04/2022, 22:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Alive and Thrive, Viện nghiên cứu Y- Xã hội học (2012), Nghiên cứu đánh giá Nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ Việt Nam, tr.40-98 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu đánh giá Nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ Việt Nam
Tác giả: Alive and Thrive, Viện nghiên cứu Y- Xã hội học
Năm: 2012
2. Bộ Y tế (2015) Chương trình đào tạo liên tục nuôi dưỡng trẻ nhỏ Tài liệu dùng cho Cán bộ Y tế công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em tại các tuyến, Nhà xuất bản Y học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chương trình đào tạo liên tục nuôi dưỡng trẻ nhỏ Tài liệu dùng cho Cán bộ Y tế công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em tại các tuyến
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
3. Bộ Y tế, Viện Dinh dưỡng (2012) Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030, tr.3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030
4. Bộ môn dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trường Đại học y Hà Nội (2004): Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhà xuất bản Y học, tr 73-82, 116-120, 148-154 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
Tác giả: Bộ môn dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trường Đại học y Hà Nội
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2004
5. Bộ môn Nhi. Trường đại học Y Hà Nội (2000) Bài giảng Nhi Khoa tập 1 Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr 186- 194 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng Nhi Khoa tập 1
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học Hà Nội
6. Lê Thị Kim Chung (2000), Nghiên cứu tập tính nuôi con dưới 24 tháng tuổi của các bà mẹ tại phường Láng Hạ - Đống Đa – Hà Nội 2000, tr 39 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tập tính nuôi con dưới 24 tháng tuổi của các bà mẹ tại phường Láng Hạ - Đống Đa – Hà Nội 2000
Tác giả: Lê Thị Kim Chung
Năm: 2000
7. Nguyễn Việt Dũng (2014), Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội năm 2014, Luận văn thạc sĩ Y tế công công, Đại học Y tế công cộng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội năm 2014
Tác giả: Nguyễn Việt Dũng
Năm: 2014
8. Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam Phương và Cs (2014), “Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi và thực hành nuôi trẻ của bà mẹ tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ năm 2012”, Tạp chí Dinh dưỡng &amp; Thực phẩm, 10(4), tr. 116-123 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi và thực hành nuôi trẻ của bà mẹ tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ năm 2012”, "Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm
Tác giả: Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam Phương và Cs
Năm: 2014
9. Đào Ngọc Diễn, Nguyễn Trọng An và cộng sự (1983), Tìm hiểu cách nuôi dưỡng trẻ em trong thời kỳ bú mẹ, Hội thảo sữa mẹ, viện dinh dưỡng, 1983, tr 79 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu cách nuôi dưỡng trẻ em trong thời kỳ bú mẹ
Tác giả: Đào Ngọc Diễn, Nguyễn Trọng An và cộng sự
Năm: 1983
10. Nguyễn Thị Diễm Hồng ( 2000): Đánh giá hiệu quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ y khoa, tr 32-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá hiệu quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
11. Lê Thị Hương (2008), “Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị”, Tạp chí Dinh dưỡng &amp; Thực phẩm, 4(2), tr. 40-48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị”," Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm
Tác giả: Lê Thị Hương
Năm: 2008
12. Lê Thị Hương (2009), Kiến thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ tại phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà Nội năm 2009, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Kiến thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ tại phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà Nội năm 2009
Tác giả: Lê Thị Hương
Năm: 2009
13. Lê Thị Hương và Đỗ Hữu Hanh (2008), “Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Văn Yên, Yên Bái”, Tạp chí Y học thực hành, sô 643, tr. 21-27 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Văn Yên, Yên Bái"”, Tạp chí Y học thực hành
Tác giả: Lê Thị Hương và Đỗ Hữu Hanh
Năm: 2008
14. Cao Thị Hậu, Phạm Thúy Hòa, Lê Thị Hợp và cộng sự (1991), Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ ở một số vùng nông thôn và thành thị, tr 10-40 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ ở một số vùng nông thôn và thành thị
Tác giả: Cao Thị Hậu, Phạm Thúy Hòa, Lê Thị Hợp và cộng sự
Năm: 1991
15. Phạm Thúy Hòa, Nguyễn Anh Vũ, Lê Thị Hương (2011), “Kiến thức thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em từ 12-24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ”, Tạp chí nghiên cứu Y học thực hành, số 82 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em từ 12-24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ”," Tạp chí nghiên cứu Y học thực hành
Tác giả: Phạm Thúy Hòa, Nguyễn Anh Vũ, Lê Thị Hương
Năm: 2011
16. Trương Tấn Hưng (2009), Đánh giá tác dụng của cốm lợi sữa trong điều trị thiếu sữa sau sinh dưới một tháng, Luận văn bác sĩ chuyên khoa cấp 2, Đại học Y Hà Hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá tác dụng của cốm lợi sữa trong điều trị thiếu sữa sau sinh dưới một tháng
Tác giả: Trương Tấn Hưng
Năm: 2009
17. Phạm Văn Hoan, Lê Bạch Mai (2009), “Ăn uống theo nhu cầu dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em Việt Nam”, Sách tư vấn dinh dưỡng cho cộng đồng, Nhà xuất bản Y học Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ăn uống theo nhu cầu dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em Việt Nam”," Sách tư vấn dinh dưỡng cho cộng đồng
Tác giả: Phạm Văn Hoan, Lê Bạch Mai
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học Hà Nội
Năm: 2009
18. Phạm Văn Hoan, Vũ Quang Huy và Erika Lutz (2006), “Thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi tại một số xa thuộc Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Lai Châu, Điện Biên 2005 và Hà Tây 2006”, Tạp chí Y học Việt Nam, Số 12, tr 39-46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi tại một số xa thuộc Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Lai Châu, Điện Biên 2005 và Hà Tây 2006”, "Tạp chí Y học Việt Nam
Tác giả: Phạm Văn Hoan, Vũ Quang Huy và Erika Lutz
Năm: 2006
19. Nguyễn Lân (2012), Ảnh hưởng của sữa bổ sung Pre-probitotic lên tình trạng dinh dưỡng, nhiễm khuẩn và hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ 6-12 tháng tuổi tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Luận án tiến sỹ dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng của sữa bổ sung Pre-probitotic lên tình trạng dinh dưỡng, nhiễm khuẩn và hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ 6-12 tháng tuổi tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
Tác giả: Nguyễn Lân
Năm: 2012
20. Phạm Phương Lan (2014), Thực trạng chăm sóc sau sinh của bà mẹ ở hai bệnh viện trên địa bàn Hà Nội và đánh giá mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà, Luận án tiến sĩ y tế công cộng, Viện vệ sinh dịch tễ trung ương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng chăm sóc sau sinh của bà mẹ ở hai bệnh viện trên địa bàn Hà Nội và đánh giá mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà
Tác giả: Phạm Phương Lan
Năm: 2014

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1. Các thực hành nuôi con bằng sữa mẹ theo huyện nghiên cứu Đại Từ Định Hóa Phú - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.1. Các thực hành nuôi con bằng sữa mẹ theo huyện nghiên cứu Đại Từ Định Hóa Phú (Trang 31)
Bảng 3.2. Tình hình cho trẻ ăn/uống thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay  sau sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.2. Tình hình cho trẻ ăn/uống thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau sinh (Trang 32)
Bảng 3.3. Đặc điểm chung của bà mẹ - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.3. Đặc điểm chung của bà mẹ (Trang 32)
Bảng 3.4. Thông tin cuộc đẻ - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.4. Thông tin cuộc đẻ (Trang 33)
Bảng 3.5. Các đặc điểm chung của trẻ - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.5. Các đặc điểm chung của trẻ (Trang 34)
Bảng 3.6. Tuổi của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.6. Tuổi của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 35)
Bảng 3.7. Dân tộc mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.7. Dân tộc mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 36)
Bảng 3.8. Nghề nghiệp của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.8. Nghề nghiệp của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 36)
Bảng 3.9. Trình độ học vấn của mẹ và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.9. Trình độ học vấn của mẹ và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu (Trang 37)
Bảng 3.11. Bà mẹ quay lại làm việc trước 6 tháng và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.11. Bà mẹ quay lại làm việc trước 6 tháng và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 38)
Bảng 3.10. Số con của bà mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.10. Số con của bà mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 38)
Bảng 3.12. Nơi sinh trẻ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.12. Nơi sinh trẻ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 39)
Bảng 3.14. Tình trạng đẻ non và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.14. Tình trạng đẻ non và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 40)
Bảng 3.13. Tình trạng đẻ của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.13. Tình trạng đẻ của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu (Trang 40)
Bảng 3.16. Tuổi của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại 20 xã thuộc tỉnh thái nguyên​
Bảng 3.16. Tuổi của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh (Trang 41)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w