TỔNG QUAN
Một vài nét về chăm sóc sức khỏe ban đầu
Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) được đưa vào Nghị quyết của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Đại hội vào tháng 5 năm 1977 và trở thành tuyên ngôn của Hội nghị quốc tế Alma Ata tháng 9 năm 1978, với cam kết của các quốc gia, đặc biệt là các nước thuộc thế giới thứ ba, với khẩu hiệu "Sức khỏe cho mọi người đến năm 2000" WHO định nghĩa sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ là việc không có bệnh tật Mục tiêu của WHO là đạt được mức độ sức khỏe cao nhất cho tất cả mọi người Tại Hội nghị Alma Ata, CSSKBĐ đã được xác định là trọng tâm để nâng cao sức khỏe toàn cầu WHO định nghĩa CSSKBĐ là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên phương pháp và kỹ thuật thực hành, cung cấp đến từng cá nhân và gia đình trong cộng đồng, với sự tham gia đầy đủ của họ và chi phí hợp lý, nhằm đạt được mức sức khỏe cao nhất có thể.
Kể từ khi có tuyên ngôn Alma - Ata, nhiều quốc gia ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - La tinh, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và châu Phi, đã trải qua một cuộc cách mạng trong lĩnh vực y tế Hệ thống y tế cơ sở đã được thiết lập và đầu tư mạnh mẽ, với sự phát triển của đội ngũ nhân viên y tế cộng đồng tại các khu vực như Mozambique, Zimbabwe, Tanzania, Nigeria, Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia Mặc dù có những cơ chế và chính sách khác nhau, tất cả đều hướng tới mục tiêu cung cấp dịch vụ y tế thiết yếu cho cộng đồng, giảm thiểu nguy cơ bệnh tật và hậu quả tiêu cực, đồng thời giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội với chi phí thấp và kỹ thuật đơn giản, hiệu quả.
CSSKBĐ là một hệ thống quan điểm được xây dựng trên 7 nguyên tắc cơ bản: công bằng, phát triển, tự lực, kỹ thuật phù hợp, dự phòng thích hợp, hoạt động liên ngành và sự tham gia của cộng đồng Hệ thống này bao gồm 8 nội dung chủ yếu, phản ánh tính toàn diện và sự kết hợp giữa các yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường.
2- Cải thiện điều kiện dinh dưỡng - ăn uống
3- Cung cấp nước sạch - thanh khiết môi trường
4- Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em - kế hoạch hoá gia đình
6- Phòng và chống bệnh dịch lưu hành
7- Khám chữa bệnh và thương tích thông thường
8- Cung cấp thuốc thiết yếu
Việt Nam chấp nhận 8 điểm trên và bổ sung thêm 2 nội dung có tính đặc thù đó là:
1- Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở
2- Quản lý sức khỏe Để thực hiện các nội dung CSSKBĐ nêu trên, nguồn lực Trạm y tế xã đóng vai trò cực kỳ quan trọng, theo đa số ý kiến các chuyên gia nghiên cứu về chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, khái niệm nguồn lực trạm y tế xã có thể khái quát bao gồm 3 yếu tố cơ bản: nhân lực, vật lực và tài lực Nhân lực ở đây là nguồn lao động, là đội ngũ cán bộ trạm y tế xã; vật lực là cơ sở, vật chất, trang thiết bị y tế; tài lực là các nguồn tài chính của trạm y tế xã [36].
Thực trạng nguồn nhân lực ngành y tế
1.2.1 Nguồn nhân lực y tế trên thế giới
Hiện nay, thế giới có khoảng 59.8 triệu nhân viên y tế, nhưng thiếu hụt khoảng 4.2 triệu người, trong đó châu Phi cần khoảng 1 triệu nhân viên Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cảnh báo rằng các quốc gia có dưới 2.3 bác sĩ, y tá và nữ hộ sinh trên 100.000 dân đang gặp tình trạng thiếu nhân lực y tế, với 57 quốc gia bị ảnh hưởng, chủ yếu ở châu Phi cận Sahara Cuộc khủng hoảng này do nhiều yếu tố, bao gồm sự chênh lệch kinh tế, bùng phát đại dịch và đặc biệt là tình trạng di cư của cán bộ y tế vì điều kiện làm việc và lương bổng không hợp lý Một phần tư bác sĩ và 5% y tá được đào tạo tại châu Phi đã chuyển đến các nước phát triển hơn, nơi mức lương có thể cao gấp nhiều lần so với châu Phi Để giải quyết vấn đề nhân lực y tế, cần có sự phối hợp giữa nhiều lĩnh vực, không chỉ riêng ngành y tế.
Vào tháng 3 năm 2008 tại Kampala, Uganda, Liên minh nhân lực y tế toàn cầu đã kêu gọi sự hợp tác giữa các nhà lãnh đạo y tế, tổ chức xã hội dân sự và người lao động để tìm ra giải pháp ứng phó với cuộc khủng hoảng y tế hiện nay.
Theo nghiên cứu của WHO, khu vực Đông Nam Á chiếm 25% dân số thế giới nhưng chỉ có 10% nguồn nhân lực y tế, trong khi gánh nặng bệnh tật toàn cầu lên tới gần 30% Vấn đề này đã được WHO nêu trong “Kế hoạch chiến lược về phát triển nguồn nhân lực y tế khu vực Đông Nam Á”, được chính phủ 11 quốc gia thành viên xác nhận tại kỳ họp thứ 59 của Uỷ ban khu vực ở Dhaka năm 2006 Tuyên bố Dhaka nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nhân lực y tế và kêu gọi các quốc gia thành viên cam kết phát triển nguồn nhân lực y tế trong chính sách quốc gia, nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ qua việc xây dựng kế hoạch trung hạn và dài hạn.
1.2.2 Thực trạng nhân lực y tế ở Việt Nam
Năm 2010, ngành y tế Việt Nam có khoảng 300.000 cán bộ, bao gồm 1.028 tiến sĩ, 5.070 thạc sĩ và 50.110 bác sĩ trong lĩnh vực y tế, cùng với 128 tiến sĩ, 381 thạc sĩ và 10.015 dược sĩ đại học trong ngành dược Ngoài ra, còn có hàng chục vạn y tá, điều dưỡng, y sĩ và dược tá.
Tại Hội nghị trực tuyến quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn
Từ năm 2011 đến 2020, Bộ trưởng Bộ Y tế đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong ngành y tế Người dân ngày càng yêu cầu cao về chất lượng dịch vụ y tế, trong khi sự xuất hiện của các dịch bệnh toàn cầu đòi hỏi những mô hình can thiệp mới và sự phản ứng nhanh chóng từ ngành y tế Để đối phó với những thách thức này, ngoài việc đầu tư và nâng cấp cơ sở vật chất, cần thiết phải có nguồn nhân lực giỏi, năng động và thích ứng với các điều kiện mới.
Trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế xã hội tại Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến cấu trúc và phân bố nguồn nhân lực y tế Cán bộ y tế có trình độ cao ngày càng tập trung vào các tuyến trên và những khu vực có điều kiện làm việc tốt hơn, trong khi đó, các tuyến dưới và những lĩnh vực chuyên môn ít thu hút như y tế dự phòng, nhi, lao, và tâm thần lại rơi vào tình trạng thiếu nhân lực.
Việc phân bố nhân lực y tế không đồng đều đang là vấn đề nghiêm trọng tại nhiều địa phương trên toàn quốc Theo báo cáo của Vụ Khoa học - Đào tạo, Bộ Y tế, nhân lực y tế chủ yếu tập trung ở các tỉnh và khu vực thuận lợi, với 50% cán bộ y tế làm việc tại thành phố, trong khi dân số thành phố chỉ chiếm 27,7% tổng dân số cả nước Ngược lại, các tỉnh miền núi, vùng Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long chỉ có khoảng một phần tư cán bộ có trình độ đại học trở lên, với 2% có trình độ thạc sỹ và chỉ 0,51% có trình độ tiến sỹ.
Tại Đồng Tháp, với dân số 1,6 triệu người, tỉnh này hiện chỉ có 3.697 cán bộ y tế, thiếu gần 1.000 so với biên chế được giao, và chỉ có 708 bác sỹ, đạt tỷ lệ 4,2 bác sỹ/1 vạn dân Do đó, Đồng Tháp chỉ dám đặt ra mục tiêu khiêm tốn 5 bác sỹ/1 vạn dân vào năm 2010, với dự kiến đạt mục tiêu 8 bác sỹ/1 vạn dân vào năm 2020 Tương tự, Đồng Nai, một địa phương trọng điểm về kinh tế, cũng đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt cán bộ y tế nghiêm trọng, khi chỉ có 854 bác sỹ, đạt 3,56 bác sỹ/1 vạn dân và chỉ 50 dược sỹ đại học, tương ứng với 0,21 dược sỹ/1 vạn dân.
Tính đến năm 2010, Đồng Nai cần thêm 1.800 bác sĩ, nhưng hiện tại chỉ có khoảng 200 bác sĩ được cử đi đào tạo hệ đa khoa 4 năm và khoảng 30 bác sĩ chính quy được đào tạo mỗi năm Tuy nhiên, số lượng bác sĩ trở về làm việc tại địa phương hàng năm chỉ dao động từ 3 đến 4 người.
Tình trạng thiếu bác sỹ tại các tỉnh miền Trung, đặc biệt là Bình Định, đã diễn ra từ năm 2010 khi tỉnh cần tuyển 220 bác sỹ nhưng chỉ có thể thu hút chưa đến 10 người, trong khi 10 bác sỹ đã xin nghỉ việc, bao gồm cả những bác sỹ có trình độ sau đại học Bệnh viện Phong - Da liễu TW - Quy Hòa không thể tuyển dụng bác sỹ trong nhiều năm, mặc dù Ban giám đốc bệnh viện đã tích cực mời gọi sinh viên mới tốt nghiệp từ các trường đại học y Để giải quyết tình trạng này, bệnh viện phải tuyển y sỹ và cử họ đi đào tạo, nhưng sau khi hoàn thành chương trình, nhiều người vẫn lựa chọn rời bỏ công việc với mức đền bù chỉ vài triệu đồng mỗi năm để tìm kiếm cơ hội có thu nhập cao hơn.
Tình trạng khan hiếm bác sĩ tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, đặc biệt là ở tỉnh Hà Nam, đang trở nên nghiêm trọng khi thiếu khoảng 250 bác sĩ, không đủ biên chế cho số giường bệnh theo quy định, nhất là ở tuyến huyện Mỗi năm, tỉnh chỉ có thể tuyển mới từ 10-15 bác sĩ, chủ yếu ở tuyến tỉnh, trong khi tuyến huyện chủ yếu bổ sung bác sĩ từ nguồn y sĩ đi học nâng cao Hơn nữa, tỉnh chưa có chính sách hợp lý để thu hút bác sĩ mới ra trường, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân lực y tế trầm trọng.
Năm 2009, tỉnh Lai Châu thuộc khu vực Tây Bắc có dân số 330.000 người trên diện tích 9.112 km², nhưng chỉ có 132 bác sĩ, tương đương với tỷ lệ 4 bác sĩ trên 10.000 dân Bệnh viện đa khoa tỉnh chỉ có 29 bác sĩ và 1 dược sĩ đại học, cho thấy sự thiếu hụt nguồn nhân lực y tế nghiêm trọng trong khu vực này.
Tổ chức và hoạt động của y tế xã/phường/thị trấn
1.3.1 Sự hình thành và phát triển của y tế xã, phường, thị trấn
Mạng lưới y tế cơ sở ở Việt Nam bắt đầu hình thành từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ở miền Bắc, trong khi miền Nam chỉ có sau năm 1975 Trước thời kỳ đổi mới, y tế cơ sở đã trải qua suy thoái do sự tan rã của hệ thống hợp tác xã nông nghiệp, dẫn đến việc các Uỷ ban nhân dân xã không còn nguồn thu để tài trợ cho các dịch vụ xã hội, bao gồm y tế Để cải thiện tình trạng này, vào năm 1987, Nhà nước đã quyết định cấp lương cho một số cán bộ y tế xã từ ngân sách tỉnh Tuy nhiên, đến đầu thập kỷ 90, chỉ có một phần ba trạm y tế xã có cán bộ được hưởng lương Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 58/QĐ-TTg, xác định cán bộ y tế xã là cán bộ Nhà nước và phân bổ ngân sách để trả lương từ ngân sách tỉnh.
Vào ngày 22/01/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 06-CT/TW nhằm củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc nâng cao công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu Mục tiêu chính của Chỉ thị là phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã hội Các cấp ủy Đảng cần nhận thức rõ vai trò của y tế cơ sở và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo trong việc xây dựng và củng cố mạng lưới này Cần kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả, cũng như tăng cường cán bộ và trang bị kỹ thuật cho y tế cơ sở Đồng thời, mở rộng các hình thức đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ y tế, ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc địa phương, đảm bảo đủ chức danh cho trạm y tế và chú trọng nâng cao trình độ cán bộ y dược cổ truyền Chính sách đãi ngộ hợp lý cũng cần được thực hiện để khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại các trạm y tế xã, phường, đặc biệt ở vùng miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Chỉ thị 06 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số.
Để đạt được mục tiêu y tế xã hội giai đoạn 2001–2010, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 370/2002/QĐ-BYT vào ngày 07/02/2002, quy định "Chuẩn Quốc gia về y tế xã" Quyết định này nhằm hướng dẫn các cấp ủy Đảng và Chính quyền trong việc đầu tư nâng cấp hoặc xây dựng mới trạm y tế xã, đồng thời nâng cao năng lực của cán bộ tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn.
Qua 10 năm thực hiện Quyết định số 370/2002/QĐ-BYT ngày 07/02/2002 về việc ban hành "Chuẩn Quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001– 2010”[11] với đã có nhiều những thành tựu đáng kể, tuy nhiên xã hội ngày càng phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao để đáp ứng được những nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày 22 tháng 09 năm
2011 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3447/QĐ-BYT về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2010 - 2020, việc thực hiện
Bộ tiêu chí đánh giá này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân trong thời kỳ mới.
Nghị quyết 46-NQ/TW ngày 23/2/2006 của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc đổi mới toàn diện hệ thống y tế nhằm đảm bảo công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo điều kiện cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe với chất lượng ngày càng cao Để thực hiện mục tiêu này, Nghị quyết đã xác định việc đầu tư vào đào tạo cán bộ y tế là ưu tiên hàng đầu, nhằm nâng cấp cơ sở y tế Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động cụ thể, bao gồm các đề án như đào tạo bác sỹ cử tuyển cho con em dân tộc tại các khu vực khó khăn, chế độ thu hút cán bộ y tế về vùng sâu, và cải tạo trạm y tế xã Mục tiêu đặt ra là đến năm 2010, 100% xã có trạm y tế kiên cố, 80% xã có bác sỹ, và 75% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định 172/2004/NĐ-CP vào ngày 29/9/2004, quy định về việc thay đổi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ngành y tế Theo nghị định này, Trung tâm Y tế huyện được tổ chức thành ba đơn vị chính: Phòng y tế, Trung tâm y tế dự phòng và Bệnh viện đa khoa Đồng thời, các Trạm y tế đã được chuyển giao cho Phòng y tế quản lý, trực thuộc Uỷ ban nhân dân huyện.
Sau 2 năm thực hiện Nghị định, năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 về việc quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh [35]
- - - g, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở
Tỉnh Tuyên Quang đã quyết định đổi tên Trung tâm y tế dự phòng huyện thành Trung tâm y tế huyện và chuyển giao quản lý trạm y tế xã từ Phòng y tế sang Trung tâm y tế Sự thay đổi này đã tác động đáng kể đến tâm lý của cán bộ y tế cơ sở.
Năm 2008, Uỷ ban Dân số - Gia đình - Trẻ em giải thể, lĩnh vực dân số
Kế hoạch hóa gia đình đã được chuyển giao cho ngành y tế, với trạm y tế xã đảm nhận thêm nhiệm vụ và cán bộ chuyên trách về dân số và kế hoạch hóa gia đình Sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức đã ảnh hưởng đến sự phối hợp trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu giữa các tuyến huyện và xã.
Ngành y tế, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở, đã nỗ lực khắc phục khó khăn và duy trì hoạt động ổn định, đảm bảo chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân Trong những năm qua, nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng.
1.3.2 Chức năng nhiệm vụ của y tế xã, phường, thị trấn
Chỉ thị 06-CT/TW ngày 22 tháng 01 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khẳng định rằng mạng lưới y tế cơ sở, bao gồm y tế thôn bản, xã, phường, thị trấn, quận huyện, thị xã, là tuyến y tế gần gũi nhất với người dân Mạng lưới này đảm bảo mọi người được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa và trật tự an toàn xã hội, đồng thời tạo niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Y tế cơ sở là đơn vị kỹ thuật đầu tiên trong hệ thống y tế nhà nước, có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, phát hiện sớm và phòng ngừa dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, hỗ trợ đỡ đẻ thường, cung ứng thuốc thiết yếu, và vận động cộng đồng thực hiện vệ sinh môi trường cùng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình nhằm tăng cường sức khỏe.
Với hơn 11.012 trạm y tế trên toàn quốc, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) sẽ bao phủ hầu hết dân cư, ảnh hưởng lớn đến tình trạng sức khỏe của người dân Sức khỏe cộng đồng chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động của tuyến y tế cơ sở, trong khi tuyến y tế trên chỉ tiếp nhận một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân nặng và thực hiện một phần nhỏ công tác dự phòng.
Trạm y tế xã là đơn vị chuyên môn kỹ thuật trực thuộc trung tâm y tế huyện, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1 Xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện (khi đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt) các nhiệm vụ chuyên môn, kỹ thuật theo phân cấp
Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực y tế xã, phường
Theo Thông tư số 11/TTLT/BYT-BNV của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ, trạm y tế đã được giao cho Phòng y tế huyện quản lý Sau hai năm thực hiện, mô hình này bộc lộ nhiều bất hợp lý và khó khăn trong việc chỉ đạo hoạt động y tế cơ sở Đến năm 2008, Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 03/TTLT/BYT-BNV, chuyển giao trạm y tế về cho Trung tâm y tế huyện quản lý Sự thay đổi liên tục trong mô hình tổ chức và cơ chế quản lý cán bộ y tế cơ sở đã ảnh hưởng tiêu cực đến số lượng, chất lượng và cơ cấu cán bộ Nhiều cán bộ có trình độ chuyên môn cao đã chuyển sang công tác quản lý, trong khi sự bố trí không hợp lý và thiếu đồng bộ dẫn đến tình trạng thiếu hụt và yếu kém về chuyên môn, khiến nhiều cán bộ y tế cơ sở không yên tâm công tác.
Hiện nay, trạm y tế xã vùng thấp đã có đủ cán bộ, trong khi vùng cao vẫn thiếu hụt về số lượng và cơ cấu do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý Việc tuyển dụng cán bộ, đặc biệt là người dân tộc và người địa phương, gặp nhiều khó khăn Ngoài ra, một số chức danh như cán bộ dược, y sỹ, cán bộ dân số và điều dưỡng vẫn còn thiếu.
Sau khi ngành Dân số - Gia đình & Trẻ em giải thể, Thông tư số 05/TT-BYT đã quy định chức năng nhiệm vụ cho Chi cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình tại tỉnh/huyện Tuy nhiên, trạm y tế xã vẫn phải đảm nhận công tác dân số mà chưa được bổ sung chức năng nhiệm vụ, đồng thời cũng chưa có quy định về biên chế cán bộ chuyên trách dân số là viên chức của trạm y tế.
Sự thay đổi của hệ thống dân số đã gây ra nhiều ảnh hưởng, đặc biệt là quá trình giải thể tổ chức cũ và thành lập tổ chức mới diễn ra chậm, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các hoạt động tại cơ sở Mặc dù ngành Y tế đã nỗ lực kiện toàn bộ máy dân số ở các cấp, nhưng tổ chức này vẫn chưa hoàn thiện, thiếu cán bộ và quá tải công việc ở cả cấp tỉnh và huyện Nhiều cán bộ cơ sở chưa được đào tạo nghiệp vụ về dân số - kế hoạch hóa gia đình, chỉ có gần 15% cán bộ cấp xã đạt tiêu chuẩn chuyên môn, dẫn đến tình trạng thiếu về số lượng và yếu về chất lượng Kể từ khi giải thể Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em, công tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng và chính quyền ở cấp xã không được thực hiện thường xuyên, nhưng hiện tại đã dần ổn định và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn do số cán bộ dân số cấp xã chưa đủ tiêu chuẩn theo Thông tư 05 của Bộ Y tế về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy dân số - kế hoạch hóa gia đình ở địa phương.
Theo báo cáo của Sở Y tế Thái Bình, chỉ khoảng 20% cộng tác viên dân số đáp ứng tiêu chuẩn trình độ trung cấp trở lên, trong khi 80% cán bộ còn lại sẽ không được tiếp tục tham gia công tác Điều này đáng lưu ý vì phần lớn những cán bộ này đã có thời gian dài gắn bó với công tác dân số và sở hữu kinh nghiệm cũng như kỹ năng truyền thông tại cộng đồng.
Theo tác giả Trương Việt Dũng, Vụ Khoa học và Đào tạo - Bộ Y tế:
Nhu cầu nhân lực y tế đang gia tăng do nhiều nguyên nhân, bao gồm nguồn đào tạo hạn chế, dân số tăng khoảng 1 triệu người mỗi năm, sự phát triển nhanh chóng của hệ thống y tế tư nhân, và nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao Tình trạng mất cân đối trong phân bổ nhân lực cũng góp phần vào vấn đề này Đặc biệt, các trạm y tế xã vùng cao và khu vực khó khăn thường xuyên thiếu cán bộ do hai lý do chính.
Thiếu nguồn tuyển tại chỗ
Khi cán bộ y tế của trạm được cử đi học, trạm không có kinh phí để tuyển dụng hợp đồng lao động, dẫn đến tình trạng thiếu nhân lực Sau khi hoàn thành khóa học, nhiều bác sĩ có xu hướng chuyển công tác lên bệnh viện tuyến trên hoặc ra ngoài làm việc tại các bệnh viện tư nhân, trong khi đó, những người địa phương được cử đi học thường không quay về làm việc tại trạm.
Ngày 12/6/2008, Bộ Y tế tổ chức hội thảo trực tuyến tại Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh để bàn về đào tạo nguồn nhân lực y tế theo nhu cầu xã hội Kết quả cho thấy nhu cầu tăng cường nguồn nhân lực y tế rất lớn, đặc biệt là sự thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ cán bộ y tế tại tuyến xã/phường, đặc biệt là bác sĩ, trong khi khả năng đáp ứng lại hạn chế Nguyên nhân của tình trạng này bao gồm mức lương không đủ sống, điều kiện làm việc khó khăn, và sự thiếu quan tâm từ chính quyền địa phương Cơ sở vật chất tại các tuyến y tế cơ sở chủ yếu nghèo nàn và lạc hậu, không đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, dẫn đến việc cán bộ y tế chỉ có thể điều trị những trường hợp đơn giản và không nâng cao được chuyên môn Điều này khiến sinh viên y khoa mới tốt nghiệp từ chối công tác ở tuyến dưới, góp phần làm tăng tình trạng quá tải tại các tuyến y tế trung ương lên đến 110%.
Việc bổ sung biên chế làm công tác dân số tại trạm y tế xã sẽ được huyện dần bố trí, nhưng trong thời gian chưa có biên chế, trạm y tế phải tận dụng nguồn lực hiện có để thực hiện nhiệm vụ này Trưởng trạm y tế đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn và hỗ trợ Chủ tịch xã về các vấn đề dân số Tuy nhiên, khối lượng công việc quá lớn mà không có sự tăng lương đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của cán bộ y tế cơ sở.
* Kết quả thực hiện chuẩn quốc gia về y tế xã của tỉnh Tuyên Quang
Tỉnh Tuyên Quang, nằm trong vùng Đông Bắc, hiện có tỷ lệ xã đạt chuẩn trung bình là 75,1% Trong năm 2007, Tuyên Quang và Lạng Sơn từng dẫn đầu về tỷ lệ xã đạt chuẩn, nhưng đến nay, tỉnh đã không còn giữ được vị trí này và số xã duy trì được chuẩn cũng giảm.
Năm 2010, Tuyên Quang giảm 13% so với năm 2007 và gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư nguồn lực cho các xã đạt chuẩn so với Phú Thọ và Quảng Ninh Tỉnh đứng thứ ba về tỷ lệ xã đạt chuẩn ở vùng Đông Bắc, sau Hà Giang, nơi có nhiều thách thức trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) nhưng đã nhận được đầu tư toàn diện từ nhà nước cho cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế Để đạt chuẩn y tế xã giai đoạn 2011-2020, các tỉnh kém phát triển như Tuyên Quang cần có sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương Kinh nghiệm từ Khánh Hòa, Thái Nguyên, Vĩnh Long và Thừa Thiên Huế cho thấy việc kết hợp nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước và tài trợ của tổ chức phi chính phủ đã giúp tăng tỷ lệ xã đạt chuẩn một cách bền vững Chỉ thị số 06 nhấn mạnh việc củng cố mạng lưới y tế cơ sở qua lãnh đạo, cơ sở vật chất và nhân lực Tỉnh Tuyên Quang đã định hướng các nội dung quan trọng như Đề án đào tạo cán bộ y tế giai đoạn 2011-2015 và nâng cao năng lực hoạt động y tế xã giai đoạn 2011-2020, với mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế xã theo chuẩn, đồng thời đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ y tế xã.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
+ Thời gian: Từ tháng 10/2012 đến tháng 10/2013
+ Địa điểm: tại tỉnh Tuyên Quang
* Một vài nét về vị trí địa lý, địa hình, khí hậu vể tỉnh Tuyên Quang
Vị trí địa lý: Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía có toạ độ địa lý
Tuyên Quang nằm ở tọa độ 21030'- 22040' vĩ độ Bắc và 104053'- 105040' kinh độ Đông, cách Thủ đô Hà Nội 165 km Tỉnh có diện tích tự nhiên 5.868 km2, chiếm 1,78% tổng diện tích cả nước, với dân số gần 740.000 người, bao gồm 22 dân tộc sinh sống tại 141 xã, phường, thị trấn thuộc 6 huyện và một thành phố Hệ thống giao thông quan trọng của tỉnh có quốc lộ 2 dài 90 km nối Phú Thọ với Hà Giang và quốc lộ 37 từ Thái Nguyên đi qua huyện Sơn Dương và Yên Sơn đến Yên Bái Tuyên Quang có mạng lưới sông ngòi phong phú với 500 sông suối, trong đó có các sông lớn như Sông Lô, Sông Gâm, và Sông Phó Đáy Địa hình tỉnh chủ yếu là vùng núi cao chiếm trên 50% diện tích, bao gồm huyện Na Hang, Lâm Bình, một số xã vùng cao của huyện Chiêm Hóa và hai xã của huyện Hàm Yên; phần còn lại là vùng núi thấp và trung du Điểm cao nhất là đỉnh núi Chạm Chu (Hàm Yên) với độ cao 1.587 m so với mực nước biển.
Khí hậu nơi đây mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng từ khí hậu lục địa Bắc Á Trung Hoa, với hai mùa rõ rệt: mùa đông lạnh và khô hạn, cùng mùa hè nóng ẩm và mưa nhiều Mưa bão tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, thường gây ra lũ lụt và lũ quét Trong mùa mưa bão, các hiện tượng như mưa đá và gió lốc cũng thường xảy ra Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.500 đến 1.700 mm, trong khi nhiệt độ trung bình hàng năm đạt từ 22°C đến 24°C.
33 0 - 35 0 C, thấp nhất trung bình từ 12 0 - 13 0 C; tháng lạnh nhất là tháng 11 và
12 (âm lịch), hay có sương muối
Tuyên Quang có hệ thống giao thông quan trọng với Quốc lộ 2 dài 90 km nối liền Hà Nội, Phú Thọ và Hà Giang, cùng các tuyến Quốc lộ 37 và 2C kết nối với các tỉnh lân cận Toàn tỉnh có tổng chiều dài 340,6 km đường quốc lộ, 392,6 km đường tỉnh, 579,8 km đường huyện và 141,71 km đường đô thị, với kết cấu mặt đường đa dạng Hiện tại, 100% xã, phường, thị trấn và 96,3% thôn, bản có đường ô tô tới trung tâm Tỉnh đã hoàn thành quy hoạch mạng lưới giao thông đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 Trong tương lai, Tuyên Quang sẽ có hệ thống giao thông hoàn chỉnh bao gồm đường bộ, đường thuỷ và đường sắt, với các tuyến huyết mạch như đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 279, cao tốc Hải Phòng - Côn Minh và đường sắt Thái Nguyên - Tuyên Quang - Yên Bái Hệ thống giao thông này sẽ cải thiện đáng kể địa kinh tế của tỉnh, thu hút đầu tư và thúc đẩy giao thương phát triển.
Mạng lưới y tế đang được củng cố và phát triển mạnh mẽ, đảm bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân Tất cả các xã đều có trạm y tế, cùng với hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, huyện và các phòng khám đa khoa khu vực được trang bị hiện đại, phục vụ tốt nhất cho công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang kết hợp định tính và định lượng
Nghiên cứu định lượng được thực hiện nhằm thu thập dữ liệu từ hệ thống sổ sách, báo cáo thống kê và phiếu điều tra về nguồn nhân lực y tế tại các xã, phường thuộc sở y tế, trung tâm y tế huyện, thành phố và các trạm y tế Mục tiêu là đánh giá thực trạng nguồn nhân lực y tế của 141 xã, phường, thị trấn trong tỉnh Tuyên Quang.
- Phỏng vấn sâu đại diện lãnh đạo Sở Y tế, Phòng Tổ chức Cán bộ, và Phòng Nghiệp vụ Y Sở Y tế
Trong một nghiên cứu gần đây, chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn sâu với đại diện lãnh đạo của 7 trung tâm y tế huyện và thành phố nhằm đánh giá thực trạng nguồn nhân lực y tế tại tuyến xã, phường, thị trấn trong tỉnh Qua 7 cuộc phỏng vấn, chúng tôi đã thu thập được những thông tin quan trọng về các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực y tế, từ đó giúp nhận diện những thách thức và cơ hội trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ y tế tại địa phương.
Tại tỉnh Tuyên Quang, đã diễn ra ba cuộc thảo luận nhóm với cán bộ y tế ở các xã, phường và thị trấn nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực y tế tại địa phương Qua các cuộc thảo luận, nhiều giải pháp đã được đề xuất để nâng cao chất lượng và hiệu quả của nguồn nhân lực y tế tuyến xã, phường, thị trấn, góp phần cải thiện dịch vụ y tế cho cộng đồng.
Thảo luận nhóm đã được tổ chức với người dân đã khám và chữa bệnh tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn trong tỉnh nhằm đánh giá thực trạng nguồn nhân lực y tế Qua ba cuộc thảo luận, các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực y tế tuyến xã, phường, thị trấn đã được phân tích, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội cải thiện chất lượng dịch vụ y tế tại địa phương.
Tính đến ngày 30/06/2013, tỉnh Tuyên Quang có tổng cộng 780 cán bộ y tế làm việc tại các xã, phường, thị trấn Nghiên cứu này sẽ tiến hành điều tra toàn bộ cán bộ y tế hiện đang công tác tại các trạm y tế trong tỉnh.
Chọn tất cả 141 Trưởng trạm y tế xã, phường, thị trấn trong tỉnh Tuyên Quang để phỏng vấn theo phiếu điều tra
Nghiên cứu định tính được thực hiện tại ba trạm y tế đại diện cho các khu vực khác nhau: Thành phố Tuyên Quang (thành thị), huyện Na Hang (vùng thấp) và huyện Yên Sơn (vùng cao) Tại mỗi trạm y tế, sẽ tổ chức thảo luận nhóm với sự tham gia của cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ chuyên môn, nhân viên trong hệ điều trị và dự phòng, cùng với đại diện từ các lĩnh vực y, dược và điều dưỡng.
Chọn 10 người dân đã khám và điều trị tại trạm y tế trong vòng 10 ngày trước đó, đại diện cho thành phố Tuyên Quang, huyện Na Hang và huyện Yên Sơn, để thảo luận nhóm về khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của cán bộ trạm y tế.
Chủ đích là chọn 3 cán bộ, bao gồm 01 đại diện lãnh đạo Sở Y tế, 01 đại diện Phòng Tổ chức Cán bộ và 01 đại diện Phòng Nghiệp vụ Y thuộc Sở Y tế, cùng với đại diện lãnh đạo từ 7 trung tâm Y tế huyện và thành phố.
2.3.3 Kỹ thuật thu thập số liệu
Hồi cứu thông tin từ sổ sách và báo cáo về nhân lực y tế tại các xã, phường, thị trấn tỉnh Tuyên Quang, cùng với các văn bản của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương liên quan đến lĩnh vực này Dữ liệu được thu thập một cách hệ thống qua phiếu in sẵn.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các trưởng trạm y tế xã dựa trên bộ câu hỏi thiết kế sẵn nhằm thu thập thông tin về thực trạng tổ chức, nhân lực và chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ y tế đang làm việc tại Trạm Y tế.
Phỏng vấn sâu các cán bộ lãnh đạo của Sở Y tế, Phòng Nghiệp vụ Y và Phòng Tổ chức Cán bộ nhằm thu thập thông tin về tình hình tổ chức, nhân lực và chế độ chính sách đối với cán bộ y tế tại cấp xã, phường, thị trấn Nghiên cứu này cũng xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực ở các tuyến y tế cơ sở, từ đó đưa ra những giải pháp cải thiện hiệu quả công tác y tế cộng đồng.
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với lãnh đạo Trung tâm Y tế huyện, thành phố nhằm thu thập thông tin chi tiết về thực trạng tổ chức, nhân lực, chế độ chính sách và cơ chế quản lý đối với cán bộ trạm Y tế tại các xã, phường, thị trấn.
- Thảo luận nhóm đối các cán bộ y tế xã, phường đại diện cho 3 khu vực vùng thấp, vùng cao và thành thị
Thảo luận nhóm với người dân đã được khám, chữa bệnh tại các trạm y tế xã, phường, thị trấn ở Tuyên Quang nhằm tìm hiểu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực y tế tuyến xã Việc này giúp xác định những thách thức và cơ hội trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại địa phương.
2.3.4 Công cụ thu thập thông tin, số liệu
- Phiếu điều tra trưởng trạm y tế xã, phường
- Hướng dẫn thảo luận nhóm cán bộ trạm y tế xã, người dân sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế xã, phường
- Phiếu thu thập thông tin thứ cấp theo các nội dung nghiên cứu
- Hướng dẫn phỏng vấn sâu đối với lãnh đạo sở y tế, các phòng chức năng và lãnh đạo trung tâm y tế các huyện, thành phố
- Thiết bị ghi âm, bút, giấy ghi chép
* Thực trạng nguồn nhân lực y tế tuyến y tế xã, phường thị trấn:
Theo thông tư liên tịch 08/2007/TTLT/BYT-BNV ngày 05/06/2007 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ, việc xác định biên chế cho các cơ sở y tế nhà nước được hướng dẫn cụ thể Điều này nhằm đảm bảo sự phát triển nhân lực y tế theo quy hoạch từ năm 2010 đến 2020, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế trong hệ thống công lập.
- Phân bố cán bộ TYT theo tuổi, giới
Phân bổ cán bộ y tế theo trình độ chuyên môn được quy định trong thông tư liên tịch 08/2007/TTLT/BYT-BNV ngày 05/06/2007 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ Thông tư này hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp tại các cơ sở y tế nhà nước, đồng thời phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn 2010 - 2020 của Bộ Y tế.
- Phân bố cán bộ TYT theo trình độ học vấn
- Số cán bộ trung bình/trạm
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu đã được thông qua hội đồng bảo vệ đề cương của Trường Đại học Y Dược Thái nguyên và sự đồng ý của Sở Y tế Tuyên
Nghiên cứu tại Quang và các Trung tâm Y tế huyện, thành phố nhằm đánh giá thực trạng nhân lực tại trạm Y tế xã, phường, thị trấn tỉnh Tuyên Quang, phù hợp với Thông tư 08 và quy hoạch nhân lực Y tế toàn quốc Mục tiêu là nâng cao chất lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người dân địa phương Qua nghiên cứu, tác giả sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất giải pháp cải thiện nguồn nhân lực tại các trạm Y tế xã, phường, thị trấn, đồng thời đảm bảo tuân thủ các quy định về đạo đức trong nghiên cứu khoa học.
Hạn chế của đề tài
Nghiên cứu này gặp hạn chế về thời gian và nguồn kinh phí, do đó chúng tôi chưa thể tiến hành điều tra chi tiết về thực trạng đào tạo lại và đào tạo liên tục cho đội ngũ y tế xã phường, cũng như việc xác định nhu cầu của họ.
Nghiên cứu định tính về các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực y tế hiện vẫn còn hạn chế Chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu trong thời gian tới để làm rõ hơn nội dung này.
Kết quả đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ y tế xã phường hiện chưa được đo lường và phân tích một cách cụ thể Điều này chủ yếu do địa bàn nghiên cứu rộng lớn trên toàn tỉnh và số lượng cán bộ y tế xã phường đông, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện đánh giá cho 141 tạm y tế xã phường.