1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình

132 20 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Truyền Thuyết Nguyễn Minh Không Và Lễ Hội Đền Thánh Nguyễn Ở Ninh Bình
Tác giả Đinh Thị Tuyết Lan
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Huế
Trường học Đại học Thái Nguyên
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Thái Nguyên
Định dạng
Số trang 132
Dung lượng 3,57 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (5)
    • 1. Lý do chọn đề tài (0)
    • 2. Lịch sử vấn đề (5)
      • 2.1. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội (5)
      • 2.2. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết Nguyễn Minh Không (9)
    • 3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu (10)
      • 3.1. Đối tượng nghiên cứu (10)
      • 3.2. Mục đích nghiên cứu (10)
    • 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu (0)
      • 4.1. Nhiệm vụ (10)
      • 4.2. Phương pháp nghiên cứu (0)
    • 5. Phạm vi nghiên cứu (0)
    • 6. Đóng góp của luận văn (11)
    • 7. Cấu trúc luận văn (11)
  • B. PHẦN NỘI DUNG (12)
  • CHƯƠNG 1 (12)
    • 1.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa ở Ninh Bình (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm lịch sử (12)
      • 1.1.3. Văn hóa truyền thống ở Ninh Bình (13)
      • 1.1.4. Văn học (16)
    • 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Minh Không (20)
      • 1.2.1. Bối cảnh thời đại Nguyễn Minh Không sinh sống (20)
      • 1.2.2. Đôi nét về quê hương Gia Viễn - nơi sinh Nguyễn Minh Không (23)
      • 1.2.3. Thân thế nhân vật (24)
  • CHƯƠNG 2 (29)
    • 2.1. Khảo sát truyền thuyết về Nguyễn Minh Không (29)
      • 2.1.1. Thống kê số lượng các truyền thuyết (29)
      • 2.1.2. Đặc điểm của hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình (31)
    • 2.2. Hình tượng Nguyễn Minh Không trong truyền thuyết (33)
      • 2.2.1. Nguyễn Minh Không là con người đời thường (34)
      • 2.2.2. Nguyễn Minh Không in dấu địa danh với quê hương Ninh Bình (38)
      • 2.2.3. Nguyễn Minh Không trên cương vị một người thần y (40)
      • 2.2.4. Nguyễn Minh Không - ông tổ nghề đúc đồng (44)
      • 2.2.5. Nguyễn Minh Không trên cương vị thiền sư (46)
      • 2.2.6. Nguyễn Minh Không là nhân vật khổng lồ (50)
      • 2.2.7. Nguyễn Minh Không trên cương vị thần linh (52)
    • 2.3. Kết cấu (55)
      • 2.3.1. Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ (55)
      • 2.3.2. Kết cấu xâu chuỗi (58)
    • 2.4. Mô típ (61)
      • 2.4.1. Mô típ sinh nở thần kì (61)
      • 2.4.2. Mô típ tướng lạ, tài lạ (63)
      • 2.4.3. Mô típ chiến công phi thường (64)
      • 2.4.4. Mô típ hóa thân (65)
  • CHƯƠNG 3 (68)
    • 3.1. Lễ hội đền Thánh Nguyễn (68)
      • 3.1.1. Lịch sử lễ hội đền Thánh Nguyễn (68)
      • 3.1.2. Thời gian và không gian lễ hội (69)
      • 3.1.3. Tổ chức lễ hội (71)
      • 3.1.4. Nội dung phần lễ (74)
      • 3.1.5. Nội dung phần hội (81)
    • 3.2. Ý nghĩa lễ hội đền Thánh Nguyễn (0)
    • 3.3. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội đền Thánh Nguyễn (84)
    • 3.4. Lễ hội đền Thánh Nguyễn, tín ngưỡng, phong tục tập quán ở Ninh Bình (86)
      • 3.4.1. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với tín ngưỡng (86)
      • 3.4.2. Lễ hội đền Thánh Nguyễn gắn với phong tục tập quán (89)
    • C. KẾT LUẬN (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (95)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Lịch sử vấn đề

2.1 Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội

Theo quan điểm của Mác, thần thoại là sản phẩm của thời kỳ ấu thơ của nhân loại, phản ánh nhận thức nguyên thủy về vũ trụ và cuộc sống xã hội Thần thoại đóng vai trò tích cực trong đời sống tinh thần, trong khi truyền thuyết, một thể loại văn học dân gian, xuất hiện sau khi con người bước vào chế độ văn minh đầu tiên, đánh dấu bằng những biến đổi xã hội sâu sắc Ở Việt Nam, truyền thuyết được xác định muộn hơn so với các thể loại khác, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ sơ sử với sự hình thành nhà nước Văn Lang Truyền thuyết thường sử dụng yếu tố tưởng tượng kỳ ảo, liên quan đến lịch sử và giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về truyền thuyết với nhiều định nghĩa và hướng tiếp cận khác nhau.

Khái niệm truyền thuyết hiện nay đã trải qua nhiều tranh luận và nghiên cứu từ các học giả để định hình rõ ràng hơn Nhiều công trình nghiên cứu về truyền thuyết Việt Nam cho thấy sự đa dạng và phong phú của thể loại này, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết Một số tác giả như Nguyễn Đổng Chi và Đinh Gia Khánh phủ nhận truyền thuyết là thể loại văn học dân gian độc lập, trong khi đó, Đỗ Bình Trị, Kiều Thu Hoạch và nhiều nhà nghiên cứu khác lại cho rằng truyền thuyết là một thể loại tự sự dân gian.

Bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trường Đại học sư phạm Hà Nội (Đỗ Bình Trị chủ biên, năm 1961) đã xác định truyền thuyết là một thể loại văn học đặc biệt Theo đó, truyền thuyết được mô tả là những câu chuyện cổ liên quan đến lịch sử, nhưng mang yếu tố kỳ diệu, được xem là lịch sử hoang đường Đây là những câu chuyện tưởng tượng có sự gắn bó nhất định với thực tế lịch sử.

Trong cuốn Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian

Theo Kiều Thu Hoạch trong tác phẩm "Việt Nam" (NXB KHXH, 1970), truyền thuyết được xác định là một thể loại văn học dân gian, cụ thể là một hình thức kể chuyện truyền miệng thuộc loại hình tự sự dân gian Nội dung của truyền thuyết thường xoay quanh các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc của các phong vật theo quan niệm của nhân dân Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của thể loại này là sự khoa trương phóng đại, cùng với việc sử dụng các yếu tố hư ảo và thần kỳ, tương tự như cổ tích và thần thoại.

Vào đầu những năm 80, trong cuốn Từ điển văn học (NXB Thế giới,

Truyền thuyết, theo định nghĩa của Chu Xuân Diên trong tác phẩm năm 1984, là một thể loại tự sự dân gian có mối quan hệ gần gũi với các thể loại tự sự khác như thần thoại và truyện cổ tích.

Các cuốn giáo trình về Văn học dân gian Việt Nam, bao gồm tập II của Hoàng Tiến Tựu (NXB Giáo dục, 1990), Văn học dân gian Việt Nam do Lê Chí Quế chủ biên (NXB ĐHQG, 1990) và Văn học dân gian do Phạm Thu Yến chủ biên (NXB ĐHSP), cung cấp kiến thức sâu sắc về di sản văn hóa phong phú của dân tộc Những tài liệu này không chỉ giúp sinh viên hiểu rõ hơn về văn học dân gian mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam.

2002… đều dành một chương cho việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là một thể loại độc lập

Truyền thuyết được định nghĩa trong cuốn Từ điển tiếng Việt là những câu chuyện dân gian truyền miệng, xoay quanh các nhân vật và sự kiện lịch sử, thường chứa đựng nhiều yếu tố kỳ diệu.

Truyền thuyết là một thể loại dân gian, có chức năng chính là phản ánh và giải thích các nhân vật cùng sự kiện lịch sử quan trọng, ảnh hưởng đến một thời kỳ, bộ tộc, địa phương hoặc quốc gia.

Sách giáo khoa Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1, định nghĩa truyền thuyết là thể loại tự sự bằng văn xuôi, thường kể lại các sự kiện và nhân vật liên quan đến lịch sử địa phương, dân tộc Truyền thuyết thường sử dụng yếu tố tưởng tượng để lý tưởng hóa các sự kiện và nhân vật, từ đó thể hiện ý thức lịch sử của nhân dân.

Dựa trên việc tìm hiểu các định nghĩa về truyền thuyết, có thể nhận thấy rằng các tác giả đều đồng thuận coi truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian độc lập Họ cũng thống nhất rằng truyền thuyết có đặc điểm gắn liền với các sự kiện và nhân vật lịch sử.

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc trưng của nhiều tộc người trên thế giới và tại Việt Nam, phản ánh đời sống văn hóa của mỗi dân tộc qua lịch sử Đây là nơi lưu giữ tín ngưỡng, tôn giáo và các hoạt động văn nghệ dân gian, thể hiện tâm thức người Việt một cách chân thực Lễ hội gắn liền với sự phát triển của các tộc người và làng xã, phản ánh giá trị kinh tế - xã hội và văn hóa của cộng đồng Một trong những giá trị nổi bật của lễ hội là sự kết nối cộng đồng thông qua tôn giáo và tín ngưỡng.

Lễ hội truyền thống đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội hiện đại, như được nhấn mạnh bởi tác giả Nguyễn Duy Quý, khi cho rằng lễ hội là sự kết hợp giữa các yếu tố tinh thần và vật chất, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật, tạo nên một hoạt động quy mô lớn thu hút nhiều người tham gia Tác giả Trần Ngọc Thêm và các cộng sự cũng khẳng định rằng lễ hội không chỉ là sự giao thoa giữa cái linh thiêng và cái trần thế, mà còn thể hiện lòng biết ơn và nguyện vọng của con người đối với tổ tiên và các thế lực siêu nhiên Lễ hội có tính chất mở, thu hút mọi người, và có mục đích duy trì sự bình đẳng giữa các thành viên trong cộng đồng.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, lễ hội được định nghĩa là hệ thống các hành vi và động tác thể hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, đồng thời phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà họ chưa thể thực hiện.

Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Vietlex (Nxb Đà Nẵng

Theo Trung tâm Từ điển (2008, tr.694), các tác giả Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu và Đặng Thanh Hòa định nghĩa lễ hội là “Cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống.” Lễ hội không chỉ là dịp để cộng đồng gắn kết mà còn thể hiện các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc.

Các tác giả đều có quan niệm tương đồng về khái niệm lễ hội, cho rằng lễ hội bao gồm hai phần đan quyện: phần lễ và phần hội Phần lễ đại diện cho tín ngưỡng và thế giới tâm linh sâu sắc của con người, trong khi phần hội thể hiện sự vui chơi, giải trí và đời sống văn hóa thường nhật của cộng đồng Các trò diễn, trò chơi và cuộc thi tài trong phần hội không chỉ làm phong phú thêm nội dung lễ hội mà còn làm rõ chủ đề của nó.

Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, kế thừa các thành tựu trước đó, đặc biệt tập trung vào những truyền thuyết lưu truyền tại Ninh Bình và lễ hội đền Thánh Nguyễn Mục tiêu là làm rõ mối quan hệ giữa truyện kể dân gian với tín ngưỡng và lễ hội địa phương.

3 Đối tượng và mục đích nghiên cứu

Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu các truyền thuyết liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của Nguyễn Minh Không, với nguồn tư liệu chủ yếu từ Ninh Bình.

Khảo sát và nghiên cứu các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không tại Ninh Bình, đồng thời so sánh với những truyền thuyết tương tự ở Thái Bình và Nam Định Bên cạnh đó, cần tham khảo và đối chiếu với các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không từ những địa phương khác mà không có ở Ninh Bình.

Khảo sát, giới thiệu lễ hội đền Thánh Nguyễn Xem xét mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Nghiên cứu về truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn giúp khám phá mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử này với truyền thuyết và tín ngưỡng Điều này cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của Nguyễn Minh Không trong đời sống văn hóa và tâm linh của cộng đồng dân cư Ninh Bình.

4 Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

Hệ thống các truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình và lễ hội về Nguyễn Minh Không tại đền Thánh Nguyễn

Xem xét mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Nhân vật Nguyễn Minh Không có ảnh hưởng sâu rộng trong tín ngưỡng dân gian và đời sống văn hóa tâm linh của người dân Ninh Bình cũng như Việt Nam Ông được tôn vinh như một biểu tượng của sự trí thức và đức độ, góp phần định hình các giá trị văn hóa và tín ngưỡng truyền thống Sự hiện diện của Nguyễn Minh Không không chỉ thể hiện trong các lễ hội, mà còn trong tâm thức của người dân, tạo nên sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại Điều này cho thấy tầm quan trọng của ông trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong nghiên cứu về truyền thuyết Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn tại Ninh Bình, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu đa dạng để thu thập và phân tích thông tin.

Phương pháp thống kê: Khảo sát, tập hợp và thống kê các tư liệu liên quan đến truyền thuyết về Nguyễn Minh Không

Phương pháp điền dã: Tiến hành điền dã trên địa bàn huyện Gia Viễn,

Yên Mô, thuộc thị xã Tam Điệp, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, là điểm đến lý tưởng để khám phá các di tích lịch sử liên quan đến Nguyễn Minh Không Tại đây, du khách có cơ hội gặp gỡ và trao đổi với các cán bộ văn hóa, quản lý di tích, nhà nghiên cứu và người dân địa phương, những người đã dành nhiều năm tìm hiểu và thu thập tư liệu về nhân vật lịch sử quan trọng này.

Phương pháp liên ngành được áp dụng trong nghiên cứu văn học dân gian và truyền thuyết, nhấn mạnh tính nguyên hợp và hoạt động thực hành của chúng Để giải thích các vấn đề liên quan, chúng tôi đã kết hợp tri thức từ nhiều lĩnh vực như lịch sử, dân tộc, tôn giáo và tín ngưỡng.

Phương pháp phân tích tổng hợp là một cách tiếp cận chi tiết và cụ thể đối với đối tượng nghiên cứu, giúp đạt được sự đánh giá toàn diện và khái quát về vấn đề đang được xem xét.

Phạm vi địa lý: Các địa phương của Ninh Bình có lưu truyền truyền thuyết về Nguyễn Minh Không và lễ hội đền Thánh Nguyễn ở Ninh Bình

Những truyền thuyết về Nguyễn Minh Không và lễ hội Thánh Nguyễn đã được sưu tập, giới thiệu trong các cuốn Truyện cổ dân gian Ninh Bình (1995)

Bái Đính ngàn năm tâm linh và huyền thoại (2009) do tác giả Trương Đình

Tưởng sưu tầm, biên soạn Cuốn Dư địa chí Ninh Bình Địa chí Ninh Bình

(UBND, Tỉnh ủy Ninh Bình, 2010),

Một số truyền thuyết liên quan do tác giả luận văn thu thập, bổ sung được trong quá trình điền dã tại Ninh Bình

6 Đóng góp của luận văn

Hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không tại Ninh Bình là một di sản văn hóa độc đáo, nhưng chưa được nhiều người chú ý Bài viết này sẽ nghiên cứu sâu nội dung và nghệ thuật của các truyền thuyết liên quan đến Nguyễn Minh Không, đồng thời chỉ ra giá trị và ý nghĩa sâu sắc của chúng trong đời sống văn hóa và tâm linh của người dân nơi đây.

Lễ hội đền Thánh Nguyễn tại Ninh Bình gắn liền với truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, thể hiện sức sống mãnh liệt và tầm ảnh hưởng sâu rộng của ông trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây Qua các hoạt động của lễ hội, người dân Ninh Bình không chỉ tưởng nhớ đến vị thánh mà còn khẳng định giá trị văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung, cơ sở nghiên cứu đề tài

Chương 2: Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Chương 3: Mối quan hệ giữa truyền thuyết Nguyễn Minh Không với lễ hội đền Thánh Nguyễn.

Đóng góp của luận văn

Hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Minh Không tại Ninh Bình là một kho tàng văn hóa phong phú nhưng chưa được nhiều người chú ý Bài viết này sẽ giới thiệu một cách tương đối đầy đủ về các truyền thuyết liên quan đến Nguyễn Minh Không, đồng thời nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của chúng Qua đó, chúng ta sẽ chỉ ra giá trị và ý nghĩa sâu sắc của hệ thống truyền thuyết này trong đời sống văn hóa và tâm linh của người dân Ninh Bình.

Lễ hội đền Thánh Nguyễn tại Ninh Bình gắn liền với truyền thuyết về Nguyễn Minh Không, thể hiện sức sống và tầm ảnh hưởng lớn lao của ông trong văn hóa tâm linh của người dân nơi đây Qua những câu chuyện và tín ngưỡng, lễ hội không chỉ tôn vinh di sản văn hóa mà còn phản ánh đời sống tâm linh của cộng đồng Ninh Bình từ xưa đến nay.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung, cơ sở nghiên cứu đề tài

Chương 2: Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ở Ninh Bình

Chương 3: Mối quan hệ giữa truyền thuyết Nguyễn Minh Không với lễ hội đền Thánh Nguyễn.

PHẦN NỘI DUNG

1.1 Điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa ở Ninh Bình

Điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người, đồng thời là nền tảng cho sự hình thành và phát triển các giá trị văn hóa, văn học Ninh Bình, nằm ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ với tọa độ 19º50’ đến 20º27’ độ Vĩ Bắc và 105º32’ đến 106º27’ độ Kinh Đông, được bao quanh bởi dãy núi Tam Điệp ở phía Tây Bắc - Đông Nam, tạo thành ranh giới tự nhiên với tỉnh Thanh Hoá Vùng đất này được sông Đáy bao bọc ở phía Đông và Đông Bắc, giáp với Hà Nam và Nam Định, trong khi phía Bắc tiếp giáp với Hòa Bình và phía Nam là biển Đông Với vị trí chiến lược, Ninh Bình là cầu nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, cũng như giữa đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi Tây Bắc Đây là điểm nút giao thông quan trọng, kết nối miền Bắc với miền Trung và miền Nam, mang lại nhiều lợi thế cho sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội nhờ hệ thống giao thông đa dạng bao gồm đường bộ, đường sắt và đường thủy.

Ninh Bình, nằm ở vị trí điểm mút của tam giác châu thổ sông Hồng, có địa hình chia thành ba vùng rõ nét: đồng bằng, đồi núi bán sơn địa và ven biển Mỗi vùng đều có tiềm năng và thế mạnh riêng, nhưng có thể hỗ trợ lẫn nhau để phát triển kinh tế hàng hóa Ngoài tiềm năng về công, nông, lâm nghiệp, Ninh Bình còn nổi bật với đa dạng loại hình du lịch, sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng như Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà và Quần thể di sản thiên nhiên thế giới Tràng An.

Ninh Bình, với vị trí địa lý đặc biệt và thiên nhiên đa dạng phong phú, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải các ảnh hưởng văn hóa từ lưu vực sông Mã sang phía bắc, từ lưu vực sông Hồng xuống phía nam, cũng như từ vùng núi ra vùng biển.

Ninh Bình, theo các công trình khảo cổ và sử sách, là vùng đất cổ, nơi cư trú của người Việt cổ Qua hàng nghìn năm phát triển, Ninh Bình đã trải qua nhiều thăng trầm và được đổi tên gọi nhiều lần, phản ánh sự thay đổi trong các thời đại khác nhau.

“Ninh Bình xưa cùng với Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn

Lang Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên

Vào năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng đã kết thúc cuộc loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và lên ngôi hoàng đế với danh hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế Ông chọn Hoa Lư làm kinh đô của triều đại.

Điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa ở Ninh Bình

Điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người, đồng thời là nền tảng cho sự hình thành và phát triển các giá trị văn hóa, văn học Ninh Bình, tỉnh nằm ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ với tọa độ 19º50’ đến 20º27’ độ Vĩ Bắc và 105º32’ đến 106º27’ độ Kinh Đông, được bao quanh bởi dãy núi Tam Điệp và sông Đáy Vị trí chiến lược của Ninh Bình giúp kết nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, cũng như giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi rừng Tây Bắc Đây là điểm nút giao thông quan trọng từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam, với nhiều lợi thế phát triển kinh tế, chính trị và xã hội nhờ vào hệ thống giao thông đa dạng bao gồm đường bộ, đường sắt và đường thủy.

Ninh Bình, nằm ở điểm mút của tam giác châu thổ sông Hồng, có địa hình chia thành ba vùng rõ rệt: đồng bằng, đồi núi bán sơn địa và ven biển Mỗi vùng đều có tiềm năng và thế mạnh riêng, đồng thời hỗ trợ lẫn nhau để phát triển nền kinh tế hàng hóa Ngoài tiềm năng về công, nông, lâm nghiệp, Ninh Bình còn nổi bật với sự đa dạng trong các loại hình du lịch, với nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng như Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà, và Quần thể di sản thiên nhiên thế giới Tràng An.

Ninh Bình, với vị trí địa lý đặc biệt và thiên nhiên phong phú, là điểm giao thoa văn hóa quan trọng, tiếp nhận ảnh hưởng từ lưu vực sông Mã ở phía bắc, lưu vực sông Hồng ở phía nam, và kết nối giữa vùng núi và vùng biển.

Ninh Bình, một vùng đất cổ, đã được xác nhận qua các công trình khảo cổ học và sử sách là nơi cư trú của người Việt cổ Trải qua hàng nghìn năm phát triển, Ninh Bình đã trải qua nhiều thăng trầm và được đổi tên nhiều lần, phản ánh sự thay đổi của các thời đại và cải cách lịch sử.

“Ninh Bình xưa cùng với Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn

Lang Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên

Vào năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng đã dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và lên ngôi hoàng đế với danh hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế Ông chọn Hoa Lư làm kinh đô và đổi tên Trường Châu thành Trường An.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ninh Bình thuộc quân khu 3, bao gồm một thị xã, 6 huyện và hai thị trấn Địa giới cùng các đơn vị hành chính này được duy trì cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng và đất nước thống nhất.

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tại kỳ họp thứ hai quốc hội khóa V nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đã ra Nghị quyết Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng 8 năm 1991”(Trích Bách khoa toàn thư mở)

1.1.3 Văn hóa truyền thống ở Ninh Bình

Ninh Bình là một tỉnh nhỏ nhưng giàu lịch sử và văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân gian Nơi đây là điểm giao thoa của ba nền văn hóa lớn: sông Hồng, sông Mã và Hòa Bình Do đó, văn hóa truyền thống của Ninh Bình không chỉ mang đậm nét bản địa mà còn thể hiện sự đa dạng và phong phú nhờ sự giao thoa của nhiều nền văn minh khác nhau.

Hoa Lư, kinh đô của Đại Việt thế kỷ X, là nơi ghi dấu sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều Đinh, Lê, Lý, với các sự kiện lịch sử quan trọng như thống nhất giang sơn, đánh Tống, dẹp Chiêm và quá trình định đô Hà Nội Vị trí chiến lược của Hoa Lư đã chứng kiến nhiều sự kiện oai hùng của dân tộc, với dấu tích lịch sử còn lại trong các đình, chùa, đền, miếu, cùng những ngọn núi và con sông Đây cũng là vùng đất chiến lược bảo vệ kinh thành Thăng Long của triều đại Tây Sơn qua phòng tuyến Tam Điệp, và là căn cứ để nhà Trần hai lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông tại hành cung Vũ Lâm, cũng như nơi khởi nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô.

Ninh Bình, với lịch sử phát triển lâu dài, đã xây dựng và gìn giữ một nền văn hóa đặc sắc, phản ánh rõ nét bản sắc dân tộc và dấu ấn địa phương Đời sống văn hóa của người dân nơi đây, bao gồm cả người Kinh và người Mường, vô cùng phong phú và đa dạng, thể hiện qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống hàng ngày Với dân số gần 920.000 người, trong đó có hơn 200.000 người Mường, tín ngưỡng dân gian đã ăn sâu vào tư tưởng và nếp sống của người dân Ninh Bình, tạo nên một bản sắc văn hóa độc đáo và bền vững.

“Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn Nước có nguồn bể rộng sông sâu”

Thờ tổ tiên là biểu hiện của lòng thành kính và biết ơn, đồng thời thể hiện niềm tin vào sự che chở và bảo hộ của tổ tiên Hoạt động này được thực hiện qua các nghi lễ, tuân theo quan niệm và phong tục của từng cộng đồng, dân tộc Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, người dân Ninh Bình còn thờ các thần tự nhiên như thần Núi, thần Biển, thần Sông và thần Cây.

Phật Mọi địa phương trong tỉnh đều có những ngôi chùa thờ Phật

Thờ vua là một phần quan trọng trong tín ngưỡng dân gian Ninh Bình, thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên và trách nhiệm duy trì di sản văn hóa Người dân Ninh Bình đã lập đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành trên nền đất kinh đô Hoa Lư, cùng với việc thờ các vua khác như Phùng Hưng, Lý Thái Tông, và Trần Thái Tông Tín ngưỡng này phản ánh quan niệm “cây có gốc”, “nước có nguồn”, và “chim tìm tổ”, khắc ghi đạo lý “uống nước nhớ nguồn” trong tâm thức cộng đồng.

Người tìm tông không chỉ thể hiện qua các hành vi sống như giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước, mà còn được thể hiện qua các hành vi cúng tế cụ thể.

Người Ninh Bình rất coi trọng tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Thánh, với nhiều đền thờ nổi bật như đền thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Tam Điệp, đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Nho Quan, và đền thờ đức Thánh Nguyễn ở Gia Viễn Ngoài ra, hầu hết các làng, xã đều có đền, đình, đóng vai trò là trung tâm văn hóa thờ Thành Hoàng làng và tổ chức các nghi lễ văn hóa hàng năm.

Ninh Bình là một địa phương giàu truyền thống văn hóa với nhiều lễ hội dân gian, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Hiện tại, Ninh Bình tổ chức 74 lễ hội truyền thống và 145 hội làng, đặc trưng cho văn hóa vùng châu thổ sông Hồng, chủ yếu diễn ra vào mùa xuân Trong số đó, lễ hội làng Yên Vệ diễn ra vào ngày 4/1 âm lịch tại đền Thượng thờ Nguyễn Minh Không và chùa Phúc Long Lễ hội chùa Bái Đính ở Gia Viễn bắt đầu vào ngày 6/1 âm lịch Lễ hội Hoa Lư, trước đây gọi là lễ hội Trường Yên, là lễ hội quan trọng nhất trong tín ngưỡng của người dân Ninh Bình.

“Dù ai buôn bán đâu đâu Tháng hai mở hội rủ nhau mà về

Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Minh Không

1.2.1 Bối cảnh thời đại Nguyễn Minh Không sinh sống

1.2.1.1 Sơ lược về thời Lý

Vào thế kỷ X, sau khi dẹp yên mười hai sứ quân, Ðinh Tiên Hoàng đã xây dựng đô thành mới ở Hoa Lư, một quyết định đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh lịch sử Trong 42 năm (968 - 1009), kinh đô Hoa Lư đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, tạo điều kiện cho triều Ðinh và Tiền Lê củng cố chính quyền trung ương, bảo vệ độc lập dân tộc, đánh bại quân Tống trong cuộc xâm lược lần thứ nhất và giữ vững thống nhất quốc gia Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, trước yêu cầu xây dựng đất nước trên quy mô lớn, phát triển kinh tế và mở mang văn hóa.

Vào năm 1010, Lý Thái Tổ đã quyết định chuyển đô từ Hoa Lư về thành Đại La, vì Lư không còn phù hợp với yêu cầu lịch sử Từ đó, Thăng Long, hay còn gọi là "rồng bay", chính thức trở thành kinh đô của nước Đại Việt.

Nhà nước Đại Việt thời Lý rất chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng với quân đội bao gồm quân bộ và quân thuỷ, được huấn luyện quy củ và chặt chẽ Tất cả trai tráng đến tuổi 18 (gọi là hoàng nam) đều phải đăng lính Chính sách "ngụ binh ư nông" của triều Lý có ý nghĩa tích cực trong việc dựng nước và giữ nước, góp phần quan trọng vào các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, đồng thời xây dựng đất nước thái bình.

Nhà Lý quản lý đất nước bằng hệ thống luật pháp nhằm bảo vệ quyền lợi dòng tộc và ngăn chặn sự bành trướng của các thế lực ngoại tộc Triều đình cũng chú trọng đến đời sống của nhân dân, thể hiện tinh thần nhân ái trong việc thực thi pháp luật.

Trong hoạt động đối ngoại, triều đình Lý thực hiện chính sách linh hoạt và giao hảo với các nước lân bang, nhưng kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Nếu nguyên tắc này bị vi phạm, nhà Lý sẽ chống trả mạnh mẽ các thế lực ngoại xâm để duy trì độc lập và bảo vệ lãnh thổ.

Văn hóa Đại Việt thời Lý phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự tiếp biến và tích hợp các yếu tố văn hóa Dưới sự lãnh đạo của triều Lý, nền văn hóa Việt cổ được củng cố và mở rộng thông qua việc tiếp thu có chọn lọc từ văn hóa Đông Á Trung Hoa, văn hóa Chămpa và ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ Mặc dù có sự du nhập của các yếu tố văn hóa ngoại sinh, nhưng chúng được gạn lọc và kết hợp để hình thành những yếu tố nội sinh đặc trưng của văn hóa Đại Việt.

Nhà Lý thực hiện chính sách khoan dung giữa các tín ngưỡng như dân gian, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo, tạo nên hiện tượng Tam giáo đồng nguyên Các tín ngưỡng dân gian như thờ thần linh, vật linh, tục thờ Mẫu và sùng bái anh hùng được phát triển tự do, trong khi Đạo Phật trở thành tôn giáo thịnh hành nhất và được công nhận là Quốc giáo Các vua Lý, như Thái Tổ và Thái Tông, đều sùng đạo Phật, cho xây dựng chùa tháp, tô tượng, đúc chuông và dịch kinh Điều này đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, với chùa chiền xuất hiện khắp nơi, và hơn một nửa dân số trở thành sư.

Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc qua giao lưu văn hóa cưỡng chế và đã trở thành nhu cầu tư tưởng thiết yếu trong việc xây dựng chế độ quân chủ tập quyền thời Lý Nho giáo trở thành nguyên lý cơ bản trong phép trị nước, với chế độ khoa cử là một biện pháp chiến lược quan trọng Tuy nhiên, ở các làng xã, quá trình Nho giáo hóa diễn ra chậm, dân chúng vẫn giữ gìn phong tục cổ truyền mà chưa bị ràng buộc bởi quy phạm Nho giáo Đầu thời Lý, giáo dục chủ yếu dựa vào Phật học, với vua Lý Công Uẩn học tại chùa Lục Tổ Dần dần, giáo dục khoa cử Nho học phát triển mạnh mẽ, và triều đại Lý đã xác lập hệ thống giáo dục khoa cử đầu tiên ở Việt Nam.

Văn Miếu, được thành lập vào năm 1070, là nơi dành riêng để dạy học cho Hoàng Thái Tử Khi Quốc Tử Giám mở cửa vào năm 1076, chỉ có các quý tộc và con em trong giới quan liêu được phép theo học tại đây.

Văn học thời Lý thể hiện tư tưởng và tình cảm tích cực, lạc quan của con người thời đại, nổi bật với văn học Phật giáo và văn học yêu nước Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý chủ yếu thuộc phái Thiền tông, bao gồm các tác phẩm triết học và cảm hứng Phật giáo Đồng thời, thơ văn yêu nước phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc ngoại xâm, lòng trung quân ái quốc và niềm tự hào dân tộc.

Một trong những thành tựu quan trọng của văn học thời Lý là sự phổ biến của chữ Nôm Trong giai đoạn này, dấu vết của chữ Nôm đã được phát hiện trên một số chuông đồng tại chùa Vân Bản và Đồ Sơn, cũng như trên các văn bia như bia chùa Báo Ân ở Vĩnh Phúc.

1.2.1.2 Sơ lược tình hình Ninh Bình thời Lý

Kinh đô Hoa Lư, sau 42 năm làm trung tâm của nhà nước Đại Cồ Việt, hiện nay đã trở thành cố đô Mặc dù Ninh Bình dưới triều đại Lý không còn thịnh vượng như thời Đinh - Tiền Lê, nhưng vẫn được coi là vùng đất quan trọng Lý Công Uẩn đã cử con trai Khai Quốc Vương Bồ trấn giữ khu vực này Về hành chính, năm 1010, nhà Lý đã chia lại khu vực hành chính cả nước, từ 10 đạo thành 24 lộ và phủ, trong đó Ninh Bình được xác định là phủ Trường Yên.

Sau khi đánh bại quân Tống, nhà Lý thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, dẫn đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp tại Ninh Bình Triều đình chú trọng mở mang đất hoang và xây dựng đê điều, hình thành nhiều điền trang và thái ấp như điền trang Tô Hiến Thành bên núi Kiếm Lĩnh Bến thuyền Trường Yên và cảng Phúc Thành trở nên sầm uất, trong khi giao thông đường thủy được cải thiện qua các sông tự nhiên như Vân Sàng, Trinh Nữ và Đáy Triều đình còn mở rộng và nạo vét các dòng sông, đồng thời đào thêm sông Lẫm ở Yên Mô, tạo điều kiện cho sự hình thành nhiều làng mạc trù phú như Bến Ngự, Bến Chợ và chợ Mo Ninh Bình, với vai trò là kinh đô Hoa Lư xưa, đã trở thành trung tâm kinh tế chính trị quan trọng của vùng.

Phật giáo ở Ninh Bình vào thời Lý phát triển mạnh mẽ, với vai trò quan trọng của các nhà sư trong triều chính Các nhà sư không chỉ tham gia vào việc trị vì đất nước mà còn trở thành những nhân vật chính trị có ảnh hưởng Thiền sư Vạn Hạnh là một trong những người nổi bật, đã hỗ trợ Lý Công Uẩn lên ngôi vua Cuối thời Tiền Lê, dưới triều vua Lê Long Đĩnh, tình hình chính trị rối ren và đời sống nhân dân khổ cực, tạo điều kiện cho việc thay ngôi đổi chúa Sau khi Lê Long Đĩnh qua đời vào năm 1009, cuộc đảo chánh năm 1010 do Vạn Hạnh lãnh đạo diễn ra mà không đổ máu, được xem như một tác phẩm nghệ thuật, theo nhận định của tác giả Lê Văn Siêu trong sách Văn học đời Lý.

Sư Vạn Hạnh, sau khi thành công, đã từ chối nhận chức tước trong triều đình của vua Lý Công Uẩn, người mà ông từng dạy dỗ, thể hiện phẩm cách cao quý của mình Ngày 2/11 năm Kỷ Dậu, Lý Công Uẩn lên ngôi, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Hành động của Sư Vạn Hạnh giống như Phù Đổng Thiên Vương, người đã góp phần lớn vào sự nghiệp vĩ đại của đất nước.

Ngày đăng: 06/04/2022, 21:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Nút đó và lò nước của ông Khổng Lồ Hồi ấy, sông Hoàng Long rất nhiều cá tôm. Ông Khổng Lồ thường đặt một cái đó rất lớn để đơm cá ở ngã ba sông. Lúc bấy giờ, rừng lại hiếm cái ăn nên hùm đói lắm, chỉ nhằm nhằm đổ trộm đó của ông Khổng Lồ để ăn. Có lần, ông vừa đặt đó được một lúc thì hùm đã mò ra đổ đó. Chỉ loáng một cái là người ta đã thấy con hùm dốc ngược cả cái đó vào miệng, bao nhiêu tôm cá đều vào bụng nó hết. Nên người ta nói “Ăn như hùm đổ đó” là vậy.Bị hùm đổ trộm đó liên tục, ông Khổng Lồ vô cùng tức giận, liền nghĩ ra một cách, lấy một hòn đá to để nút miệng đó lại. Hùm vẫn không chịu. Chúng gầm gọi cả đàn ra để tháo nút đó. Thành ra Khổng Lồ vẫn bị mất trộm cá. Ông phải ăn ngủ ngay tại chỗ để coi đó. Thế là ông đun nấu, ăn ngủ ngay trên bờ sông.Cả một cái suối lớn ông đun sôi sùng sục để thịt gà và nấu nướng.Cá ở khúc sông này đơm mãi cũng hết. ông chuyển đó đi đơm nơi khác.Nút đó ông vứt lại thành quả núi một gọi là Nút Đó ở ngã ba sông 1 . Suối ông Khổng lồ đun sôi để thịt gà, đến nay nay vẫn còn nóng, dân gian gọi là suối Canh Gà, lâu dần gọi là Kênh Gà 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ăn như hùm đổ đó
7. Sự tích đồi Ba Rau, Đống Củi và Xó Bếp Ngày xưa, trong các gia đình nông dân ở nông thôn, bếp đun thường bằng rơm rạ, sang nữa là củi. Người ta lấy đất sét dẻo, nhào nhuyễn rồi đắp thành ba hòn đất bắc nồi, dưới đế to cho chắc chắn, trên chỗ bắc nồi thì thon hơn và hơi khum vào một chút để đỡ nồi. Người ta gọi là Ông Ba Rau hay Ông Đồ Núc.Đức Thánh Nguyễn thuở sinh thời, khi chưa quy y đầu Phật, ông thường đánh lưới, câu cá trên sông Hoàng Long, một khúc sông chảy qua chân núi Bái Đính. Ông cao lớn và sức khoẻ như Thần, có thể chuyển núi dời đồi nên dân gian gọi ông là Ông Khổng Lồ. Ông Khổng Lồ gánh đất các nơi về đắp thành Ba Rau ngay dưới chân núi Bái Đính để bắc bếp đun nấu. Ba ông Đồ Rau ông bắc bếp nấu cơm, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân nay thành ba quả đồi lớn nằm ngay phía Đông Bắc, dưới chân núi Bái Đính. Dân gian gọi đây là đồi Ba Rau. Bên cạnh đồi Ba Rau, có một hõm đồi lớn phía Tây là Xó Bếp - nơi ông cất các vật liệu và các thức để chế biến món ăn; hõm đồi phía Tây Bắc nơi ông đựng củi đun gọi là Đống củi. Cả khu đồng phía Đông, cạnh đường lên chùa Bái Đính mới, có rất nhiều đống đá xám, đen, dân gian nói đó là tro than bếp của ông cời ra đến nay vẫn còn.Ba Rau, Đống Củi, Xó Bếp - những quả đồi cao bên phía Đông Bắc núi Bái Đính - gắn với các huyền tích trên của Ông Khổng Lồ - đức Thánh Nguyễn - nay là khu vực xây dựng chùa bái Đính mới. Đặc biệt, điện Tam Thế lớn nhất khu tâm linh Bái Đính được xây cất ngay trên đỉnh đồi Ba Rau huyền thoại của ông Khổng Lồ xưa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự tích đồi Ba Rau, Đống Củi và Xó Bếp Ngày xưa
9. Một lời nguyền của ông Khổng Lồ Ông Khổng Lồ đơm đó ở cạnh rừng thì bị hùm đổ trộm. Ông liền vứt nút đó đi để chuyển lên khúc sông hẹp bên trên đơm đó. Dân ở đây biết ông đơm lần nào cũng được đầy một đó cá, tôm, nên thường dậy từ mờ sáng để đổ trộm đó của ông.Ông tức giận lắm nhưng không bắt được ai đổ trộm đó của mình cả. Ông liền đọc một lời nguyền:“Đứa nào trộm đó lão này Đến mùa trẩy thuế đi may về nồm”.Dân làng ấy không hiểu nên vẫn chẳng sợ, cứ tiếp tục đổ trộm đó của ông.Đến tháng Năm, tháng Sáu, nhà vua thu thuế, cả làng phải chở thuyền thóc lên Phủ để nộp. Thật là kỳ lạ, thuyền cứ đến khúc sông này cả đi và về đều ngược gió, đi lại vô cùng vất vả. Lúc ấy mọi người mới vỡ lẽ câu hát nghêu ngao của ông Khổng Lồ khi trước là lời nguyền trừng phạt làng đổ trộm đó của ông. Dân làng tìm để xin ông giải lời nguyền ấy nhưng chẳng thấy ông đâu. Người ta nói ông đã đi tu trên núi Bái Đính, không còn đi đơm đó nữa. Lời nguyền của ông Khổng Lồ chưa giải được, nên đến nay, thuyền bè đi qua khúc sông này không bao giờ thuận buồm xuôi gió cả. Khúc sông ấy cách Bái Đính Sơn nơi ông Khổng Lồ tu hành độ mấy dặm đường 16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đứa nào trộm đó lão này Đến mùa trẩy thuế đi may về nồm
13. Sinh Dược – Vườn thuốc của ông Khổng Lồ Ông Khổng Lồ trong một lần vượt sông Hoàng Long lên núi Bái Đính du ngoạn. Ông đó phát hiện ra động đẹp kỳ lạ trên núi Bái Đính. Hang động đẹp như nơi tiên cảnh, núi lại hướng về phía Tây như chầu về đất Phật Tổ, rừng gài mênh mông vô vàn cây thuốc quý. Ông đã dừng chân ở đây tu hành và hỏi thuốc để cứu độ chúng sinh. Không chỉ hái thuốc có sẵn trên núi, mà ông còn kiếm nhiều loại cây thuốc quý ở các núi rừng quanh vùng về đây để trồng, biến thành một vườn thuốc lớn, ông đặt tên là Vườn Sinh Dược, ở ngay dưới chân núi Bái Đính. Cũng chính từ ý nghĩa này mà cái tên Sinh Dược (thuốc sống) ra đời. Sinh Dược được đặt tên cho cả một thung lũng rộng lớn xung quanh núi Bái Đính.Lúc bấy giờ, giặc dã, trộm cướp và thú rừng nhiều thường đến quấy nhiễu, phá phách vườn thuốc quý của ông. Ông Khổng Lồ liền đi gánh các quả núi các nơi về xếp xung quanh làm “hàng rào” cho vườn Sinh Dược. Ngài khoanh ranh giới điền thổ và vườn thuốc của mình rồi công bố với dân gian là: “Thượng chí Gảnh Gà, hạ chí núi Khơi, Đá Xẻ, Đá Soi, Lỗ Lươn vi giới”. Đến nay, những địa danh này vẫn còn. Cứ theo truyền thuyết và các địa danh này thì Vườn thuốc của ông Khổng Lồ ngày ấy rộng lớn bao trùm cả hai xã Sơn Lai (Nho Quan) và Gia Sinh (Gia Viễn) bây giờ. Ngay ở xã Sơn Lai hiện nay vẫn còn tên Sơn Dược từ thời cổ, người ta bảo ông trồng thuốc cả trên các dải núi trong vùng mới có đủ thuốc chữa bệnh cứu muôn dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sinh Dược – Vườn thuốc của ông Khổng Lồ
14. Truyện thần y chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Về việc chữa bệnh “hoá hổ” cho vua Lý Thần Tông của Nguyễn Minh Không, dân gian còn lưu truyền rằng: Khi vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, mình mọc đầy lông vàng, tiếng như hổ gầm, quan quân vô cùng sợ hãi. Triều đình sai sứ giả đi khắp nơi tìm thầy thuốc giỏi về chữa bệnh cho nhà vua. Trong dân gian có lũ trẻ chăn trâu hát: “Bổng bồng bông, tập tầm vông, ở làng Điềm xá, có Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện thần y chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý
Tác giả: Nguyễn Minh Không

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: túm tắt một số chỉ tiờu tài chớnh qua cỏc năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 1 túm tắt một số chỉ tiờu tài chớnh qua cỏc năm (Trang 16)
Bảng 2: Tên truyền thuyết đã thành vă n- nhà nghiên cứu Trương Đình Tưởng biên soạn - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 2 Tên truyền thuyết đã thành vă n- nhà nghiên cứu Trương Đình Tưởng biên soạn (Trang 30)
Bảng 3: Truyền thuyết tác giả luận văn ghi lại trong quá trình điền dã - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 3 Truyền thuyết tác giả luận văn ghi lại trong quá trình điền dã (Trang 31)
“ĐUỔI HÌNH BẮT CHỮ” - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
“ĐUỔI HÌNH BẮT CHỮ” (Trang 38)
19 Sự tích chùa Một hôm ông đi đến nơi thâm Hình thành chùa động - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
19 Sự tích chùa Một hôm ông đi đến nơi thâm Hình thành chùa động (Trang 56)
Bảng 4: Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 4 Kết cấu từng đơn vị riêng lẻ (Trang 58)
Bảng 5: Hệ thống kết cấu xâu chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 5 Hệ thống kết cấu xâu chuỗi truyền thuyết Nguyễn Minh Không (Trang 60)
Bảng 6: Người tham gia ban lễ tế đềnThánh Nguyễn - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 6 Người tham gia ban lễ tế đềnThánh Nguyễn (Trang 72)
Bảng 7: Tiến trình lễ hội - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 7 Tiến trình lễ hội (Trang 74)
Bảng 8: Thứ tự dâng sắc phong của các nghè miếu - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 8 Thứ tự dâng sắc phong của các nghè miếu (Trang 75)
Bảng 9: Trình tự lễ cáo yết - (LUẬN văn THẠC sĩ) truyền thuyết nguyễn minh không và lễ hội đền thánh nguyễn ở ninh bình
Bảng 9 Trình tự lễ cáo yết (Trang 78)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN