Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
1.1.1 Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Martin Ravallion và Dominique van de Walle (2010) “Đất đai trong thời kỳ chuyển đổi - Cải cách và nghèo đói ở nông thôn Việt Nam”, Ngân hàng thế giới,
Cuốn sách của NXB Văn hóa thông tin nghiên cứu sự biến đổi trong thể chế đất đai và quy trình giao đất, thu hồi đất tại Việt Nam, đồng thời phân tích tác động của những thay đổi này đến đời sống của người nghèo, đặc biệt là tại khu vực nông thôn Các nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi về tình trạng gia tăng người không có đất, liệu đây là dấu hiệu của thành công hay thất bại trong quá trình chuyển đổi ruộng đất Qua đó, cuốn sách cung cấp những dẫn chứng và phân tích sâu sắc nhằm tìm kiếm câu trả lời thỏa đáng cho vấn đề này.
Hee Nam Jung (2014),“Mối liên hệ tam giác trong hệ thống đất đai ở Hàn
Hội nghị Khoa học về quản lý đất đai do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức vào ngày 10/09/2010 đã tập trung vào việc quy hoạch, phát triển và đền bù sử dụng đất Tác giả đã trình bày mối quan hệ giữa quy hoạch và nhu cầu thu hồi đất, đồng thời chia sẻ quy trình và thực tiễn công tác đền bù khi thu hồi đất tại Hàn Quốc.
Soo Choi (2015) đã nghiên cứu về quá trình đổi mới chính sách đất đai tại Hàn Quốc, trong khi Ủy ban Định giá Hàn Quốc (2010) cung cấp thông tin về hệ thống định giá và bồi thường đất đai Bài viết của Park Hyun Young (2013) phân tích mô hình phát triển đất đai của Hàn Quốc và so sánh với một số quốc gia trong khu vực như Singapore, Trung Quốc và Thái Lan Những tài liệu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ về thu hồi đất, bồi thường và tái định cư ở Hàn Quốc và các nước lân cận.
1.1.2 Các công trình nghiên cứu trong nước
Có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, cụ thể như sau:
Nguyễn Quốc Hùng (2011) trong cuốn sách “Đổi mới chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt Nam” đã phân tích một cách sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến việc cải cách chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất Tác phẩm này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới chính sách đất đai trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Lê Trang (2017) trong bài viết "Hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng" đăng trên báo điện tử Bắc Kạn đã chỉ ra nhiều hạn chế trong công tác này, đặc biệt là sự chậm trễ và vướng mắc trong đền bù giải phóng mặt bằng Tác giả nhấn mạnh rằng người dân chưa hài lòng với chính sách hỗ trợ, cũng như đơn giá bồi thường cho đất, tài sản, cây cối và hoa màu, dẫn đến những tồn đọng trong quá trình thực hiện các dự án.
Phạm Bình An (2003), “Một số kinh nghiệm của Singapore trong thu hồi, đền bù về đất đai”, Nội san Kinh tế tháng 12/2003 [20]; Nguyễn Thị Dung (2010),
“Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trong khu vực và Việt Nam” , Tạp chí Cộng sản, số 05 [17];
Nguyễn Quang Tuyến (2010), “Pháp luật về bồi thường, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại Singapore và Trung Quốc cung cấp những bài học quý giá cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường và tái định cư Đào Trung Chính (2014) đã nghiên cứu và đề xuất những cải cách cần thiết trong chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân và nâng cao hiệu quả quản lý đất đai Những gợi mở này không chỉ giúp cải thiện quy trình bồi thường mà còn tạo ra một môi trường pháp lý minh bạch và công bằng hơn cho các bên liên quan.
Tiến sỹ chuyên ngành Quản lý đất đai tại Trường Đại học Nông nghiệp đã hệ thống hóa các chính sách pháp luật liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (BT, HT&TĐC) ở Việt Nam qua các thời kỳ Bài viết phân tích thực trạng thực hiện công tác BT, HT&TĐC khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai 2003 và đề xuất một số giải pháp đổi mới nhằm cải thiện hiệu quả công tác này.
Luận án tiến sỹ của Trần Đức Phương (2015) đã hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về tái định cư, đồng thời phân tích tác động của nó đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân Nghiên cứu đánh giá vai trò quản lý của Nhà nước trong việc đảm bảo đời sống người dân thông qua các văn bản pháp lý liên quan đến đất đai, bồi thường và hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất cho các dự án phát triển Luận án chỉ ra định hướng phát triển đô thị của Hà Nội trong tương lai, xác định mục tiêu và nhu cầu tái định cư, đồng thời đề xuất các quan điểm giải quyết vấn đề này nhằm đảm bảo ổn định bền vững đời sống kinh tế - xã hội cho người dân Cuối cùng, luận án đưa ra 7 nhóm giải pháp chủ yếu để ổn định bền vững đời sống của người dân trong quá trình tái định cư.
Tổng quan các nghiên cứu hiện có cho thấy chưa có đề tài nào tập trung vào công tác thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng cho dự án xây dựng tuyến đường Đông Khê 2 tại thành phố Hải Phòng Do đó, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng tại dự án xây dựng tuyến đường Đông Khê 2, thành phố Hải Phòng” nhằm mục đích thực tiễn cao.
Cơ sở lý luận về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng
1.2.1 Một số khái niệm cơ bản
Theo Luật Đất đai 2003, việc thu hồi đất được định nghĩa là hành động của Nhà nước thông qua quyết định hành chính nhằm lấy lại quyền sử dụng đất hoặc thu hồi đất đã được giao cho tổ chức, Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 11 Điều 3 của Luật Đất đai 2013, việc Nhà nước thu hồi đất là hành động mà Nhà nước quyết định lấy lại quyền sử dụng đất từ người đã được trao quyền hoặc thu hồi đất từ người sử dụng đất vi phạm các quy định pháp luật về đất đai.
Thu hồi đất là hành động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua văn bản hành chính, nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai của cá nhân hoặc tổ chức Mục đích của việc thu hồi này là phục vụ lợi ích của Nhà nước, xã hội hoặc để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến đất đai.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2012, bồi thường được định nghĩa là việc trả lại giá trị hoặc công lao tương xứng cho một cá nhân hoặc tổ chức đã chịu thiệt hại do hành vi của một chủ thể khác.
Theo Điều 4, khoản 6 của Luật Đất đai năm 2003, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất cho những cá nhân hoặc tổ chức có đất bị thu hồi.
Theo Điều 3 Luật Đất đai 2013, bồi thường về đất là việc Nhà nước hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất khi diện tích đất bị thu hồi.
Bồi thường là quá trình thanh toán toàn bộ giá trị đất bị thu hồi và tài sản bị thiệt hại của người bị ảnh hưởng Điều này bao gồm việc giao đất và nhà có giá trị tương đương, kèm theo khoản thanh toán bằng tiền mặt cho bất kỳ phần chênh lệch nào thuộc về người bị ảnh hưởng.
Giải phóng mặt bằng là quá trình di dời nhà cửa, công trình xây dựng và cư dân trên khu đất được quy hoạch nhằm cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng mới các công trình.
Giải phóng mặt bằng là quá trình thu hồi các loại đất như đất ở, đất nông nghiệp và các loại đất khác trong khu vực quy hoạch Mục tiêu của công tác này là tạo ra mặt bằng hay "quỹ đất sạch" phục vụ cho các dự án phát triển hạ tầng, đô thị cũng như các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Giải phóng mặt bằng là quá trình thu hồi đất, bao gồm đất nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng, nhằm bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho những người có đất bị thu hồi trong khu vực quy hoạch Quá trình này cũng bao gồm việc giải tỏa tài sản, công trình trên đất để tạo ra "quỹ đất sạch" phục vụ cho các dự án liên quan đến quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế.
Giải phóng mặt bằng là quá trình di dời nhà cửa, cây cối và các công trình xây dựng, cũng như một bộ phận dân cư, trên một khu đất được quy hoạch nhằm cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng công trình mới.
1.2.1.4.Hỗ trợ khi thu hồi đất
Theo Điều 4, khoản 7 của Luật Đất đai năm 2003, việc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi thông qua đào tạo nghề mới, sắp xếp việc làm mới và cấp kinh phí di dời đến địa điểm mới.
Theo Điều 3 khoản 12 Luật Đất đai năm 2013, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm giúp người bị thu hồi ổn định đời sống, sản xuất và phát triển Ngoài việc được bồi thường theo quy định, Điều 83 khoản 1 cũng nêu rõ rằng người sử dụng đất sẽ được xem xét hỗ trợ từ Nhà nước Việc hỗ trợ này cần đảm bảo tính khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và tuân thủ quy định pháp luật.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một chính sách quan trọng nhằm giúp người dân ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế Nhà nước cung cấp các hình thức trợ giúp cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho những người bị thu hồi đất, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc tái định cư và khôi phục sinh kế.
Theo Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, khi Nhà nước thu hồi đất, nếu thu hồi toàn bộ đất ở hoặc phần đất ở còn lại không đủ điều kiện để ở, người dân sẽ được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư.
Tổng quan chính sách của nhà nước ta về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng giai đoạn Luật đất đai 2003 và 2013
1.3.1 Từ khi có luật Đất đai 2003 đến trước Luật đất đai 2013
Theo Điều 42, khoản 2 của Luật Đất đai 2003, người có đất bị thu hồi sẽ được bồi thường bằng cách giao đất mới có cùng mục đích sử dụng Nếu không có đất để bồi thường, họ sẽ nhận bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm ra quyết định thu hồi Luật này cũng quy định rõ chính sách hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất, đảm bảo họ có nơi tái định cư và ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế.
Nghị định 197/2004/NĐ-CP quy định về công tác bồi thường và hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm cả đất cho các dự án sản xuất kinh doanh, khu chế xuất, khu du lịch, khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu vui chơi giải trí, khu dân cư tập trung và các dự án đầu tư phát triển khác đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt Ngoài ra, nghị định cũng áp dụng cho đất xây dựng các công trình phục vụ công ích và công cộng không nhằm mục đích kinh doanh, do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Nghị định 84/2007/NĐ-CP ban hành ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định các quy trình bổ sung liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ), thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, cùng với trình tự và thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (BTHT&TĐC) khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như cách giải quyết các khiếu nại về đất đai.
Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ban hành ngày 01/10/2009 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (BTHT&TĐC) cũng như trình tự, thủ tục thu hồi, giao và cho thuê đất Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB) và hỗ trợ cho các đối tượng bị thu hồi đất được điều chỉnh bởi một hệ thống quy định hoàn chỉnh và tổng quát trên toàn quốc, với việc áp dụng linh hoạt tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương.
1.3.2 Từ khi có Luật đất đai 2013 đến nay
Từ khi Luật Đất đai (LĐĐ) 2013 có hiệu lực, nhiều điểm mới đã được bổ sung so với LĐĐ 2003, đặc biệt liên quan đến thu hồi đất Luật quy định rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, nguyên tắc thực hiện, và chế tài xử lý đối với những cá nhân không tuân thủ quyết định thu hồi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Về bồi thường, hỗ trợ tái định cư (BTHT & TĐC), LĐĐ 2013 đã đưa ra quy định chi tiết, trong đó giá đất bồi thường không còn áp dụng theo bảng giá mà dựa vào giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi Luật cũng quy định về bồi thường chi phí di chuyển, chi phí đầu tư vào đất còn lại, và tài sản gắn liền với đất, đảm bảo quyền lợi cho từng loại đất và đối tượng cụ thể, đồng thời nêu rõ điều kiện được bồi thường về đất.
Luật Đất đai năm 2013 đã bãi bỏ quy định hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẹt trong khu dân cư, điều này nhằm khắc phục sự không phù hợp với thực tế và giảm lãng phí ngân sách nhà nước trong các dự án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định về các trường hợp Nhà nước trưng dụng đất, thẩm quyền, thời hạn hiệu lực và hình thức trưng dụng Đồng thời, Luật quy định xử lý đối với trường hợp chậm chi trả bồi thường do lỗi của cơ quan Nhà nước và người có đất thu hồi, nhằm đảm bảo trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Những nội dung cơ bản của chính sách thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng theo Luật đất đai 2013
Theo Điều 69 LĐĐ 2013, UBND cấp có thẩm quyền sẽ thông báo thu hồi đất đến từng cá nhân có đất bị thu hồi và thông báo công khai tại địa phương UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức bồi thường, GPMB để triển khai kế hoạch thu hồi đất, bao gồm điều tra, khảo sát và kiểm đếm Người sử dụng đất cần hợp tác với tổ chức này; nếu sau 10 ngày không hợp tác, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc Người có đất thu hồi phải thực hiện quyết định này, nếu không chấp hành, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ ra quyết định cưỡng chế thực hiện kiểm đếm theo quy định.
Theo Điều 66 của Luật Đất đai năm 2013, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày.
UBND cấp tỉnh có quyền thu hồi đất trong các trường hợp sau: đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cũng như thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
UBND cấp huyện có quyền thu hồi đất trong các trường hợp như sau: thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, và cộng đồng dân cư; thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài có sở hữu nhà tại Việt Nam.
Khi người sở hữu đất không bàn giao cho tổ chức bồi thường và GPMB, UBND cấp xã cùng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã sẽ tiến hành vận động và thuyết phục họ thực hiện nghĩa vụ Nếu sau khi được vận động mà người có đất vẫn từ chối bàn giao, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện theo quy định pháp luật.
Luật Đất đai năm 2013 phân loại việc thu hồi đất thành 4 nhóm chính: (1) Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; (2) Thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (3) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai; và (4) Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật hoặc tự nguyện trả lại đất, đặc biệt trong trường hợp có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
1.4.2 Các điều kiện để được bồi thường đất
Người sử dụng đất sẽ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nếu đáp ứng đủ điều kiện bồi thường theo quy định Điều kiện này khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng sử dụng đất Theo Điều 75 Luật Đất đai 2013, các đối tượng được bồi thường cần phải có đủ các điều kiện cụ thể tương ứng với từng loại hình sử dụng đất.
Hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất sẽ được bồi thường nếu đáp ứng các điều kiện sau: phải là đất đang sử dụng và không thuộc loại đất thuê trả tiền hàng năm.
Theo quy định, người sử dụng đất nông nghiệp trước ngày 01/7/2004 mà không có sổ đỏ hoặc không đủ điều kiện cấp sổ đỏ sẽ không được bồi thường theo quy định, mà chỉ được bồi thường cho diện tích đất thực tế đang sử dụng, không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp (Khoản 2 Điều 77 LĐĐ 2013) Bên cạnh đó, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam, nếu có sổ đỏ hoặc đủ điều kiện cấp sổ nhưng chưa được cấp cũng sẽ được bồi thường.
Cộng đồng dân cư và cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo sẽ được bồi thường khi sử dụng đất không phải do Nhà nước giao, cho thuê, và có sổ đỏ hoặc đủ điều kiện cấp sổ đỏ nhưng chưa được cấp.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp như: được giao đất có thu tiền sử dụng, cho thuê đất với khoản tiền thuê trả một lần cho toàn bộ thời gian thuê, hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, có sổ đỏ hoặc đủ điều kiện để được cấp sổ đỏ nhưng chưa được cấp.
Tổ chức được Nhà nước giao đất sẽ được bồi thường trong các trường hợp như: nhận đất có thu tiền sử dụng, thuê đất trả tiền một lần cho toàn bộ thời gian thuê; nhận thừa kế hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã nộp tiền sử dụng, với tiền chuyển nhượng không xuất phát từ ngân sách nhà nước, và có sổ đỏ hoặc đủ điều kiện cấp sổ đỏ nhưng chưa được cấp.
Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao tại Việt Nam sẽ được bồi thường khi Nhà nước cho thuê đất với hình thức trả tiền một lần cho toàn bộ thời gian thuê, hoặc trong trường hợp đã đủ điều kiện cấp sổ đỏ nhưng chưa được cấp.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế sẽ được bồi thường trong các trường hợp sau: khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê; và khi cho thuê đất trả tiền một lần cho toàn bộ thời gian thuê, có sổ đỏ hoặc đủ điều kiện cấp sổ đỏ nhưng chưa được cấp.
1.4.3 Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo quy định tại Điều 74 LĐĐ 2013 thì việc bồi thường về đất được thực hiện theo nguyên tắc sau:
Người sử dụng đất cần đảm bảo các điều kiện về loại đất và chứng nhận quyền sử dụng đất để đủ điều kiện nhận bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Theo quy định, chỉ được bồi thường khi thu hồi đất phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh hoặc phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng Trong các trường hợp thu hồi khác, người sử dụng đất sẽ không được bồi thường Điều kiện bồi thường được quy định tại Điều 75 Luật Đất đai 2013.