Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng đóng vai trò thiết yếu như một tổ chức kinh doanh, được xem như mạch máu nuôi dưỡng và duy trì sự phát triển của nền kinh tế.
Ngành kinh tế này đóng vai trò trung tâm trong thanh toán và tín dụng, là yếu tố quyết định cho sự phát triển của quốc gia Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tâm lý người dân và các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thường gặp nhiều rủi ro tiềm ẩn do sự nhạy cảm của lĩnh vực này, liên quan đến đa dạng khách hàng và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị và xã hội.
Trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, tín dụng đóng vai trò chủ yếu, dẫn đến việc rủi ro tín dụng trở thành vấn đề quan trọng nhất Mặc dù tín dụng mang lại lợi nhuận cao, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro Hiện nay, các khoản nợ có vấn đề và cách quản trị rủi ro này đang là mối quan tâm hàng đầu của ngành ngân hàng Tỷ lệ nợ xấu thấp phản ánh chất lượng tín dụng tốt, trong khi tỷ lệ nợ xấu cao có thể đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro nghiêm trọng.
Nợ có vấn đề là biểu hiện cụ thể của rủi ro tín dụng và là nguyên nhân gây thất thoát vốn, do đó, việc quản trị nợ có vấn đề trở thành nhiệm vụ cấp bách của các ngân hàng Điều này không chỉ giúp lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước Thực hiện tốt công tác này sẽ đảm bảo tính ổn định trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Đề tài "Quản trị nợ có vấn đề trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) – CN Hùng Vương" được lựa chọn nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh này.
Mục tiêu nghiên cứu
Tổng hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản trị nợ có vấn đề trong hoạt động cho vay của NHTM
Phân tích và đánh giá thực trạng quản trị nợ có vấn đề trong hoạt động cho vay tại Eximbank Hùng Vương, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này trong thời gian tới Việc cải thiện quản trị nợ có vấn đề sẽ giúp nâng cao hiệu quả cho vay và giảm thiểu rủi ro tài chính cho ngân hàng.
Cách tiếp cận nghiên cứu
Nghiên cứu quy trình quản trị nợ có vấn đề qua các tài liệu tham khảo và lý luận về mặt học thuật
Khảo sát thực tế về quản trị nợ có vấn đề tại Eximbank Hùng Vương cho thấy những thành công và hạn chế trong công tác này Bài viết đánh giá nguyên nhân dẫn đến các vấn đề nợ, từ đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản trị nợ Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro và đảm bảo hoạt động tín dụng diễn ra hiệu quả hơn.
Câu hỏi nghiên cứu
- Nợ có vấn đề là gì? Phân biệt nợ có vấn đề và nợ xấu ?
Quản trị nợ có vấn đề là quá trình quản lý và xử lý các khoản nợ không thể thu hồi hoặc có nguy cơ mất khả năng thanh toán Để đánh giá hiệu quả của hoạt động này, cần xem xét các tiêu chí như tỷ lệ nợ xấu, khả năng thanh toán nợ, và các biện pháp xử lý nợ đã áp dụng Những yếu tố này giúp xác định mức độ rủi ro và khả năng phục hồi tài chính của doanh nghiệp.
- Những yếu tố nào tác động đến việc quản trị nợ có vấn đề trong hoạt động cho vay của NHTM?
Quản trị nợ tại Eximbank Hùng Vương đang gặp nhiều vấn đề trong hoạt động cho vay, ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của ngân hàng Các hạn chế như quy trình phê duyệt tín dụng chưa chặt chẽ, thiếu công cụ quản lý rủi ro và khả năng thu hồi nợ chưa cao cần được phân tích kỹ lưỡng Để khắc phục tình trạng này, ngân hàng cần cải thiện quy trình cho vay, nâng cao năng lực phân tích tín dụng và áp dụng các giải pháp công nghệ hiện đại để quản lý nợ hiệu quả hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu trên, luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê mô tả dựa trên cơ sở số liệu thực tế thu thập được
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng nhằm tìm hiểu thực trạng của hoạt động quản trị nợ có vấn đề
- Phương pháp so sánh dựa trên kết quả quản trị nợ có vấn đề qua từng thời kỳ để đánh giá hoạt động này tại NHTM.
Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được trình bày với 3 chương cơ bản, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị nợ có vấn đề trong hoạt động cho vay của NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị nợ có vấn đề tại Eximbank Hùng Vương
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị nợ có vấn đề tại Eximbank Hùng Vương.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NỢ CÓ VẤN ĐỀ
Định nghĩa
Ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân thông qua nhiều hình thức như cho vay, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho thuê tài chính, và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Trong số các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, trong đó tổ chức tín dụng cung cấp cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng cho mục đích nhất định trong khoảng thời gian theo thỏa thuận, với yêu cầu hoàn trả cả gốc và lãi.
Nguyên tắc cho vay
Trong hoạt động cho vay, ngân hàng cần cân bằng giữa hiệu quả kinh doanh và việc đảm bảo người vay sử dụng vốn một cách hiệu quả Do đó, việc cho vay phải tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản.
Nguyên tắc hoàn trả là việc người vay phải hoàn trả đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, vì nó không chỉ tạo cơ sở cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn tạo ra ràng buộc pháp lý đối với người đi vay, giúp họ cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định vay vốn.
Nguyên tắc mục đích là yếu tố quan trọng khi vay vốn, yêu cầu khách hàng xác định rõ ràng mục đích vay và cam kết sử dụng số tiền đúng theo thỏa thuận Nguyên tắc này không chỉ giúp ngân hàng có quyền hạn pháp lý trong trường hợp khách hàng vi phạm (như quyền thu nợ ngay và quyền tăng lãi suất) mà còn tạo điều kiện cho nhà nước kiểm tra tính hợp pháp trong việc sử dụng vốn của cả ngân hàng và khách hàng.
Nguyên tắc vay có đảm bảo yêu cầu việc đảm bảo tiền vay tuân thủ các quy định của chính phủ, thống đốc ngân hàng và hướng dẫn từ ngân hàng thương mại Có hai hình thức đảm bảo chính trong quá trình vay vốn.
+ Ðảm bảo không bằng tài sản: gồm đảm bảo bằng uy tín, năng lực trả nợ của người đi vay (Tín chấp) hoặc của người bảo lãnh
Đảm bảo bằng tài sản bao gồm các hình thức như thế chấp, cầm cố, đảm bảo bằng tài sản hình thành trong tương lai, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba và đặt cược ký quỹ.
Phân loại hoạt động cho vay của NHTM
Trong hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại phân loại cho vay dựa trên yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của họ.
- Phân loại theo thời hạn vay: Nếu căn cứ vào thời hạn, cho vay chia thành các loại sau đây:
+ Cho vay ngắn hạn: có thời hạn cho vay đến 1 năm
+ Cho vay trung hạn: có thời hạn cho vay trên 1 năm đến 5 năm
+ Cho vay dài hạn: có thời hạn cho vay từ 5 năm trở lên
- Phân loại theo phương thức cho vay: theo Quyết định 1627/2001/QĐ-
NHNN hoạt động tín dụng sẽ được phân chia thành các phương thức như: [6]
+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và TCTD thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng
Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức mà tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng cùng xác định một hạn mức tín dụng cụ thể, được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Cho vay theo dự án đầu tư là hình thức mà các tổ chức tín dụng (TCTD) cung cấp vốn cho khách hàng nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cũng như các dự án phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn là hình thức mà một nhóm tổ chức tín dụng (TCTD) cùng tham gia cho vay cho một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một TCTD đóng vai trò đầu mối để dàn xếp và phối hợp với các TCTD khác Hình thức cho vay này được thực hiện theo quy định của quy chế hiện hành và quy chế đồng tài trợ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Cho vay trả góp là hình thức vay vốn mà trong đó tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng thống nhất về lãi suất vay cùng với số nợ gốc, được chia thành nhiều kỳ hạn để thanh toán trong suốt thời gian cho vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo cho khách hàng vay vốn thêm trong phạm vi hạn mức tín dụng dự phòng
Cho vay qua thẻ tín dụng cho phép khách hàng sử dụng số vốn vay trong hạn mức tín dụng để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ, cũng như rút tiền mặt tại máy ATM hoặc các điểm ứng tiền mặt của tổ chức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi là hình thức cho vay mà tổ chức tín dụng (TCTD) đồng ý cho khách hàng chi vượt quá số tiền có trong tài khoản thanh toán của họ, thông qua một thỏa thuận bằng văn bản.
- Phân loại cho vay theo TSĐB: Nếu căn cứ vào TSĐB thì ta có các loại hình cho vay sau đây:
Cho vay có tài sản đảm bảo (TSĐB) là cam kết của người vay sử dụng tài sản sở hữu để đảm bảo nghĩa vụ tài chính với ngân hàng Nếu khách hàng không trả được nợ hoặc sử dụng sai mục đích vốn vay, ngân hàng sẽ tiến hành phát mại tài sản để thu hồi vốn.
Cho vay không có tài sản đảm bảo (TSĐB) là hình thức tín dụng cho phép khách hàng vay vốn mà không cần cung cấp TSĐB Loại hình này thường dành cho những khách hàng có uy tín cao, mối quan hệ tốt và lâu dài với ngân hàng, cũng như tình hình tài chính ổn định Ngoài ra, các khoản vay này cũng có thể được cấp theo chỉ thị của Chính phủ, yêu cầu không cần TSĐB.
CÁC KHOẢN NỢ CÓ VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM
1.2.1 Định nghĩa nợ có vấn đề
Nợ có vấn đề là những khoản nợ mà khách hàng không thanh toán gốc và lãi đúng hạn, hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết trong hợp đồng tín dụng Ngoài ra, các khoản vay dù còn trong hạn nhưng có dấu hiệu không an toàn cũng có thể dẫn đến rủi ro tài chính.
Xét về kế toán, nợ có vấn đề bao gồm các khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 trên bảng cân đối kế toán và các khoản nợ đã được xử lý rủi ro bằng nguồn dự phòng của ngân hàng thương mại Ngoài ra, nợ được Chính phủ cấp nguồn xử lý cũng được hạch toán ở tài khoản ngoại bảng của ngân hàng.
Nợ có vấn đề là các khoản tín dụng mà khách hàng không thể thanh toán đúng hạn theo hợp đồng, bao gồm những khoản vay có rủi ro tiềm ẩn, nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, và các khoản nợ đã quá hạn hoặc được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng chi trả Các loại nợ này bao gồm nợ thanh toán chậm, nợ khó đòi, nợ chờ xử lý, nợ khoanh, và nợ tồn đọng cả trong và ngoài bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại nợ có vấn đề
Hiện nay, Ngân hàng thương mại Việt Nam phân loại nợ theo “Thông tư số 01/VBHN-NHNN”, trong đó nợ có vấn đề được xếp từ nhóm 2 đến nhóm 5, bao gồm cả nợ ngoại bảng Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) là các khoản nợ có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) là những khoản nợ có khả năng thu hồi nhưng có dấu hiệu suy giảm khả năng trả nợ từ khách hàng Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ không có khả năng thu hồi khi đến hạn và có khả năng tổn thất Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) là các khoản nợ có khả năng tổn thất cao Cuối cùng, Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) gồm các khoản nợ không còn khả năng thu hồi và được xem là mất vốn.
Phương pháp phân loại nợ dựa vào hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách DPRR của ngân hàng, cũng như đánh giá rủi ro từ khách hàng, cho phép nhận diện các khoản nợ có vấn đề một cách chính xác Tuy nhiên, nhược điểm lớn của phương pháp này là thiếu tiêu chuẩn định lượng để xác định mức độ rủi ro, gây khó khăn trong việc đánh giá Để áp dụng phương pháp định tính trong phân loại nợ, các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt bằng văn bản.
Hiện nay, tại Việt Nam, chỉ có một số ít ngân hàng áp dụng phương pháp định tính để phân loại nợ, trong khi phần lớn các ngân hàng thương mại vẫn sử dụng phương pháp định lượng Theo quy định tại điều 10 - Thông tư số 01/VBHN-NHNN, nợ được phân loại thành các nhóm, trong đó Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) là một trong những nhóm cơ bản.
- Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn (i);
Nợ quá hạn dưới 10 ngày có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi, đồng thời có khả năng thanh toán đúng hạn cho các khoản nợ gốc và lãi còn lại.
- Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều này (iii) b2 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày (i);
- Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (ii);
- Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này (iii) b3 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày (i);
- Nợ gia hạn nợ lần đầu (ii);
- Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng (iii);
- Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi (iv):
+ Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5, 6 Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng, cụ thể:
+ Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 Luật các tổ chức tín dụng, cụ thể:
+ Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật các tổ chức tín dụng;
- Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra (v);
- Nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này (vi);
- Nợ phải phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 11 Điều 9 Thông tư này (vii) b4 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày (i);
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu (ii);
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai (iii);
- Khoản nợ quy định tại điểm (iv) nhóm 3 chưa thu hồi được trong thời gian từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi (iv);
- Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được (v);
- Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này (vi);
- Nợ phải phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 11 Điều 9 Thông tư này (vii) b5 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Nợ quá hạn trên 360 ngày (i);
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu (ii);
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai (iii);
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn (iv);
- Khoản nợ quy định tại điểm (iv) Nhóm 3 chưa thu hồi được trong thời gian trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi (v);
- Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được (vi);
Nợ của khách hàng là các khoản vay từ tổ chức tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước đã công bố đưa vào tình trạng kiểm soát đặc biệt Điều này bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản.
- Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này (viii)
Theo quy định tại khoản 11 Điều 9 Thông tư này, nợ phải phân loại vào nhóm 5, một phương pháp giúp ngân hàng dễ dàng phân loại các khoản nợ dựa trên các tiêu chí định lượng như số ngày quá hạn, số ngày gia hạn và cơ cấu nợ Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm là có thể bỏ qua những sai sót trong việc đánh giá các khoản nợ có vấn đề, mặc dù chưa quá hạn nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao.
1.2.3 Phân biệt nợ có vấn đề và nợ xấu trong ngân hàng a Khái ni ệ m n ợ x ấ u
Nợ xấu được xác định khi khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày, hoặc khi lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận Ngoài ra, các khoản thanh toán quá hạn dưới 90 ngày cũng có thể được coi là nợ xấu nếu có lý do nghi ngờ về khả năng thanh toán đầy đủ Hai yếu tố chính để xác định nợ xấu là thời gian quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ, theo định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) đang được áp dụng rộng rãi.
Tại Việt Nam, nợ xấu được định nghĩa theo khoản 8 Điều 3 của Thông tư số 01/VBHN-NHNN, bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) Việc phân biệt giữa nợ có vấn đề và nợ xấu là rất quan trọng trong quản lý tài chính.
Nợ xấu chỉ là một phần trong khái niệm rộng hơn về "nợ có vấn đề" trong ngân hàng thương mại (NHTM) Điều này cho thấy nợ xấu là một bộ phận quan trọng cần được chú ý trong việc quản lý nợ của NHTM.
Nợ có vấn đề có thể được định nghĩa là tổng hợp của nợ xấu, bao gồm các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5, nợ nhóm 2, và các khoản nợ đã xử lý nhưng vẫn đang hạch toán ngoại bảng.
1.2.4 Tác động của nợ có vấn đề đối với NHTM và nền kinh tế a Đố i v ớ i các NHTM
Nợ có vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, và nếu số dư nợ này quá lớn, nó có thể dẫn đến nguy cơ đổ vỡ toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Nợ có vấn đề ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua hai khía cạnh chính Thứ nhất, khoản lãi vay không thu hồi được làm giảm lợi nhuận ngân hàng Thứ hai, nợ có vấn đề dẫn đến việc tăng chi phí do phải trích lập dự phòng rủi ro (DPRR), từ đó làm giảm lợi nhuận tổng thể của ngân hàng.
SỰ CẦN THIẾT VÀ NHIỆM VỤ CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ NỢ CÓ VẤN ĐỀ
1.3.1 Sự cần thiết phải quản trị nợ có vấn đề
Nợ có vấn đề phát sinh có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho từng ngân hàng mà còn ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế Trong quá trình hoạt động, ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng Việc chấp nhận và quản lý rủi ro một cách khoa học là cần thiết để duy trì sự ổn định và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng.
Hiện nay, chưa có định nghĩa chuẩn mực về Quản trị nợ có vấn đề tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Tuy nhiên, theo một số tài liệu không chính thức, Quản trị nợ có vấn đề có thể hiểu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng của ngân hàng nhằm đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững Quá trình này bao gồm việc xác định mức độ rủi ro của các khoản nợ có vấn đề, kiểm soát và hạn chế rủi ro, cũng như xử lý các khoản nợ có vấn đề đã phát sinh, phù hợp với mục tiêu từng giai đoạn của mỗi ngân hàng.
1.3.2 Nhiệm vụ của hoạt động quản trị nợ có vấn đề
Hoạch định phương hướng giúp nhận diện dấu hiệu của các khoản cho vay có vấn đề và xác định nguyên nhân gây ra chúng Kế hoạch này nêu rõ các mục tiêu cụ thể cần đạt được, bao gồm giới hạn an toàn và mức độ sai sót có thể chấp nhận.
Tổ chức cơ cấu và xác định công việc cụ thể là rất quan trọng trong quản trị nợ có vấn đề Cần tham gia xây dựng, sửa đổi và bổ sung các quy chế, cơ chế, quy trình liên quan đến hoạt động này Việc lựa chọn công cụ và kỹ thuật phòng chống rủi ro trong cho vay cũng cần được thực hiện, đồng thời tổ chức các biện pháp phối hợp giữa các cá nhân và các công cụ, kỹ thuật để khắc phục hậu quả từ các khoản nợ có vấn đề.
Lãnh đạo nhân viên thực hiện quy trình nghiệp vụ một cách nghiêm túc, áp dụng các công cụ và kỹ thuật phòng chống rủi ro trong cho vay, đồng thời xử lý và giải quyết hiệu quả hậu quả do nợ có vấn đề gây ra.
Để đảm bảo việc thực hiện kế hoạch đã đề ra, cần tiến hành kiểm tra và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh cũng như các vấn đề phát sinh liên quan đến quản trị nợ có vấn đề Dựa trên những thông tin thu thập được, chúng ta sẽ đề xuất các giải pháp xử lý phù hợp và trả lời các vướng mắc cụ thể trong nghiệp vụ xử lý nợ.
1.4 NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ NỢ CÓ VẤN ĐỀ
Hoạt động quản trị nợ có vấn đề có thể được phân tích từ nhiều góc độ khác nhau Đặc biệt, khi xem xét từ thực tế hoạt động cho vay tại ngân hàng, để đạt được hiệu quả trong quản trị nợ có vấn đề, cần chú trọng vào những nội dung cơ bản sau:
1.4.1 Xác định khoản nợ có vấn đề Đối với CBTD, việc có thể xác định được sớm những khoản nợ có vấn đề là rất quan trọng, bởi vì cần thiết phải tiến hành các biện pháp bổ sung, chỉnh sửa ngay trước khi tình hình trở nên không thể phục hồi lại được CBTD phải có khả năng xác định và hiểu đúng các dấu hiệu nguy hiểm của khoản cho vay, cụ thể: a Các d ấ u hi ệ u t ừ phía khách hàng
- Nhóm 1: Các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
Tài khoản tiền gửi đang gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng như việc phát hành séc vượt quá số dư, khó khăn trong việc thanh toán lương, gia tăng nợ thương mại và không đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn Điều này dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong số dư tài khoản và thường xuyên phải yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau.
Tài khoản tiền vay đang gia tăng đáng kể, với tình trạng thanh toán chậm cho cả gốc lẫn lãi Nhiều khách hàng thường xuyên yêu cầu ngân hàng hỗ trợ đáo nợ và có xu hướng xin vay các khoản vượt quá nhu cầu dự kiến.
Phương thức tài chính hiện tại gặp nhiều vấn đề, bao gồm việc sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho nhu cầu dài hạn, chấp nhận nguồn tài trợ có chi phí cao, làm giảm khoản phải trả và tăng khoản phải thu Hệ số thanh toán có xu hướng giảm sút, trong khi vốn điều lệ cũng đang có chiều hướng sụt giảm.
Nhóm 2 nêu rõ các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng, bao gồm sự thay đổi thường xuyên trong cơ cấu hệ thống quản trị hoặc ban điều hành, sự bất đồng giữa hệ thống quản trị và ban điều hành về mục đích, quản lý điều hành độc đoán hoặc quá phân tán, lập kế hoạch không đầy đủ, quản lý mang tính gia đình, và tranh chấp trong quá trình quản lý.
Nhóm 3 tập trung vào các dấu hiệu liên quan đến thông tin tài chính và kế toán của khách hàng, bao gồm việc chậm trễ trong việc nộp báo cáo tài chính và các số liệu tài chính không đầy đủ Phân tích các chỉ tiêu tài chính có thể chỉ ra sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, sự sụt giảm đột ngột của tiền mặt, doanh số tăng nhưng lợi nhuận thấp hoặc không có, cùng với những biến động trong tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số Ngoài ra, lượng hàng tồn kho và phải thu gia tăng nhanh chóng, thời gian nợ kéo dài, hoạt động kinh doanh thua lỗ, và nguồn vốn không đủ để trả nợ theo kế hoạch cũng là những dấu hiệu đáng lưu ý Việc làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra tài sản vô hình cũng cần được xem xét.
Khoản vay thường xuyên gặp tình trạng chậm trả lãi vào những ngày đã thỏa thuận, hoặc cần nhắc nhở khách hàng mới thực hiện thanh toán Ngoài ra, vốn vay không được sử dụng đúng mục đích, dẫn đến dòng tiền vay bị phân tán và thời gian quay vòng chậm Kế hoạch trả nợ và nguồn hoàn trả cũng không hợp lý, gây khó khăn trong việc quản lý tài chính.
Hồ sơ cho vay thường thiếu sự chặt chẽ và độ tin cậy của thông tin trong hồ sơ bị nghi ngờ, trong khi giá trị thực tế của tài sản đảm bảo (TSĐB) lại thấp Quy trình cho vay không được tuân thủ đúng quy định ngân hàng, và có thể có mối quan hệ đặc biệt giữa cán bộ tín dụng (CBTD) và khách hàng Việc kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của bên vay thường không đầy đủ hoặc sơ sài Ngoài ra, những khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, sự biến động về lãi suất, tỷ giá, thị hiếu, cũng như sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh mới, đều có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của khách hàng vay Thêm vào đó, sự thay đổi về cơ chế, chính sách của nhà nước, đặc biệt là chính sách thuế, cũng như điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, có thể làm gia tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ NỢ CÓ VẤN ĐỀ TRONG CHO VAY CỦA NHTM
1.5.1 Tỷ lệ nợ từ nhóm 2 – nhóm 5/tổng dư nợ (nội bảng)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng trong bảng cân đối kế toán, cho thấy tỷ lệ số tiền mà ngân hàng không thu hồi được khi cho vay Tỷ lệ này càng cao thì rủi ro càng lớn; nếu lớn hơn 10%, ngân hàng được coi là có chất lượng tín dụng yếu kém, trong khi tỷ lệ nhỏ hơn 5% cho thấy nghiệp vụ tín dụng tốt Tuy nhiên, các số liệu để tính chỉ số này chỉ được đo tại một thời điểm nhất định, do đó chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.5.2 Tỷ lệ các khoản nợ có vấn đề đã thu hồi /Tổng dư nợ
Khi khách hàng gặp phải nợ có vấn đề, điều này không nhất thiết có nghĩa là họ không thể trả nợ vay cho ngân hàng Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ có vấn đề, trong đó không ít khách hàng chỉ gặp khó khăn tạm thời nhưng sau đó có thể thu xếp tài chính để trả nợ Việc thu hồi nợ có vấn đề thông qua khách hàng tự trả hoặc phối hợp với ngân hàng để xử lý tài sản đảm bảo là chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá khả năng xử lý nợ của ngân hàng Tỷ lệ nợ có vấn đề thu hồi được so với tổng dư nợ càng cao cho thấy rủi ro mất vốn của ngân hàng thấp, trong khi tỷ lệ này càng thấp thì khả năng mất vốn của ngân hàng càng cao.
1.5.3 Tỷ lệ các khoản nợ xấu đã cấu trúc/tổng dư nợ
Khi nợ xấu phát sinh, ngân hàng và khách hàng cần tìm cách xử lý, trong đó tái cấu trúc nợ xấu thông qua gia hạn, giãn nợ hoặc bán nợ là những phương án phổ biến Mặc dù tái cấu trúc nợ không phản ánh chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng, nhưng nó giúp khách hàng vượt qua khó khăn trong việc trả nợ và đồng thời giảm tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng Tỷ lệ các khoản dư nợ đã tái cấu trúc so với tổng dư nợ càng cao thì tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng thấp, tuy nhiên, tỷ lệ này chỉ cung cấp cái nhìn tương đối về tình hình nợ xấu mà không thể hiện đúng chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.5.4 Tỷ lệ xóa nợ ròng/tổng dư nợ
Nợ xấu thuộc nhóm 5 yêu cầu các ngân hàng thương mại phải trích lập dự phòng rủi ro 100% số dư nợ vay của khách hàng Dù vậy, ngân hàng vẫn cần theo dõi và quản lý khoản nợ, tìm mọi biện pháp để thu hồi Khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng phải xử lý nợ xấu bằng cách thu hồi tài sản đảm bảo Số tiền còn lại không thu hồi được sẽ được xử lý bằng khoản dự phòng đã trích lập, dẫn đến việc xóa nợ ròng Xóa nợ ròng được hiểu là số dư nợ đã xác định thiệt hại và đã được xuất toán ngoại bảng sau khi trừ đi phần thu hồi từ tài sản đảm bảo.
Việc ngân hàng xóa nợ không có nghĩa là khách hàng đã hoàn toàn hết nghĩa vụ trả nợ, do đó ngân hàng vẫn cần theo dõi và thu hồi nợ Tỷ lệ xóa nợ ròng trên tổng dư nợ cao cho thấy nguy cơ mất vốn của ngân hàng gia tăng, có thể dẫn đến sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng thương mại Ngược lại, tỷ lệ này thấp cho thấy rủi ro mất vốn giảm và hiệu quả trong công tác xử lý nợ được cải thiện.
1.5.5 Tỷ lệ trích lập dự phòng/ tổng dư nợ
Mức trích lập dự phòng cụ thể được xác định dựa trên việc phân nhóm nợ và giá trị tài sản đảm bảo của khoản vay, phản ánh mức độ tổn thất tiềm ẩn từ các khoản nợ có vấn đề Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng cũng cần thực hiện trích lập dự phòng chung với tỷ lệ 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Sự giảm của chỉ tiêu này cho thấy ngân hàng đã hiệu quả trong việc hạn chế nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao, ngân hàng có thể đang đối mặt với rủi ro do phải trích lập dự phòng lớn cho các khoản vay, dẫn đến giảm lợi nhuận.
1.5.6 Mức giảm dư nợ ngoại bảng (nợ đã dùng DPRR để xử lý)
Nợ ngoại bảng là khoản nợ đã được xử lý thông qua dự phòng rủi ro (DPRR), cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) chuyển khoản nợ ra hạch toán ngoại bảng và tiếp tục theo dõi quá trình thu hồi Hàng năm, ngân hàng thương mại (NHTM) được giao chỉ tiêu cụ thể về số tiền thu hồi nợ ngoại bảng, và số tiền này sẽ được bổ sung vào lợi nhuận Đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá khả năng hoàn lại vốn của ngân hàng sau thời gian dài Chỉ tiêu này thường được sử dụng để đánh giá kết quả hoạt động của từng chi nhánh trong năm.
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ NỢ CÓ VẤN ĐỀ TẠI NHTM
CÓ VẤN ĐỀ TẠI NHTM
1.6.1 Các nhân tố từ phía ngân hàng
Chính sách tín dụng không hợp lý và sự chú trọng quá mức vào lợi nhuận của ngân hàng đã dẫn đến việc cho vay chỉ tập trung vào lợi tức, bỏ qua các khoản cho vay lành mạnh Hơn nữa, các quy định vay có những sơ hở, tạo điều kiện cho khách hàng lợi dụng và chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
CBTD không tuân thủ quy trình cho vay, dẫn đến việc thẩm định khách hàng không đầy đủ và chính xác Họ cho vay mà không có dự án khả thi, thực hiện cho vay khống và thiếu tài sản đảm bảo Ngoài ra, việc cho vay còn vượt quá tỷ lệ an toàn, và quyết định cho vay thường thiếu thông tin xác thực.
- Thiếu sự giám sát tín dụng do thiếu kiến thức về hoạt động của khách hàng vay vốn
Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gia tăng khi mỗi ngân hàng đều mong muốn chiếm lĩnh tỷ trọng cho vay cao hơn so với các đối thủ Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến tình trạng cho vay quá mức, tức là ngân hàng cho vay vượt khả năng chi trả của khách hàng, gây ra rủi ro tài chính cho cả hai bên.
- CBTD vi phạm đạo đức cho vay như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, vay ké…khi giải ngân hay thu nợ
1.6.2 Các nhân tố từ phía khách hàng
- Khách hàng là cá nhân:
Phần lớn các khoản tín dụng cá nhân được cấp nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, với nguồn trả nợ chính là thu nhập ổn định từ người vay Tuy nhiên, bất kỳ nguyên nhân nào gây mất ổn định thu nhập và cuộc sống của người vay đều có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng Dưới đây là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này.
+ Người vay bị thất nghiệp nên không đảm bảo được mức thu nhập như đã dự kiên ban đầu
+ Người vay gặp những sự cố bất thường trong cuộc sống
Việc người vay không lập kế hoạch ngân quỹ chính xác và không dự đoán đầy đủ các khoản chi tiêu có thể dẫn đến việc xác định sai thu nhập khả dụng để trả nợ ngân hàng.
- Khách hàng là doanh nghiệp:
Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay chủ yếu xuất phát từ sự biến động tiêu cực của kết quả kinh doanh Những rủi ro này có thể xảy ra khi doanh nghiệp không xây dựng và triển khai các phương án đầu tư một cách khoa học, cũng như khi việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng sản xuất không chính xác.
Rủi ro tài chính của doanh nghiệp xảy ra khi doanh nghiệp không thể đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi vay cho chủ nợ Rủi ro này tỷ lệ thuận với mức độ sử dụng nợ và liên quan chặt chẽ đến cơ cấu tài chính của doanh nghiệp, cụ thể là mối quan hệ giữa tài sản và nợ trong bảng cân đối tài sản Nếu doanh nghiệp sử dụng quá nhiều vốn vay để tài trợ cho hoạt động kinh doanh mà không có một cơ cấu vốn hợp lý, rủi ro tài chính sẽ gia tăng Điều này đặc biệt nguy hiểm khi kết quả kinh doanh không đủ để thanh toán lãi vay, dẫn đến tình trạng tài chính bất ổn cho doanh nghiệp.
1.6.3 Các nhân tố khách quan từ môi trường bên ngoài
Nguyên nhân bất khả kháng dẫn đến các khoản nợ xấu thường xuất phát từ thiên tai như bão lụt, hạn hán, hỏa hoạn và động đất Ngoài ra, những thay đổi bất thường không thể lường trước từ phía người tiêu dùng hoặc biến động kỹ thuật trong ngành công nghiệp cũng góp phần làm gia tăng nợ xấu.
Môi trường kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sức mạnh tài chính của người đi vay, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ Điều này không chỉ tác động đến người vay mà còn quyết định thiệt hại hoặc thành công của người cho vay trong các giao dịch tài chính.
Chu kỳ kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của người vay; trong thời kỳ hưng thịnh, lợi nhuận cao giúp người vay hoạt động hiệu quả, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng, khả năng hoàn trả của họ giảm sút Mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng tác động tiêu cực đến cá nhân và doanh nghiệp, làm giảm sức mua của người tiêu dùng, dẫn đến hàng hóa không bán được và lợi nhuận doanh nghiệp giảm Hệ quả là lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất gia tăng nhanh chóng, gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của họ.
- Cơ chế, chính sách của Nhà nước
Các chính sách kinh tế vĩ mô, bao gồm chính sách tài khóa, tiền tệ, thu nhập và kinh tế đối ngoại, cùng với các công cụ của hệ thống chính sách này, ảnh hưởng đến tổng sản phẩm quốc dân, việc làm, lạm phát và tỷ giá hối đoái Mục tiêu của những chính sách này là giảm thiểu sự biến động của chu kỳ kinh doanh trong từng giai đoạn.
Nghiên cứu cho thấy rằng mọi thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô đều tác động đến lãi suất, tỷ giá hối đoái và điều kiện tín dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Những yếu tố này có thể dẫn đến nợ có vấn đề và nợ xấu, từ đó đe dọa sự an toàn trong hoạt động của các NHTM.
Trong lĩnh vực kinh doanh, các yếu tố pháp lý đóng vai trò quan trọng, bao gồm hệ thống luật pháp, các biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật và sự tuân thủ nghiêm ngặt của các bên tham gia hoạt động kinh doanh cùng các ngành liên quan.
Môi trường pháp lý, cùng với môi trường kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) Sự ảnh hưởng của môi trường cho vay có thể mang lại tác động tích cực hoặc tiêu cực, đồng thời có khả năng làm gia tăng hoặc hạn chế nợ xấu trong hoạt động tín dụng của các NHTM.
Trong chương 1, tác giả phân tích vấn đề nợ có vấn đề trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, nhấn mạnh tác động tiêu cực của nó đến hệ thống ngân hàng và nền kinh tế Nợ có vấn đề có thể dẫn đến nợ xấu, gây áp lực phải trích lập dự phòng, từ đó làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận Nếu không được xử lý hiệu quả, nợ xấu có thể tích tụ thành khối nợ tồn đọng, đe dọa đến vốn và gây ra sự đổ vỡ trong hoạt động của ngân hàng thương mại.