1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu những quy định về thương mại dịch vụ trong ASEAN và những tác động đối với Việt Nam.

40 69 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Những Qui Định Về Thương Mại Dịch Vụ Trong ASEAN Và Những Tác Động Đối Với Việt Nam
Tác giả Nhóm 2
Người hướng dẫn TS. Lê Thị Việt Nga
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Kinh Tế Và Kinh Doanh Quốc Tế
Thể loại Bài Thảo Luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 40
Dung lượng 144,51 KB

Cấu trúc

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • I. Hiệp định Thương mại dịch vụ ATISA

    • 1. Giới thiệu chung 

      • 1.1. Hiệp định khung AFAS (Tiền thân của hiệp định thương mại dịch vụ ATISA)

      • 1.2. Hoàn cảnh ra đời ATISA

      • 1.3. Mục tiêu của hiệp định

      • 1.4. Nguyên tắc 

    • 2. Các qui định chung và các gói cam kết

      • 2.1. Dịch vụ tài chính

      • 2.2. Dịch vụ Viễn thông

      • 2.3. Dịch vụ Phụ trợ vận tải hàng không

    • 3. ATISA có gì tiến bộ hơn AFAS

  • II. Tác động của các quy định thương mại dịch vụ đến Việt Nam

    • 1. Thực trạng của ngành thương mại dịch vụ ở Việt Nam hiện nay

    • 2. Cơ hội, thách thức với một số ngành cụ thể

      • 2.1. Cơ hội, thách thức với ngành Dịch vụ tài chính

        • 2.1.1. Cơ hội

        • 2.1.2. Thách thức

      • 2.2. Cơ hội, thách thức của ngành Dịch vụ Viễn thông

        • 2.2.1. Cơ hội của ngành Dịch vụ viễn thông

        • 2.2.2. Thách thức

      • 2.3. Cơ hội, thách thức của ngành dịch vụ phụ trợ vận tải hàng không

        • 2.3.1. Cơ hội 

        • 2.3.2. Thách thức

    • 3. Đề xuất giải pháp, chính sách cho các ngành bị tác động

      • 3.1. Giải pháp phát triển dịch vụ tài chính của Việt Nam trong thời gian tới

      • 3.2. Giải pháp góp phần phát triển ngành viễn thông Việt Nam

      • 3.3. Giải pháp, chính sách thực hiện Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải hàng không

  • III. Kết luận 

Nội dung

Hiệp định Thương mại dịch vụ ATISA

Giới thiệu chung

1.1 Hiệp định khung AFAS (Tiền thân của hiệp định thương mại dịch vụ ATISA)

Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết năm 1995, là một trong những hiệp định quan trọng của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), cam kết nhiều nội dung thiết yếu trong lĩnh vực dịch vụ, góp phần vào mục tiêu thành lập cộng đồng ASEAN.

Tự do hóa thương mại dịch vụ cần được thực hiện bằng cách mở rộng chiều sâu và phạm vi tự do hóa, vượt qua các cam kết tại GATS, nhằm mục tiêu xây dựng một khu vực thương mại tự do về dịch vụ.

 Xóa bỏ đáng kể các hạn chế đối với thương mại dịch vụ giữa các thành viên;

Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đồng thời đa dạng hóa năng lực sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ của các nhà cung cấp.

AFAS đã loại bỏ các biện pháp phân biệt đối xử và hạn chế tiếp cận thị trường giữa các thành viên Đến nay, ASEAN đã ký 09 gói cam kết về thương mại dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực như xây dựng, môi trường, dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp, phân phối hàng hóa, giáo dục, vận tải biển, viễn thông và du lịch Ngoài ra, còn có 7 thỏa thuận công nhận lẫn nhau, 6 cam kết về dịch vụ tài chính và 8 gói cam kết về dịch vụ hàng không Các cam kết trong AFAS có phạm vi rộng và mức độ tự do hóa cao hơn so với các cam kết trong khuôn khổ WTO.

Về đối tượng: Hiệp định khung chỉ áp dụng đối với thể nhân và pháp nhân của các quốc gia thành viên ASEAN.

Việt Nam đã cam kết xóa bỏ yêu cầu về vốn pháp định đối với việc thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ bệnh viện, nha khoa và khám bệnh, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Y tế phát triển.

Trong ngành công nghệ thông tin, Việt Nam cho phép vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lên tới 70% trong liên doanh cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng không có hạ tầng mạng Đối với dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour nội địa, doanh nghiệp FDI phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước nhưng không bị giới hạn về vốn góp Tuy nhiên, loại hình này chỉ được phép cung cấp dịch vụ đưa khách du lịch vào Việt Nam và các dịch vụ lữ hành nội địa nếu nằm trong gói dịch vụ du lịch Việt Nam, trong khi việc đưa khách ra nước ngoài chưa được phép Ngoài ra, theo gói cam kết thứ 9 của AFAS, Việt Nam cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ công viên giải trí, với vốn góp FDI không vượt quá 70%.

Việt Nam cam kết mở cửa dịch vụ vận tải hàng không, cho phép doanh nghiệp FDI hoạt động mà không cần có đại lý hoặc văn phòng bán lẻ tại nước này Các doanh nghiệp cũng được phép cung cấp dịch vụ cho thuê máy bay, dịch vụ giao nhận hàng hóa qua đường hàng không, cũng như các dịch vụ bán, tiếp thị và đặt chỗ bằng máy tính, bao gồm cả dịch vụ cung cấp bữa ăn trên máy bay.

Dịch vụ tài chính là lĩnh vực nhạy cảm, vì vậy các cam kết mở cửa trong lĩnh vực này vẫn còn hạn chế Tại Việt Nam, các cam kết mở trong khuôn khổ AFAS tương đương với các cam kết trong WTO.

1.2 Hoàn cảnh ra đời ATISA

Trong bối cảnh các nước thành viên ASEAN đã ký kết hiệp định AFAS, mục tiêu nâng cao tiêu chuẩn và hiệu lực của quy định dịch vụ, giảm rào cản thương mại và tăng cường minh bạch trong giao dịch dịch vụ giữa các nước là nền tảng cho sự ra đời của Hiệp định Thương mại Dịch vụ ATISA.

Thời gian kí kết: ATISA hoàn tất đàm phán và văn kiện Hiệp định được ký kết ngày

Vào ngày 23 tháng 4 năm 2019, các Bộ trưởng Kinh tế của bảy nước thành viên ASEAN đã ký kết Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN (ATISA) trong khuôn khổ Hội nghị hẹp các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 25 Myanmar đã ký ATISA vào ngày 3 tháng 8 năm 2019, tiếp theo là Việt Nam vào tháng 9 cùng năm Philippines là quốc gia cuối cùng trong ASEAN ký ATISA, vào ngày 7 tháng 10 năm 2020.

1.3 Mục tiêu của hiệp định

Cải thiện tiêu chuẩn quy định trong lĩnh vực dịch vụ khu vực ASEAN, giảm rào cản thương mại dịch vụ không cần thiết và tăng cường tính minh bạch trong từng quốc gia thành viên là những mục tiêu quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành dịch vụ trong khu vực.

- Tăng cường liên kết kinh tế và hỗ trợ phát triển kinh tế.

- Thúc đẩy trao đổi và đầu tư vào khu vực về thương mại dịch vụ.

Giảm bớt rào cản và tăng cường tích hợp các lĩnh vực dịch vụ sẽ tạo ra một môi trường tự do, ổn định và dễ dự đoán hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ trong khu vực.

- Củng cố mối quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên.

- Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên để phát triển kinh tế - xã hội công bằng, bình đẳng và bền vững.

ATISA áp dụng một phương pháp tiếp cận mới, cho phép mở cửa các ngành dịch vụ theo hình thức “chọn-bỏ”, trong đó các bên cam kết mở cửa tất cả các ngành dịch vụ ngoại trừ những ngành hoặc phân ngành được liệt kê trong Danh sách các biện pháp không tương thích.

Các qui định chung và các gói cam kết

Hiệp định ATISA không chỉ bao gồm văn kiện chính mà còn đi kèm với 3 phụ lục ngành, bao gồm Dịch vụ Tài chính, Dịch vụ Viễn thông và Dịch vụ Phụ trợ Vận tải Hàng không Những phụ lục này xác định các nghĩa vụ cụ thể theo từng ngành, nhằm cam kết sâu hơn và tăng cường hợp tác quản lý giữa các bên liên quan.

Phụ lục về dịch vụ tài chính bao gồm 15 điều: Điều 1: Phạm vi

1 Phụ lục này áp dụng cho các biện pháp ảnh hưởng đến việc cung cấp các dịch vụ tài chính Tham chiếu đến việc cung cấp dịch vụ tài chính điện tử trong phụ lục này có nghĩa là việc cung cấp một dịch vụ theo 4 phương thức: Phương thức 1: cung cấp xuyên biên giới; Phương thức 2: tiêu dùng ở nước ngoài; Phương thức 3: hiện diện thương mại; Phương thức 4: hiện diện thể nhân

2 Phụ lục này không áp dụng cho các dịch vụ được cung cấp trong quá trình thực thi thẩm quyền của chính phủ, như:

(a) Hoạt động của ngân hàng TW hoặc cơ quan quản lý tiền tệ trong việc theo đuổi các chính sách tiền tệ hoặc tỷ giá hối đoái

(b) Các hoạt động hình thành một phần của hệ thống an sinh xã hội theo luật định hoặc các kế hoạch hưu trí công cộng.

(c) Các hoạt động khác do một tổ chức công thực hiện cho tài khoản hoặc với sự bảo lãnh hoặc sử dụng tài chính, nguồn lực của Chính phủ.

3 Theo mục đích của Phụ lục này, nếu một Quốc gia Thành viên cho phép bất kỳ hoạt động nào nêu trong điểm 2(b) hoặc 2(c) được thực hiện bởi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính của mình trong cuộc cạnh tranh với một tổ chức công hoặc một nhà cung cấp dịch vụ tài chính, " dịch vụ "sẽ bao gồm các hoạt động như vậy.

4 Để rõ ràng hơn, Phụ lục này sẽ được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có bất kỳ sự mâu thuẫn nào với bất kỳ điều khoản nào khác trong Thỏa thuận này. Điều 2: Định nghĩa

Mục đích của phụ lục:

(a) Cung cấp dịch vụ tài chính xuyên biên giới là việc cung cấp các dịch vụ tài chính tại điểm 1(a) và (b) trong Điều 1 của Phụ lục này;

Tổ chức tài chính là các trung gian tài chính hoặc doanh nghiệp được phép hoạt động, chịu sự quản lý và giám sát của ngân hàng trung ương, cơ quan quản lý tiền tệ hoặc cơ quan dịch vụ tài chính theo quy định của luật pháp các Quốc gia thành viên.

Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ tài chính được cung cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ tài chính trong các Quốc gia Thành viên, bao gồm bảo hiểm, ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác Các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính rất đa dạng và phong phú.

 Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:

(ii) Tái bảo hiểm và nhượng lại;

(iii) Trung gian bảo hiểm, chẳng hạn như môi giới và đại lý;

(iv) Các dịch vụ bổ trợ cho bảo hiểm, chẳng hạn như dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết yêu cầu bồi thường;

 Dịch vụ ngân hàng và tài chính khác (không bao gồm bảo hiểm)

(v) Chấp nhận tiền gửi và các khoản tiền có thể hoàn trả khác từ công chúng;

(vi) Cho vay tất cả các loại, bao gồmtín dụng quốc tế, tín dụng thế chấp, bao thanh toán và tài trợ cho giao dịch thương mại;

(vii) Cho thuê tài chính;

(viii) Các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ tín dụng, thẻ tính phí và thẻ ghi nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng

(ix) Đảm bảo các cam kết quảng cáo;

(x) Giao dịch cho tài khoản riêng hoặc chotài khoản của khách hàng, cho dù trên một sàn giao dịch, thị trường mua bán tự do hay theo cách khác

Tham gia vào các đợt phát hành chứng khoán, bao gồm bảo lãnh phát hành với vai trò đại lý, cả công khai lẫn tư nhân, và cung cấp dịch vụ liên quan đến các vấn đề này.

(xii) Môi giới tiền tệ;

Quản lý tài sản bao gồm các hoạt động như quản lý tiền mặt, danh mục đầu tư, quản lý đầu tư tập thể và quỹ hưu trí Ngoài ra, dịch vụ thanh toán và bù trừ cho các tài sản tài chính như chứng khoán, sản phẩm phái sinh và các công cụ chuyển nhượng khác cũng rất quan trọng trong lĩnh vực tài chính.

(xv) Cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, xử lý dữ liệu tài chính và các phần mềm liên quan.

(xvi) Tư vấn, trung gian và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác về tất cả các hoạt động được liệt kê từ điểm (v) đến (xv).

Nhà cung cấp dịch vụ tài chính là cá nhân hoặc tổ chức thuộc Quốc gia Thành viên, có mục tiêu cung cấp các dịch vụ tài chính, ngoại trừ các tổ chức công.

Dịch vụ tài chính mới là những dịch vụ chưa được cung cấp bởi bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ tài chính nào trong một Quốc gia Thành viên, nhưng lại được triển khai và quản lý từ Quốc gia Thành viên khác Những dịch vụ này có thể bao gồm các sản phẩm tài chính mới hoặc các phương thức phân phối sản phẩm khác nhau.

(f) Tổ chức công có nghĩa là:

Chính phủ, ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý tiền tệ thuộc sở hữu hoặc kiểm soát bởi một quốc gia thành viên, chủ yếu thực hiện chức năng của chính phủ và các hoạt động phục vụ mục đích chính phủ.

(ii) Một thực thể tư nhân thực hiện các chức năng thường được thực hiện bởi ngân hàng TW hoặc cơ quan quản lý tiền tệ.

Tổ chức tự quản lý là các cơ quan phi chính phủ, bao gồm các thị trường, sàn giao dịch chứng khoán, hợp đồng tương lai, cũng như các cơ quan thanh toán bù trừ hoặc thanh toán, và các tổ chức hoặc hiệp hội khác.

(i) Được công nhận là một tổ chức tự quản lý;

Các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện quyền quản lý hoặc giám sát các nhà cung cấp dịch vụ tài chính và tổ chức tài chính trong khu vực của mình, theo quy định của pháp luật hoặc theo sự ủy quyền từ chính quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương.

Mỗi Quốc gia Thành viên chủ nhà sẽ xem xét đơn đăng ký của các tổ chức tài chính từ các Quốc gia Thành viên khác nhằm cung cấp dịch vụ tài chính mới mà không cần sửa đổi luật hiện hành Khi đơn đăng ký được phê duyệt, các dịch vụ tài chính mới phải tuân thủ các quy định về cấp phép, tổ chức và luật pháp của Quốc gia Thành viên chủ nhà.

1 Cho dù có bất kỳ quy định nào khác của Hiệp định này, một Quốc gia Thành viên sẽ không bị ngăn cản việc thực hiện các biện pháp vì lý do thận trọng, bao gồm cả việc bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền, chủ sở hữu hợp đồng hoặc những người có nghĩa vụ ủy thác đối với nhà cung cấp dịch vụ tài chin; hoặc để đảm bảo tính toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính hay đảm bảo sự ổn định của tỷ giá hối đoái tuân theo các điều kiện sau:

ATISA có gì tiến bộ hơn AFAS

Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN (ATISA) đã chính thức thay thế Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS) năm 1995, mang đến nhiều nội dung mới nhằm mở cửa và tự do hóa dịch vụ hơn ATISA được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng mới cho việc thúc đẩy thương mại dịch vụ trong khu vực, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ trong nội khối Điểm khác biệt chính của ATISA so với AFAS là

ATISA đang nỗ lực xây dựng và nâng cao AFAS bằng cách giảm thiểu các rào cản "vượt ra ngoài biên giới" cho các nhà cung cấp dịch vụ Điều này giúp tạo ra một môi trường thương mại dịch vụ ổn định và dễ dự đoán hơn, từ đó tạo tiền đề cho quá trình hội nhập và tự do hóa dịch vụ trong tương lai của ASEAN.

Việc thiết lập các cam kết liên quan đến tự do hóa dịch vụ trong khuôn khổ AMS và AFAS là rất quan trọng, tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tiếp cận thị trường dịch vụ ưu đãi nhất trong ASEAN.

Các cam kết này nhằm giảm bớt các rào cản quy định phân biệt đối xử và thiết lập một cơ chế minh bạch hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ trong khu vực ASEAN.

- ATISA bao gồm một chương trình nghị sự tích hợp cho AMS để chuyển đổi các cam kết

AFAS của họ sang một cách tiếp cận danh sách phủ định.

Theo phương pháp tiếp cận danh sách phủ định, tất cả các lĩnh vực dịch vụ được coi là tự do hóa mặc định, với các quốc gia liệt kê những ngành/phân ngành không được tự do hóa trong Danh sách các biện pháp không tương thích Danh sách này được thiết lập theo cam kết của từng nước thành viên ASEAN, trái ngược với cách tiếp cận danh sách tích cực.

Hiệp định AFAS trước đó chỉ cho phép tự do hóa các ngành dịch vụ mà các nước thành viên đã liệt kê rõ ràng.

Phương pháp tiếp cận mới theo ATISA với hình thức "chọn - bỏ" sẽ mở rộng mức độ tiếp cận dịch vụ hơn so với AFAS, đồng thời thúc đẩy tính minh bạch và cải thiện khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ.

Khi được triển khai, ATISA sẽ trở thành thành phần thứ ba và là phần cuối cùng của các hiệp định ASEAN, góp phần nâng cao sự hội nhập kinh tế và các lĩnh vực trong khu vực ASEAN.

Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) và Hiệp định Đầu tư Toàn diệnASEAN (ACIA).

Tác động của các quy định thương mại dịch vụ đến Việt Nam

Thực trạng của ngành thương mại dịch vụ ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam đã thiết lập quan hệ dịch vụ với nhiều quốc gia thông qua các lĩnh vực như du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động và thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần tạo ra nguồn ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế Hiệp định ATISA được xem là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của ASEAN, với kỳ vọng thúc đẩy thương mại dịch vụ nội khối và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ, bao gồm cả doanh nghiệp Việt Nam.

Thương mại dịch vụ tại Việt Nam đạt 13,6% vào năm 2019, theo báo cáo từ Ngân hàng Thế giới, dựa trên các chỉ số phát triển được tổng hợp từ nguồn thông tin chính thức.

Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam ước đạt 6,3 tỷ USD, giảm 68,4% so với năm trước, trong khi kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước tính đạt 18,3 tỷ USD, giảm 14,5% Nhập siêu dịch vụ trong năm 2020 lên tới 12 tỷ USD, gấp gần 2 lần kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và tăng 10,5 tỷ USD so với năm 2019.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 510,4 nghìn tỷ đồng, và giảm 13% so với 2019

Doanh thu du lịch lữ hành 2020 ước tính đạt 17,9 nghìn tỷ đồng, giảm 59,5% so với năm

Vào năm 2019, việc tạm dừng tiếp nhận khách du lịch quốc tế để kiểm soát dịch Covid-19 đã dẫn đến sự sụt giảm lượng khách quốc tế lên tới 78,7% so với năm trước, trong khi khách du lịch nội địa cũng giảm 27,3% Theo Hiệp hội Vận tải hàng không Quốc tế (IATA), doanh thu ngành hàng không đã giảm 80% trong nửa đầu năm 2020, trong khi các hãng hàng không vẫn phải gánh chịu các chi phí như lương phi hành đoàn, bảo trì, nhiên liệu, phí sân bay và bảo quản máy bay Dự báo của IATA cho thấy các hãng hàng không tại Việt Nam sẽ mất khoảng 4 tỷ USD doanh thu, với Vietnam Airlines dự kiến giảm 50.000 tỷ đồng doanh thu, lỗ 29.000 tỷ đồng và thâm hụt 16.000 tỷ đồng, có nguy cơ mất thanh khoản nếu không nhận được hỗ trợ từ Chính phủ.

Năm 2020, hoạt động vận tải ghi nhận mức tăng trưởng chậm, chỉ đạt 2,4% so với năm trước do ảnh hưởng của dịch Covid-19 Trong 6 tháng đầu năm, dịch bệnh đã làm gián đoạn lưu chuyển hàng hóa và hành khách do thực hiện giãn cách xã hội Tuy nhiên, vào 6 tháng cuối năm, tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát, giúp hoạt động vận tải dần phục hồi Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.586 tỷ đồng, giảm 3,2% so với cùng kỳ, với số lượt hành khách vận chuyển đạt 3.561,9 triệu lượt, giảm 29,6% Ngược lại, doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 4.258 tỷ đồng, tăng 4,5% so với cùng kỳ, mặc dù khối lượng vận chuyển hàng hóa giảm 5,2%, đạt 1.774,6 triệu tấn.

Trong năm 2020, doanh thu viễn thông tại Việt Nam đạt hơn 130.000 tỷ đồng, tăng 0.3% so với năm 2019, nhờ vào xu hướng tăng trưởng trong thời kỳ dịch bệnh Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp phép cho các nhà mạng như Viettel, MobiFone và Vinaphone thử nghiệm thương mại mạng 5G, dự kiến triển khai trong năm 2021 Đặc biệt, dịch vụ Co-location trở nên quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi số, giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn, quản lý và vận hành từ xa hiệu quả, an toàn và bảo mật hơn Theo Điều 10 trong Phụ lục viễn thông của ATISA, các doanh nghiệp nước ngoài trong khối ASEAN sẽ được tự do sử dụng dịch vụ này tại Việt Nam.

Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 534,6 nghìn tỷ đồng, giảm 4% so với cùng kỳ năm

Năm 2019, ngành dịch vụ ghi nhận sự giảm sút do ảnh hưởng của dịch bệnh, với dịch vụ vui chơi giải trí đạt 405 tỷ đồng, giảm 5,4% và dịch vụ giáo dục đào tạo đạt 61 tỷ đồng, giảm 19,6% do học sinh nghỉ học Ngược lại, một số dịch vụ tăng trưởng như dịch vụ y tế đạt 396 tỷ đồng, tăng 9,5%; dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 657 tỷ đồng, tăng 4,3%; dịch vụ hỗ trợ hành chính đạt 619 tỷ đồng, tăng 2,9%; và dịch vụ sửa chữa đạt 294 tỷ đồng, tăng 2,4%.

Cơ hội, thách thức với một số ngành cụ thể

2.1 Cơ hội, thách thức với ngành Dịch vụ tài chính

ATISA nói riêng và các FTA kiểu mới nói chung đã mở ra rất nhiều cơ hội cho ngành dịch vụ tài chính của Việt Nam.

Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ tài chính.

Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam hiện đang có độ mở cửa thấp, với sự phát triển hạn chế trong các lĩnh vực dịch vụ, lao động và khoa học công nghệ Hiệp định ATISA sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính khu vực thông qua các điều khoản trong phụ lục về dịch vụ tài chính, đặc biệt là Điều 14 về cung cấp tài chính xuyên biên giới Điều này không chỉ mở ra cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài, công nghệ và kinh nghiệm từ các quốc gia khác mà còn tạo điều kiện phát triển cho ngành ngân hàng và bảo hiểm Dự báo nhu cầu bảo hiểm sẽ tăng mạnh khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng nhờ chính sách thuế ưu đãi.

Sự tham gia mạnh mẽ của nhà đầu tư nước ngoài sẽ thúc đẩy hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội địa Điều này tạo ra động lực cải cách, buộc các ngân hàng trong nước phải tuân thủ nguyên tắc thị trường và khắc phục những điểm yếu còn tồn tại.

Thứ hai, thúc đẩy sự phát triển các thị trường liên quan và đem lại nhiều tiện ích cho người tiêu dùng

Sự phát triển của dịch vụ tài chính, bao gồm Mobile Banking, Mobile Commerce và E-Commerce, đang thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của thương mại điện tử Ba yếu tố chính thúc đẩy ngành dịch vụ tài chính là: gia tăng sử dụng dịch vụ ngân hàng, tiến bộ công nghệ tài chính và sự hội nhập toàn cầu Nhờ đó, người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính hiện đại và các khoản tín dụng cho sản xuất và tiêu dùng, điều mà trước đây gặp nhiều khó khăn.

Việc tăng cường khả năng huy động vốn quốc tế sẽ giúp Việt Nam thu hút nguồn vốn và đa dạng hóa thị trường tài chính Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong ngành tài chính Việt Nam mở rộng đầu tư ra nước ngoài.

Việc tăng cường sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam sẽ cung cấp nguồn vốn cần thiết và thu hút đầu tư nước ngoài, công nghệ cũng như kỹ năng quản trị cho ngành Tài chính Nếu được tận dụng hiệu quả, đây sẽ là động lực quan trọng cho sự phát triển Đồng thời, các ngân hàng thương mại trong nước sẽ có cơ hội tiếp cận hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn và đào tạo thông qua liên doanh và liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế.

Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng mạnh mẽ, giúp hệ thống ngân hàng cải thiện thanh khoản và tiếp cận nguồn vốn ủy thác toàn cầu với chi phí thấp Điều này không chỉ nâng cao vị thế của Việt Nam mà còn mở ra cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ và kỹ năng quản trị Nếu được khai thác hiệu quả, đây sẽ là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

Thứ tư, công bằng trong đối xử thương mại và tính minh bạch được nâng cao.

Trong phụ lục dịch vụ tài chính của ATISA, các điều khoản như Tính minh bạch, Đối xử Tối huệ quốc và Các biện pháp tự vệ được quy định rõ ràng nhằm đảm bảo công bằng và minh bạch cho các Quốc gia thành viên Nhờ đó, Việt Nam có thể cung cấp dịch vụ tài chính cho các nước trong khối mà không lo bị phân biệt đối xử hoặc phải e dè trước các nước phát triển hơn.

Công bằng và minh bạch trong thị trường dịch vụ tài chính là yếu tố quan trọng, kích thích sức mua của người tiêu dùng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự tin hơn khi cung cấp dịch vụ Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý tài chính, đồng thời loại bỏ các hình thức bảo hộ và bao cấp vốn cho các ngân hàng thương mại trong nước.

Việc mở cửa thị trường tài chính giúp các ngân hàng trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, từ đó nâng cao trình độ quản trị và phát triển sản phẩm dịch vụ mới Điều này đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực mà ngân hàng trong nước còn hạn chế kinh nghiệm, như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ và quản lý rủi ro.

Thứ nhất, về tiếp cận và ứng dụng công nghệ trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 của ngành dịch vụ tài chính Việt Nam.

Sự phát triển của khoa học công nghệ trong Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cả cơ hội và thách thức cho ngành dịch vụ tài chính nội địa Doanh nghiệp Việt Nam đang tụt hậu về công nghệ so với nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực dữ liệu lớn và điện toán đám mây, dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu kém Mặc dù việc sử dụng ví điện tử và dịch vụ kỹ thuật số đang gia tăng, nhưng những dịch vụ này vẫn còn hạn chế và không thay thế được việc gửi tiền vào ngân hàng Nếu không có cơ sở hạ tầng ngân hàng và tài chính phù hợp, người dân sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính.

Thứ hai, cạnh tranh không cân sức với các doanh nghiệp, tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính của nước ngoài.

Theo cam kết hội nhập, Việt Nam cần mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cho các đối tác nước ngoài Trong khuôn khổ ATISA, các quốc gia thành viên phải cho phép các tập đoàn tài chính nước ngoài cung cấp dịch vụ mà không cần thành lập chi nhánh, miễn là các công ty nội địa được phép cung cấp dịch vụ tương tự Điều này tạo ra áp lực lớn đối với các ngân hàng nội địa.

Thị trường tài chính Việt Nam sẽ chứng kiến sự tham gia của nhiều tập đoàn và ngân hàng lớn nhất thế giới, tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt cho các ngân hàng nội địa Điều này đồng nghĩa với việc các điều kiện thị trường sẽ dần được xóa bỏ, đặt ra thách thức lớn cho ngành tài chính trong nước So với các quốc gia khác trong khu vực và toàn cầu, khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, đặc biệt khi các đối tác ASEAN như Singapore, Thái Lan và Malaysia đều sở hữu hệ thống tài chính và ngân hàng phát triển mạnh mẽ.

Sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ cho các ngân hàng nội địa Hiện tại, Việt Nam có khoảng 100 ngân hàng và văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài hoạt động, điều này cho thấy sự gia tăng đáng kể trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

ASEAN đã chính thức hoạt động tại Việt Nam với sự hiện diện của nhiều ngân hàng quốc tế như CitiBank, Kasikorn của Thái Lan, Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS), Maybank (Malaysia) và CIMB Bank Berhad - ngân hàng lớn thứ 2 tại Malaysia.

Các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa đang phải đối mặt với nhiều thách thức tương tự như các ngân hàng Đặc biệt, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cần nắm bắt nhu cầu thị trường để phát triển và cải tiến sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và xu hướng toàn cầu Các lĩnh vực bảo hiểm cần chú trọng bao gồm bảo hiểm công nghệ cao, bảo hiểm cho công trình quy mô lớn và phức tạp, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm hàng hóa xuất khẩu, cùng với bảo hiểm về ô nhiễm môi trường.

Thứ ba, tăng nguy cơ bất ổn tài chính

Đề xuất giải pháp, chính sách cho các ngành bị tác động

3.1 Giải pháp phát triển dịch vụ tài chính của Việt Nam trong thời gian tới

Việt Nam đặt mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới Đối với ngành dịch vụ, cần cơ cấu lại để tăng trưởng cao hơn GDP Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, Việt Nam sẽ thực hiện tái cấu trúc thị trường chứng khoán và bảo hiểm đến năm 2020, cùng với phát triển thị trường trái phiếu và tái cấu trúc các tổ chức tín dụng Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hiện đại của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam theo xu hướng quốc tế.

Để đạt được các mục tiêu và phát triển hiệu quả thị trường dịch vụ tài chính tại Việt Nam, cần tập trung vào việc triển khai một số nội dung quan trọng.

Thứ nhất, đối với TTCK

Cần tiếp tục hoàn thiện Luật Chứng khoán sửa đổi và hệ thống văn bản hướng dẫn để đảm bảo tính minh bạch thông tin và xử lý tranh chấp hiệu quả Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút dòng vốn gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán.

Nghiên cứu và ban hành hướng dẫn chuẩn hóa cho các hoạt động như mở tài khoản trực tuyến, định danh khách hàng, giao dịch trực tuyến và tự động Việc số hóa tài sản tài chính trên thị trường chứng khoán sẽ tạo nền tảng giao dịch vững chắc cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và sáng tạo.

Tiếp tục triển khai Kế hoạch tái cơ cấu thị trường chứng khoán (TTCK) một cách đồng bộ và toàn diện là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động và an toàn hệ thống Cần cơ cấu lại sản phẩm trên thị trường trái phiếu (TTTP) nhằm mở rộng quy mô và đa dạng hóa sản phẩm Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra và thanh tra trong việc huy động, sử dụng vốn và công bố thông tin là rất quan trọng Hợp tác với các hiệp hội nghề nghiệp để kiểm tra chất lượng báo cáo tài chính và từng bước áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế cũng là những bước đi cần thiết Cuối cùng, khuyến khích các tổ chức định mức tín nhiệm uy tín quốc tế hoạt động tại TTCK Việt Nam sẽ góp phần nâng cao chất lượng và độ tin cậy của thị trường.

Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho ngân sách và tạo nền tảng cho thị trường tài chính Đồng thời, cần đẩy mạnh hoạt động thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc huy động vốn phục vụ cho sản xuất và kinh doanh.

Thứ hai, đối với thị trường bảo hiểm

Cần tiến hành rà soát và đánh giá việc triển khai Luật Kinh doanh bảo hiểm nhằm nghiên cứu và xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách và đa dạng hóa các sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Để theo kịp sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, cần phát triển và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm Điều này nhằm phục vụ tốt nhất cho bên mua bảo hiểm và quản lý các tổ chức cung cấp dịch vụ bổ trợ Cần quy định các điều kiện và tiêu chuẩn hoạt động cho từng loại hình dịch vụ bổ trợ tương ứng.

Thứ ba, đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán

Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý để thúc đẩy phát triển kiểm toán độc lập và dịch vụ kế toán ổn định Nghiên cứu sửa đổi quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán Cập nhật các chuẩn mực kế toán Việt Nam dựa trên chuẩn mực quốc tế, phù hợp với điều kiện trong nước Đổi mới chương trình thi và cấp chứng chỉ kế toán viên, kiểm toán viên nhằm đạt sự công nhận quốc tế và khu vực.

Thứ tư, đối với dịch vụ ngân hàng

Cần hoàn thiện khung pháp lý cho tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, tuân thủ các thông lệ quốc tế và đáp ứng nhu cầu hội nhập.

Tiếp tục nghiên cứu và sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) để bổ sung các quy định về ứng dụng công nghệ số Đồng thời, cần ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm thiết lập chuẩn mực chung và tạo ra khuôn khổ pháp lý thử nghiệm cho các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng dựa trên công nghệ mới.

Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ ngân hàng nhằm đơn giản hóa, tự động hóa và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, đồng thời đảm bảo an ninh bảo mật, sẽ tạo nền tảng cho sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của ngân hàng Bên cạnh đó, phát triển các phương thức thanh toán điện tử phù hợp với xu hướng toàn cầu là điều cần thiết.

Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm lành mạnh hóa tài chính, nâng cao năng lực quản trị theo quy định pháp luật và thông lệ quốc tế Cần tăng vốn và cải thiện chất lượng nguồn vốn tự có, đồng thời thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu và nâng cao chất lượng tài sản.

3.2 Giải pháp góp phần phát triển ngành viễn thông Việt Nam

Để phát triển ngành viễn thông Việt Nam, cần áp dụng các giải pháp toàn diện bao gồm: cải thiện thị trường viễn thông, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tăng cường huy động vốn đầu tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cấp hạ tầng mạng lưới viễn thông, thúc đẩy các chương trình khoa học công nghệ, và thiết lập các cơ chế chính sách hỗ trợ từ Nhà nước.

Thứ nhất, nhóm giải pháp về thị trường:

Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam tập trung vào thị trường nội địa, coi đây là ưu tiên hàng đầu Sau khi thiết lập được vị thế vững chắc trong nước, Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng đầu tư ra thị trường khu vực và quốc tế Để thúc đẩy cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng, Nhà nước sẽ tiếp tục mở cửa thị trường Tuy nhiên, Bộ Bưu chính Viễn thông vẫn kiểm soát số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại cố định và di động trên toàn quốc Các biện pháp thực hiện bao gồm duy trì vai trò chủ đạo của VNPT trong phát triển mạng lưới viễn thông, cho phép tư nhân tham gia phát triển dịch vụ tại các địa phương, và đẩy mạnh phát triển dịch vụ giá trị gia tăng Thông qua hợp tác cấp Chính phủ, các doanh nghiệp viễn thông lớn của Việt Nam sẽ từng bước đầu tư và chiếm lĩnh thị trường viễn thông quốc tế.

Ngày đăng: 04/04/2022, 15:06

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w