ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Người chăm sóc chính của người bệnh đột quỵ đang được điều trị và có mặt tại khoa PHCN Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh
Người chăm sóc chính là người đảm nhận việc chăm sóc bệnh nhân hàng ngày, bao gồm các hoạt động như vệ sinh cá nhân, tắm rửa, cho ăn, di chuyển và vận động Thời gian và công việc chăm sóc người bệnh thường chiếm phần lớn trong tổng thời gian của những người chăm sóc.
- Toàn bộ NCSC đã chọn đồng ý, tự nguyện tham gia nghiên cứu, có khả năng nhận thức và giao tiếp để trả lời các câu hỏi
Những người bệnh đã được chẩn đoán liệt nửa người do đột quỵ và lần đầu vào khoa Phục hồi Chức năng (PHCN) sẽ được các bác sĩ chuyên khoa PHCN hướng dẫn thực hiện các bài tập phục hồi chức năng.
- NCSC cho người bệnh bị đột quỵ đang điều trị, có mặt tại khoa trong thời điểm tiến hành nghiên cứu
- NCSC không đồng ý tham gia vào nghiên cứu, có rối loạn về tâm lý, có khiếm khuyết về thính lực, thị lực và ngôn ngữ
- Người nhà không trực tiếp tham gia chăm sóc người bệnh thường xuyên
- Những NCSC cho người bệnh có bệnh lý khác kèm theo (không thể thực hiện được các bài tập PHCN)
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Thời gian nghiên cứu từ 1/2017 đến 4/2017
- Địa điểm: Tại khoa PHCN Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Quảng Ninh
Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp
Can thiệp bằng giáo dục kiến thức và thực hành chăm sóc, phục hồi chức năng cho người chăm sóc chính có đánh giá trước và sau can thiệp
Hình 2.3.1 Sơ đồ qui trình nghiên cứu
Nội dung can thiệp bao gồm việc cung cấp tài liệu và tờ rơi cho người chăm sóc chính của bệnh nhân đột quỵ, nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đột quỵ và thời điểm thực hiện các bài tập phục hồi Đồng thời, chương trình cũng huấn luyện người chăm sóc cách thực hiện các bài tập tư thế đúng cho bệnh nhân, cách lăn trở, tập các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, cũng như cách sử dụng các dụng cụ tập luyện một cách hiệu quả.
Trong quá trình can thiệp giáo dục, nhóm nghiên cứu gồm học viên và hai cộng tác viên là điều dưỡng viên có kinh nghiệm đã thống nhất phương pháp phỏng vấn, hướng dẫn trình tự bài tập và đánh giá kỹ năng thực hiện bài tập của người chăm sóc Sự tham gia tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa phục hồi chức năng cũng được đảm bảo để nâng cao hiệu quả can thiệp.
Thời gian điều trị trung bình của bệnh nhân đột quỵ tại khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh là khoảng 2 tuần Để hiểu rõ hơn về quá trình phục hồi, chúng tôi đã tiến hành thu thập số liệu và nghiên cứu đối tượng tham gia.
(Kiến thức và thực hành PHCN tại nhà cho người bệnh đột quỵ) Đánh giá Trước can thiệp
(Lần 1) Đánh giá Sau can thiệp
So sánh, bàn luận, kết luận thiệp trên NCSC vào các thời điểm:
- Sau khi vào khoa 2 ngày: Tiến hành đánh giá lần 1
+ Đối với kiến thức của NCSC đánh giá bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua bộ câu hỏi có sẵn (Phụ lục 2)
NCSC áp dụng các kỹ thuật đánh giá thực hành thông qua phương pháp quan sát trực tiếp trên người bệnh, sử dụng bảng kiểm để ghi nhận kết quả (Phụ lục 2).
- Trường hợp trong ngày có từ 2 NCSC trở lên sẽ mời cộng tác viên cùng tham gia đánh giá
Tiến hành tổng hợp và phân tích sơ bộ kết quả đánh giá kiến thức và thực hành của NCSC nhằm xác định những thiếu sót và hạn chế trong phục hồi chức năng sau đột quỵ, từ đó xây dựng chương trình can thiệp phù hợp.
Tiến hành can thiệp giáo dục cho NCSC với nội dung phù hợp, sử dụng tài liệu Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, bao gồm tài liệu số 1 về phục hồi chức năng sau tai biến mạch não và tài liệu số 5 về phòng ngừa thương tật thứ phát của Bộ.
Sau 2 ngày kể từ lần đánh giá đầu tiên, Nhà xuất bản Y học sẽ tiến hành đánh giá lại kiến thức và thực hành của NCSC lần thứ hai trước khi bệnh nhân ra viện.
Sau 10 ngày kể từ khi can thiệp giáo dục, chúng tôi đã sử dụng bộ câu hỏi và bảng kiểm tương tự như lần đầu (Phụ lục 2) để so sánh sự thay đổi trong kiến thức và thực hành về phục hồi chức năng (PHCN) sau đột quỵ của NCSC.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Trong nghiên cứu diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2017 tại bệnh viện đa khoa tỉnh QN, có tổng cộng 60 NCSC tham gia Tuy nhiên, 6 trường hợp không đáp ứng yêu cầu do điều kiện và hoàn cảnh gia đình, do đó còn lại 54 NCSC của người bệnh đột quỵ được đưa vào nghiên cứu.
Mẫu nghiên cứu được chọn dựa trên danh sách bệnh nhân đột quỵ điều trị tại Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Quảng Ninh, đảm bảo phù hợp với tiêu chuẩn lựa chọn trong thời gian thu thập dữ liệu Mỗi bệnh nhân sẽ có một người chăm sóc chính được chọn Đối với những trường hợp không có mặt hoặc không thể trả lời phỏng vấn vào thời điểm khảo sát, sẽ tiến hành phỏng vấn vào thời điểm khác.
Phương pháp thu thập số liệu
2.5.1 Công cụ thu thập số liệu
Xây dựng, thử nghiệm và hoàn thiện công cụ nghiên cứu:
Bộ công cụ và bảng kiểm được phát triển theo Quyết định số 1149/QĐ – BYT ngày 01 tháng 4 năm 2008, nhằm phục vụ cho việc phục hồi chức năng (PHCN) cho người bệnh sau tai biến mạch máu não và phòng ngừa thương tật thứ phát Ngoài ra, bộ công cụ này còn tham khảo một số nghiên cứu trước đây về chăm sóc PHCN cho bệnh nhân tai biến mạch máu não.
Các câu hỏi nghiên cứu đã được thiết kế và điều chỉnh để phù hợp với đối tượng và khu vực nghiên cứu cụ thể Trước khi thu thập dữ liệu, bộ công cụ đã được thử nghiệm trên nhóm đối tượng NCSC, những người sẽ không tham gia vào quá trình nghiên cứu chính thức sau đó.
Sau giai đoạn thử nghiệm, công cụ sẽ được chỉnh sửa, hoàn thiện in ấn phục vụ cho điều tra và tập huấn
Bộ công cụ được sử dụng với cùng nội dung cho 2 lần đánh giá trước can thiệp (khi vào viện) và sau can thiệp (trước khi ra viện)
2.5.2 Tiến trình thu thập số liệu
Bước đầu tiên trong nghiên cứu là lựa chọn những người chăm sóc chính đủ tiêu chuẩn và giới thiệu cho họ mục đích, ý nghĩa, phương pháp nghiên cứu cũng như quyền lợi của họ Nếu họ đồng ý tham gia, cần yêu cầu họ ký vào bản đồng thuận (Phụ lục 1) và hướng dẫn cách trả lời các thông tin trong bộ câu hỏi cũng như thực hiện các kỹ thuật phục hồi.
- Bước 2 : Đánh giá trước can thiệp (lần 1)
+ Đánh giá kiến thức của NCSC bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua bộ câu hỏi có sẵn (Phụ lục 2)
+ Đánh giá kỹ năng thực hành bằng phương pháp quan sát NCSC thực hiện các kỹ thuật phục hồi trên người bệnh thông qua bảng kiểm (Phụ lục 2)
Bước 3 trong quá trình can thiệp giáo dục là cung cấp kiến thức và thực hành cho người chăm sóc chính về phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau đột quỵ, nhằm nâng cao khả năng chăm sóc và hỗ trợ hiệu quả.
Bước 4: Đánh giá sau can thiệp (lần 2) là việc đánh giá kiến thức và thực hành của NCSC sau khi thực hiện can thiệp giáo dục, sử dụng bộ câu hỏi và bảng kiểm tương tự như lần 1 (Phụ lục 2).
Các biến số nghiên cứu
TT Biến số Định nghĩa biến Phân loại
Phương pháp thu thập Thông tin chung
Là tuổi của đối tượng nghiên cứu tính theo năm sinh dương lịch đến thời điểm hiện tại
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
2 Giới Giới tính của đối tượng nghiên cứu: nam hoặc nữ
Quan sát/Bộ câu hỏi
Là nghề của đối tượng nghiên cứu ở thời điểm hiện tại và tạo ra thu nhập chính Định danh
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
4 Trình độ học vấn Là trình độ cao nhất mà đối tượng có được
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
5 Địa chỉ Là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống Định danh
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
Kiến thức chung về Đột quỵ
6 Thời điểm tiến hành phục hồi
Là giai đoạn bệnh cho phép thực hiện các bài tập phục hồi Định danh
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
7 Vị trí đặt giường bệnh tốt nhất
Là vị trí đặt giường tạo thuận cho chăm sóc và phục hồi Định danh
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
8 Tư thế đúng tốt nhất
Là tư thế để người bệnh nằm tạo thuận cho việc phục hồi Định damh
Phỏng vấn/Bộ câu hỏi
TT Biến số Định nghĩa biến Phân loại
Phương pháp thu thập Thực hành về các bài tập PHCN cho người bệnh Đột quỵ
Cách đặt toàn thân thể và các bộ phận của thân thể ở yên tại một vị trí nhất định Định danh
10 Cách lăn trở người bệnh
Là cách thay đổi tư thế của toàn thân thể sang vị thế mới Định danh
11 Vận động khớp nhỏ bàn tay
Thay đổi tư thế của các khớp ngón tay và liên đốt ngón tay Định danh
12 Vận động khớp cổ tay
Thay đổi tư thế của khớp cổ tay theo chức năng của khớp Định danh
Thay đổi tư thế của khớp khuỷu theo chức năng gập và duỗi của khớp Định danh
Thay đổi tư thế của khớp vai theo chức năng gập và duỗi của khớp Định danh
Thay đổi tư thế của khớp vai theo chức năng dạng và khép của khớp Định danh
Thay đổi tư thế của khớp háng Theo chiều đưa chi dưới về gần cơ thể Định danh
Thay đổi tư thế của khớp háng theo chiều đưa chân dang ra xa cơ thể rồi trở về vị trí ban đầu Định danh
TT Biến số Định nghĩa biến Phân loại
18 Gập và Duỗi gối Thay đổi tư thế của khớp gối theo chiều đẩy khớp gối và gần cơ thể rồi trở về vị trí cũ Định danh
Gập và Duỗi cổ chân
Thay đổi tư thế của khớp cổ chân theo chiều đẩy bàn chân về phía mu chân và đẩy bàn chân về phía lòng bàn chan Định danh
20 Tập dồn trọng lượng lên chân liệt
Là cách chuyển toàn bộ trọng lượng cơ thể sang chân bị liệt Định danh
21 Tập kỹ thuật bắc cầu
Là cách nâng phần mông và lưng của cơ thể lên khỏi mặt giường tạo với hai chân hơi co Định danh
Tập hoạt động, sinh hoạt hàng ngày
Là các bài tập giúp người bệnh hoàn thành các sinh hoạt hàng ngày Định danh
Là các dụng cụ được thiết kế để giúp người bệnh đạt được hiệu quả luyện tập tốt nhất Định danh
Các khái niệm và tiêu chuẩn đánh giá
PHCN: Giúp người bệnh lấy lại kỹ năng bị mất và làm giảm khuyết tật lâu dài [35]
Người chăm sóc chính là người đảm nhận vai trò chăm sóc hàng ngày cho bệnh nhân, bao gồm các hoạt động như vệ sinh cá nhân, tắm rửa, cho ăn, di chuyển và vận động Thời gian và công việc chăm sóc bệnh nhân thường chiếm phần lớn trong lịch trình của những người chăm sóc này.
NCSC tham gia phỏng vấn, trong đó mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, trong khi câu trả lời sai hoặc không biết sẽ nhận 0 điểm Để đạt yêu cầu kiến thức, thí sinh cần trả lời đúng ít nhất 2/3 tổng số câu hỏi Ngược lại, nếu không trả lời, trả lời sai hoặc đạt dưới 2/3 tổng số câu hỏi, sẽ được coi là không đạt kiến thức.
NCSC thực hiện các kỹ thuật phục hồi theo tiêu chí chấm điểm, trong đó mỗi bước đúng được 1 điểm, trong khi thiếu bước, sai hoặc không thực hiện sẽ nhận 0 điểm Kỹ thuật được coi là đạt yêu cầu khi thực hiện đúng và đủ các bước, hoặc tối thiểu 2/3 số bước trong kỹ thuật Ngược lại, kỹ thuật không đạt nếu không thực hiện, sai hoặc thực hiện dưới 2/3 số bước.
- Xác định đúng/sai dựa trên những nội dung về phục hồi chức năng sau đột quỵ do Bộ Y tế ban hành
Đánh giá sự thay đổi sau can thiệp giáo dục so với trước can thiệp được thực hiện dựa trên sự chênh lệch tỷ lệ trả lời và thực hành đúng cho từng nội dung đánh giá Việc này giúp xác định hiệu quả của can thiệp và cải thiện chất lượng giáo dục.
Xử lý và phân tích số liệu
- Chuẩn bị: kiểm tra lại toàn bộ các phiếu điều tra thu thập được, loại trừ các phiếu điền không đầy đủ.
- Nhập liệu sau khi được làm sạch, nhập 2 lần độc lập và xử lý trên phần mềm SPSS 16.0
- Tính các giá trị phần trăm, giá trị trung bình trước và sau can thiệp, t-test được dùng để so sánh các giá trị trung bình.
Vấn đề đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu này được triển khai sau khi thông qua Hội đồng đạo đức của trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định
- Nội dung nghiên cứu phù hợp, được sự ủng hộ, cho phép của ban Giám đốc
- NCSC tham gia vào nghiên cứu được giải thích rõ ràng về mục đích của nghiên cứu và tự nguyện tham gia vào nghiên cứu
- NCSC sau khi được can thiệp giáo dục mà chưa thực được các kỹ thuật PHCN sẽ được tiếp tục hướng dẫn đến khi thực hiện được
- Nghiên cứu không tiến hành bất cứ can thiệp nào gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, uy tín, danh dự của NCSC
Tất cả thông tin cá nhân liên quan đến NCSC được bảo mật tuyệt đối Dữ liệu từ nghiên cứu chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu và nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng, tuyệt đối không được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác.
Sai số và cách khắc phục
Do điều kiện và hoàn cảnh gia đình, đã có 6 trường hợp thay đổi NCSC sau khi được can thiệp giáo dục, dẫn đến việc những đối tượng này bị loại khỏi danh sách mẫu.
- Sai số do công cụ thu thập số liệu
- Sai số do kỹ năng phỏng vấn của điều tra viên
2.10.2 Biện pháp khắc phục sai số
* Đối với đối tượng được phỏng vấn
- Các bài tập thực hành phải đơn giản dễ thực hiện
- Các khái niệm đưa ra phải rõ ràng, dễ hiểu
- Giải thích rõ mục đích và ý nghĩa của cuộc điều tra để đối tượng hợp tác đảm bảo được tính trung thực
* Đối với nghiên cứu viên
- Thiết kế bộ câu hỏi đơn giản, dễ hiểu để đối tượng dễ trả lời
- Xây dựng bảng kiểm dựa trên bài tập PHCN cộng đồng, có chia mức độ
- Hướng dẫn các bài tập thực hành thật kỹ đến khi NCSC có thể hiểu và làm theo được
- Chọn thời điểm phù hợp về mặt thời gian để phỏng vấn và quan sát
- Thử nghiệm bộ câu hỏi trước khi tiến hành nghiên cứu
- Nhập liệu chính xác và làm sạch số liệu trước khi tiến hành phân tích.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thông tin chung về người chăm sóc chính
Bảng 3.1 Phân bố người chăm sóc chính theo nhóm tuổi và giới
Phần lớn NCSC cho bệnh nhân đột quỵ là nữ, chiếm 59,3%, NCSC là nam chiếm 40,7% Có 85,1% NCSC có độ tuổi ≤ 50 và 14,9 % NCSC có độ tuổi > 50
Biểu đồ 3.1 Phân bố người chăm sóc chính theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp của người chăm sóc chủ yếu bao gồm buôn bán và lao động tự do, chiếm 44,4%, trong khi công chức và viên chức chiếm 33,3% Ngoài ra, 20,4% là những người đã nghỉ hưu, và phần còn lại là các nghề nghiệp khác.
Biểu đồ 3.2 Phân bố người chăm sóc chính theo trình độ học vấn
Phần lớn NCSC có trình độ trung học phổ thông trở lên chiếm 94,4% Sau đó đến trình độ trung học cơ sở chiếm 3,7% Chỉ có 1,9% ở trình độ tiểu học
Đánh giá kiến thức về PHCN sau đột quỵ trước, sau can thiệp của NCSC: 28 3.3 Đánh giá kỹ năng thực hành
3.2.1 Một số kiến thức cơ bản:
Bảng 3.2 Kiến thức của người chăm sóc chính về bệnh đột quỵ
Biết về bệnh đột quỵ
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Có 83,3 % ĐTNC biết đến bệnh đột quỵ Sau can thiệp tỷ lệ này tăng nên 100%
Bảng 3.3 Kiến thức người chăm sóc chính về tầm quan trọng của PHCN NB sau đột quỵ
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Không quan trọng, Hoàn toàn không quan trọng
Có 57,4% NCSC có hiểu biết chưa đúng về tầm quan trọng của PHCN Tỷ lệ NCSC có hiểu biết đúng là rất quan trọng chiếm 42,6% Sau can thiệp đạt 100%
Bảng 3.4 Yếu tố tiếp cận truyền thông của người chăm sóc chính về PHCN cho người bệnh đột quỵ:
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Sách, báo, tạp chí,internet 40 74,1 49 90,7
NCSC có nhiều nguồn thông tin về phục hồi chức năng (PHCN) cho người đột quỵ, với 74,1% người tiếp cận thông qua sách báo, tạp chí và internet, trong khi nguồn tiếp cận từ người thân và nhân viên y tế thấp hơn Sau can thiệp, tỷ lệ người tiếp cận thông tin về PHCN tăng lên đáng kể, với 96,3% từ nhân viên y tế và 90,7% từ sách báo, tạp chí.
Bảng 3.5 Kiến thức của người chăm sóc chính về thời điểm tiến hành PHCN cho người bệnh
Thời điểm PHCN Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Ngay sau khi bị đột quỵ ( Đúng ) 10 18,5 52 96,2
Khi đã điều trị qua giai đoạn cấp (Sai) 34 63,0 1 1,9
Trước can thiệp, chỉ 18,5% bệnh nhân đột quỵ có hiểu biết đúng về thời điểm phục hồi chức năng Tuy nhiên, sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên đáng kể, đạt 96,2% với 52 người.
Bảng 3.6 Kiến thức của người chăm sóc chính về số lần tập/01 động tác
Số lần tập/01 động tác Trước can thiệp Sau can thiệp n % n % Đúng (10- 15 lần) 19 35,2 52 96,3
Sai (Dưới 10 lần, Trên 20 lần, Không biết) 35 64,8 2 3,7
Theo một nghiên cứu, 35,2% người chăm sóc chính hiểu đúng rằng số lần tập cho mỗi động tác nên từ 10 đến 15 lần Sau khi can thiệp, tỷ lệ người trả lời đúng đã tăng lên 96,3%.
Bảng 3.7 Kiến thức của người chăm sóc chính về mức độ quan sát sắc thái của
NB khi tiến hành tập các bài tập
Mức độ quan sát sắc thái người bệnh Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Thỉnh thoảng quan sát , Không quan sát
Theo khảo sát, có 25,9% NCSC hiểu đúng rằng việc quan sát người bệnh trong quá trình tập vận động là cần thiết và phải luôn được thực hiện Sau khi can thiệp, tỷ lệ trả lời đúng của NCSC tăng lên đến 96,3%.
3.2.2 Kiến thức của người chăm sóc chính về PHCN cho người đột quỵ
Bảng 3.8 Kiến thức của người chăm sóc chính về nội dung PHCN cho NB sau đột quỵ
Nội dung việc PHCN sau đột quỵ bao gồm
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Giữ tư thế tốt và đúng để tránh cứng khớp và biến dạng khớp
Tập luyện để duy trì và tăng cường sức mạnh cơ 19 35,2 53 98,1
Giúp người bệnh độc lập tối đa trong sinh hoạt hàng ngày nhờ dụng cụ trợ giúp
Khi được hỏi về nội dung phục hồi chức năng cho bệnh nhân đột quỵ, tỷ lệ người tham gia khảo sát có thể trả lời từ 2 ý trở lên đạt 48,1% Sau khi can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên 98,1%.
Bảng 3.9 Kiến thức của người chăm sóc chính về nội dung chăm sóc tư thế đúng bao gồm
Nội dung Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Nội dung tư thế đúng bao gồm Đặt người bệnh ở tư thế nằm ngửa
36 66,7 47 87,0 Đặt người bệnh ở tư thế nghiêng bên liệt
18 33,3 53 98,1 Đặt người bệnh ở tư thế nằm nghiêng bên lành
Theo Bảng 3.9, tỷ lệ NCSC trả lời đúng từ 2 ý trở lên về chăm sóc tư thế cho người bệnh đạt 51,9% Sau khi can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên 85,2%.
Bảng 3.10 Kiến thức của người chăm sóc chính về tư thế đúng cho người bệnh
Nội dung Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Tư thế đúng tốt nhất cho người bệnh Đặt người bệnh ở tư thế nằm ngửa, nghiêng bên lành, không biết
47 87,0 7 13,0 Đặt người bệnh ở tư thế nghiêng bên liệt
Phía thân bên liệt của người bệnh thỏa nãm
Phía thân bị liệt của người bệnh được hướng ra giữa phòng
Phía thân bị liệt của người bệnh sát tường
Trước can thiệp, chỉ có 13,0% người chăm sóc chính hiểu đúng về tư thế tốt nhất cho bệnh nhân trong quá trình tập vận động, đó là đặt bệnh nhân ở tư thế nghiêng bên liệt Sau can thiệp, tỷ lệ này tăng lên 87,0% Về kiến thức liên quan đến phía thân bên liệt của bệnh nhân, trước can thiệp, chỉ có 18,5% người chăm sóc trả lời đúng rằng phía thân bị liệt nên được hướng ra giữa phòng; sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên 90,7%.
Bảng 3.11 Kiến thức của người chăm sóc chính về mục đích khi đặt tư thế đúng cho người bệnh
Nội dung Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Tư thế đúng của người bệnh nhắm mục đích
Giảm bớt mẫu co cứng 14 25,9 54 100
Thuận tiện trong chăm sóc 24 44,4 52 96,3 Đề phòng loét 27 50,0 39 72,2
Ý nghĩa của việc giữ đúng tư thế cho người bệnh trong quá trình phục hồi chức năng là rất quan trọng Theo khảo sát, 24,1% nhân viên chăm sóc không biết mục đích của việc đặt tư thế đúng, trong khi 25,9% cho rằng mục đích chủ yếu là giảm co cứng Đáng chú ý, 44,4% cho rằng việc này giúp thuận tiện hơn trong chăm sóc và 50% nhận thức được rằng nó có thể phòng ngừa loét Tuy nhiên, chỉ có 46,3% nhân viên chăm sóc trả lời đúng từ 3/4 nội dung liên quan Sau khi can thiệp, tỷ lệ này đã được nâng lên 100%, cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong nhận thức về tầm quan trọng của tư thế đúng.
3.3 Đánh giá kỹ năng thực hành
Bảng 3.12 Kỹ năng của người chăm sóc chính về tư thế nằm ngửa của người bệnh
Tư thế nằm ngửa của người bệnh Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Vai và hông bên liệt được kê gối mềm 25 46,3 51 94,4
Cổ chân được kê vuông góc với cẳng chân 19 35,2 46 85,2
Làm đúng và đủ các bước 26 48,1 54 100
Khi thực hiện kỹ thuật đặt người bệnh nằm ngửa, chỉ có 35,2% NCSC thực hiện bước kê cổ chân vuông góc với cẳng chân, nhưng tỷ lệ này đã tăng lên 85,2% sau can thiệp Đối với bước kê gối mềm cho vai hông bên liệt, tỷ lệ thực hiện ban đầu là 46,3%, và sau can thiệp, con số này tăng cao lên 94,4% Tuy nhiên, chỉ có 48,1% NCSC thực hiện đúng và đủ các bước, nhưng sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên 100%.
Bảng 3.13 Kỹ năng của người chăm sóc chính về tư thế nằm nghiêng bên lành của người bệnh
Tư thế nằm nghiêng bên lành của người bệnh
Trước can thiệp Sau can thiệp
Chân lành để duỗi, thân mình vuông góc với mặt giường
Tay liệt có gối đỡ để vuông góc với thân 20 37,0 50 92,6 Chân liệt có gối đỡ ở tư thế gập háng và gối
Làm đúng và đủ các bước 20 37,0 51 94,4
Kỹ thuật đặt bệnh nhân nghiêng về phía bên lành, với bước chân lành duỗi và thân mình vuông góc với mặt giường, đạt hiệu quả 75,9% trước can thiệp và tăng lên 96,3% sau can thiệp Tỷ lệ NCSC thực hiện đúng và đủ các bước là 37%, nhưng con số này đã tăng lên 94,4% sau can thiệp.
Bảng 3.14 Kỹ năng của người chăm sóc chính về tư thế nằm nghiêng bên liệt của người bệnh
Tư thế nằm nghiêng bên liệt của người bệnh
Trước can thiệp Sau can thiệp
Cánh tay duỗi vuông góc với thân mình, thân mình nửa ngửa, chân liệt duỗi 41 75,9 52 96,3
Chân lành gập ở háng và gối 14 25,9 46 85,2
Làm đúng và đủ các bước 18 33,3 52 96,3
Kỹ thuật đặt người bệnh nghiêng bên liệt bao gồm hai bước: gập vai liệt và gập chân lành ở háng và gối Trước can thiệp, tỷ lệ thực hiện đúng hai bước này chỉ đạt 25,9%, nhưng sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên lần lượt là 77,8% và 85,2% Ngoài ra, tỷ lệ thực hiện đúng và đủ tất cả các bước ban đầu là 33,3%, sau can thiệp con số này đã tăng lên 96,3%.
Bảng 3.15 Kỹ năng của người chăm sóc chính về tập cho người bệnh lăn nghiêng sang bên lành, bên liệt (n= 54)
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Lăn nghiêng sang bên lành
Cài tay lành vào tay liệt 23 42,6 47 87,0
Giúp người bệnh, gập gối và háng bên liệt
Dùng tay lành kéo tay liệt sang phía tay lành
44 81,5 53 98,1 Đẩy hông người bệnh xoay sang bên lành
Làm đúng và đủ các bước 13 24,1 52 96,3
Lăn nghiêng sang bên liệt
Nâng tay và chân lành lên 25 46,3 49 90,7 Đưa chân và tay lành về phía bên liệt
Xoay thân mình sang bên liệt 40 74,1 51 94,4
Làm đúng và đủ các bước 35 64,8 53 98,1
Kỹ thuật lăn nghiêng sang bên lành có tỷ lệ thực hiện đúng và đủ các bước đạt 24,1% trước can thiệp, nhưng sau can thiệp đã tăng lên 96,3% Trong khi đó, kỹ thuật lăn nghiêng sang bên liệt có tỷ lệ thực hiện đúng và đủ các bước là 64,8% trước can thiệp, và con số này đã tăng lên 98,1% sau can thiệp.
Bảng 3.16 Kỹ năng của người chăm sóc chính về tập cho ngươi bệnh ngồi dậy từ tư thế nằm ngửa (n= 54)
Tập cho người bệnh ngồi dậy từ tư thế nằm ngửa
Trước can thiệp Sau can thiệp
Người nhà ngồi bên cạnh người bệnh 33 61,1 48 88,9
Người bệnh bám hai tay vào cánh tay của người thân
Một tay người nhà quàng và đỡ vai NB 39 72,2 53 98,1 Đỡ người bệnh ngồi dậy từ từ 44 81,5 54 0
Làm đúng và đủ các bước 39 72,2 53 98,1
Bảng 3.16 chỉ ra rằng trong quá trình tập cho bệnh nhân ngồi dậy từ tư thế nằm ngửa, tỷ lệ bệnh nhân bám hai tay vào cánh tay của người thân trước can thiệp là 59,3%, nhưng sau can thiệp đã tăng lên 96,3% Ngoài ra, số NCSC thực hiện đúng và đủ các bước cũng tăng từ 72,2% lên 98,1% sau can thiệp.
Bảng 3.17 Kỹ năng của người chăm sóc chính về các động tác tập duy trì và tăng cường sức mạnh cơ
Nội dung Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Các động tác tậpduy trì và tăng cường sức mạnh cơ
Vận động khớp nhỏ ở bàn tay 18 33,3 51 94,4
Vận động khớp cổ tay 39 72,2 53 98,1
Gập và duỗi cổ chân 45 83,3 53 98,1
Tập dồn trọng lượng lên chân liệt 4 7,4 43 79,6
Tập kỹ thuật bắc cầu 3 5,6 29 53,7
Thực hiện đúng và đầy đủ các bước trong quá trình tập luyện là rất quan trọng, với tỷ lệ đạt 13% trước can thiệp và tăng lên 98,1% sau can thiệp Các động tác tập duy trì và tăng cường sức mạnh cơ kỹ thuật chủ yếu là gập, duỗi cổ chân, chiếm 83,3% và tăng lên 98,1% sau can thiệp Trong khi đó, kỹ thuật bắc cầu có tỷ lệ thấp nhất, chỉ 5,6% trước can thiệp, nhưng đã tăng lên 53,7% sau can thiệp.
Bảng 3.18 Kỹ năng của người chăm sóc chính về cách hướng dẫn, giúp người bệnh độc lập tối đa trong sinh hoạt hàng ngày nhờ dụng cụ trợ giúp
Hướng dẫn hoặc giúp cho người bệnh
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Giúp người bệnh tối đa trong sinh hoạt hàng ngày nhờ dụng cụ trợ giúp
Hỗ trợ người bệnh di chuyển từ giường sang xe lăn và ngược lại
Cách giúp người bệnh đứng dậy
39 72,2 54 100 Đi trong thanh song song 7 13,0 46 85,2
Hướng dẫn sử dụng ròng rọc (nạng, bao cát…)
Làm đúng và đủ các bước 7 13,0 49 90,7
Hướng dẫn người bệnh độc lập trong sinh hoạt hàng ngày là rất quan trọng, đặc biệt thông qua việc sử dụng dụng cụ trợ giúp Nghiên cứu cho thấy, NCSC thực hiện thành công 72,2% trong việc hỗ trợ người bệnh di chuyển từ giường sang xe lăn và ngược lại, cũng như giúp người bệnh đứng dậy Tuy nhiên, chỉ có 13,0% người bệnh thực hiện đúng và đủ các bước hướng dẫn Sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên 90,7%, cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện khả năng tự lập của người bệnh.
3.4 Thay đổi kiến thức, thực hành trước và sau can thiệp của NCSC
Biểu đồ 3.3 Đánh giá sự thay đổi kiến thức trước và sau can thiệp của người chăm sóc chính
BÀN LUẬN
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phỏng vấn và quan sát 54 người chăm sóc chính cho bệnh nhân đột quỵ tại Khoa PHCN, bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh cho thấy 59,3% là nữ giới và 26% là nam giới, tương tự tỷ lệ 72% nữ và 28% nam trong nghiên cứu của Stein J về kỳ vọng phục hồi chức năng Điều này cho thấy phụ nữ thường đảm nhận vai trò chăm sóc bệnh nhân đột quỵ, phù hợp với trách nhiệm của họ trong gia đình Phần lớn người chăm sóc chính dưới 50 tuổi (85,1%), đảm bảo sức khỏe tốt cho việc chăm sóc và thực hiện các bài tập phục hồi, trong khi những người trên 50 tuổi (14,9%) thường là vợ/chồng của bệnh nhân, phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam.
Theo khảo sát, 44,4% ĐTCS làm nghề buôn bán tự do, trong khi 33,3% là công chức viên chức, phản ánh đúng thực tế gia đình Những người làm tự do có khả năng linh hoạt về thời gian, giúp họ chăm sóc người bệnh hiệu quả hơn Ngoài ra, 20,4% là nội trợ và hưu trí, chủ yếu là vợ hoặc chồng của người bệnh, họ cũng là những người phù hợp để chăm sóc nửa kia của mình.
Trình độ học vấn của người chăm sóc chính chủ yếu là trung học phổ thông trở lên, chiếm 94,4%, trong khi trung học cơ sở chiếm 3,7% và tiểu học chỉ chiếm 1,9%, không có ai mù chữ Kết quả này có sự khác biệt so với nghiên cứu của Trần Văn Lệ (71%) do địa bàn nghiên cứu tại thành phố Hạ Long, nơi có dân trí cao hơn Mặc dù có sự khác biệt, trình độ học vấn của các đối tượng vẫn đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn và phù hợp với can thiệp truyền thông, giáo dục sức khỏe, vì họ đều có khả năng đọc và viết thành thạo.
Kiến thức của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng cho người bệnh đột quỵ trước và sau can thiệp
Tai biến mạch máu não là tình trạng bệnh lý đột ngột, cấp tính ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương do giảm cung cấp máu đến não Các triệu chứng thường gặp bao gồm liệt nửa người và mặt cùng bên, tê bì, rối loạn cảm giác nửa thân, khó nói, hoặc khó nhìn, có thể kèm theo hôn mê hoặc rối loạn tri giác Bệnh thường xảy ra đột ngột, có thể không có dấu hiệu báo trước như đau đầu hay buồn nôn Trong vài phút hoặc giờ, người bệnh có thể bị liệt hoàn toàn nửa người, bao gồm cả mặt, tay và chân cùng bên Ngoài liệt nửa người, các triệu chứng khác có thể bao gồm nói ngọng, tê bì nửa người, lẫn lộn, và mất kiểm soát đại tiểu tiện.
Việc phục hồi chức năng cho người bệnh sau đột quỵ rất quan trọng, giúp cải thiện dần dần các chức năng cơ thể Các thành viên trong gia đình, đặc biệt là người chăm sóc chính, đóng vai trò then chốt trong quá trình này Họ không chỉ hỗ trợ bệnh nhân phục hồi về mặt thể chất và tinh thần, mà còn là cầu nối giúp bệnh nhân hòa nhập với cộng đồng.
1 cách hiệu quả đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống
4.2.1 Kiến thức cơ bản của người chăm sóc chính trong phục hồi chức năng cho bệnh nhân đột quỵ
Theo khảo sát, 83,3% thành viên NCSC đã nghe về bệnh đột quỵ, cho thấy đây là một mối quan tâm lớn trong cộng đồng và gia đình Tuy nhiên, phần lớn trong số họ vẫn chưa nắm rõ thông tin về bệnh, đặc biệt là cách chăm sóc và phục hồi chức năng cho người thân bị đột quỵ.
Tầm quan trọng của phục hồi chức năng (PHCN) cho người bệnh sau đột quỵ không thể xem nhẹ, vì hậu quả của bệnh không chỉ ảnh hưởng đến bản thân người bệnh mà còn tạo gánh nặng cho gia đình và xã hội PHCN giúp người bệnh cải thiện chức năng và hồi phục khả năng vận động tối thiểu, từ đó hỗ trợ họ trong sinh hoạt hàng ngày, giảm bớt áp lực cho người thân và cộng đồng Các thành viên trong gia đình và người chăm sóc đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự sống sót của bệnh nhân, phòng ngừa tái phát đột quỵ và nâng cao hiệu quả phục hồi Theo nghiên cứu, 42,6% người chăm sóc đã nhận thức được tầm quan trọng của PHCN, cho thấy mặc dù tỷ lệ này chưa cao, nhưng ý thức về vai trò của phục hồi chức năng đã được nâng cao.
Trong thời đại công nghệ hiện đại với điện thoại thông minh và máy tính bảng, việc NCSC tiếp cận thông tin trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn bao giờ hết Điều này cho thấy rằng cùng một thông tin, người nghiên cứu có thể thu nhận qua nhiều phương tiện truyền thông khác nhau Tuy nhiên, sự phổ biến của công nghệ điện tử cũng làm giảm thiểu sự trao đổi trực tiếp giữa các thành viên trong gia đình cũng như giữa nhân viên y tế và người nhà bệnh nhân Theo nghiên cứu, 44,4% NCSC nhận thông tin qua nhân viên y tế, và sau can thiệp, tỷ lệ này tăng lên 96,3% Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của điều dưỡng và kỹ thuật viên phục hồi trong việc tuyên truyền và giáo dục sức khỏe.
Thời điểm tiến hành phục hồi chức năng cho người bệnh đột quỵ rất quan trọng và cần thực hiện sớm, tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển của bệnh Trong giai đoạn cấp, chăm sóc và phục hồi chức năng cần được tiến hành ngay lập tức Một nghiên cứu cho thấy chỉ có 18,5% người chăm sóc nhận thức đúng về thời điểm bắt đầu phục hồi chức năng ngay sau khi bị đột quỵ Việc thiếu hiểu biết về thời điểm này có thể làm giảm cơ hội phục hồi do chậm trễ Tuy nhiên, sau khi được can thiệp giáo dục từ các điều dưỡng và kỹ thuật viên phục hồi, tỷ lệ nhận thức đúng đã tăng lên 96,2%, cho thấy tầm quan trọng của việc can thiệp giáo dục trong quá trình phục hồi.
Việc thực hiện các động tác phục hồi chức năng cho người bệnh đột quỵ cần được tiến hành đều đặn và thường xuyên với cường độ phù hợp để đạt hiệu quả cao Mỗi động tác nên được tập từ từ, từ 10 đến 15 lần, và nhận thức đúng về tần suất tập là yếu tố quan trọng giúp tăng cường hiệu quả phục hồi Tỷ lệ NCSC trả lời đúng về tần suất tập trước can thiệp chỉ đạt 35,2%, nhưng sau can thiệp đã tăng lên 96,3% Bên cạnh đó, việc quan sát sắc thái và nét mặt của người bệnh trong quá trình tập luyện cũng rất cần thiết để điều chỉnh cường độ phù hợp, vì người bệnh có thể cảm thấy đau đớn hoặc quá sức Tỷ lệ quan sát sắc thái trước can thiệp là 25,9%, nhưng sau can thiệp đã tăng lên 96,3%, cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong hiệu quả can thiệp.
4.2.2 Kiến thức về PHCN cho người đột quỵ Ở người bệnh đột quỵ hậu quả để lại nặng nề nhất phải kể đến đó là hệ vận động 92,96% [2] Người bệnh bị yếu hoặc liệt ẵ người dẫn đến khú khăn trong, đi lại, di chuyển và sinh hoạt hàng ngày Việc PHCN cho người bệnh cần được tiến hành toàn diện và đồng thời nhất là trên hệ vận động cùng lúc 3 nội dung Phần lớn đối tượng trước can thiệp cho rằng PHCN cho người đột quỵ chủ yếu là tập cho người bệnh độc lập tối đa trong sinh hoạt hàng ngày nhờ dụng cụ trợ giúp (66,7%) Như vậy có thể thấy rằng mong muốn chung của tất cả những người thân trong gia đình người bệnh đều là tự họ có thể độc lập trong sinh hoạt, phục vụ bản thân Tuy vậy có 48,1% trả lời đúng trên 2 ý, tỷ lệ này tăng cao sau can thiệp
Chăm sóc tư thế cho người bệnh đột quỵ đóng vai trò quan trọng trong cả giai đoạn cấp và sau điều trị Nghiên cứu cho thấy 51,9% nhân viên chăm sóc hiểu biết về chăm sóc tư thế đúng, tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Lệ (18,2%) Đáng chú ý, 66,7% cho rằng tư thế đúng là nằm ngửa, cho thấy thói quen của người chăm sóc chưa đa dạng Do đó, việc nâng cao kiến thức cho nhân viên chăm sóc về tư thế đúng là rất cần thiết, đặc biệt khi người bệnh trở về nhà Nhân viên y tế cần cung cấp thông tin và hướng dẫn để hỗ trợ người bệnh và gia đình trong việc chăm sóc phục hồi chức năng tại nhà, nhằm cải thiện sức khỏe và phòng ngừa biến chứng.
Mẫu co cứng thường gặp ở bệnh nhân đột quỵ là gập ở chi trên và co cứng duỗi ở chi dưới Sau vài tháng, bệnh nhân liệt nửa người có thể gặp phải tình trạng co cứng cơ, khiến cho cử động bên liệt trở nên khó khăn Để phòng ngừa co cứng, việc vận động tay và chân liệt cần được thực hiện sớm trong giai đoạn cấp, với sự hỗ trợ từ người chăm sóc hoặc gia đình Nghiên cứu cho thấy, chỉ có 18,5% người nhà nhận thức được rằng phía thân liệt cần hướng ra giữa phòng, nhưng con số này đã tăng lên 90,7% sau can thiệp Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Đông, nghiên cứu của Nguyễn Văn Lệ cho thấy có 92% bệnh nhân được chăm sóc đúng cách.
Nghiên cứu cho thấy có khoảng 42,3% bệnh nhân (NB) tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đắc Lắk và 56,1% bệnh nhân trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai có nhu cầu được chăm sóc về vị trí nằm đúng trên giường Tuy nhiên, chỉ có 10% bệnh nhân nhận được sự hướng dẫn từ điều dưỡng viên Việc duy trì tư thế đúng không chỉ mang lại cảm giác dễ chịu mà còn là yếu tố quan trọng trong quá trình hồi phục của bệnh nhân, đặc biệt ngay từ giai đoạn đầu của bệnh Do đó, điều dưỡng viên cần có kiến thức đầy đủ về chăm sóc tư thế đúng để tăng cường khả năng phục hồi cho bệnh nhân.
Việc giữ tư thế đúng cho người bệnh có tác dụng quan trọng, với 25,9% nhân viên chăm sóc biết rằng mục đích là giảm co cứng, 44,4% hiểu rằng điều này giúp việc chăm sóc dễ dàng hơn, và 50% nhận thức được mục đích phòng ngừa loét, trong khi 24,1% vẫn chưa nắm rõ Phục hồi chức năng ở giai đoạn sớm giúp bệnh nhân giảm co cứng và biến dạng khớp do thiếu vận động và dinh dưỡng Đặt đúng tư thế còn giúp người bệnh phòng chống loét, một vấn đề phổ biến ở bệnh nhân đột quỵ nếu không được chăm sóc đúng cách.
Kỹ năng thực hành của NCSC về PHCN cho người bệnh đột quỵ trước và
Đột quỵ có thể gây ra yếu hoặc liệt một nửa cơ thể, khiến người bệnh gặp khó khăn trong việc lăn trở, thay đổi tư thế và giữ thăng bằng Họ thường gặp khó khăn khi ngồi dậy, đứng lên và di chuyển Ngoài ra, việc thực hiện các hoạt động hàng ngày như ăn uống, rửa mặt, đánh răng và thay quần áo cũng trở nên khó khăn do hạn chế trong cử động tay và thân Do đó, việc tập vận động là rất cần thiết để cải thiện khả năng vận động và phục hồi chức năng cho người bệnh.
Việc phục hồi vận động giúp người bệnh dần độc lập trong sinh hoạt hàng ngày, tự chăm sóc bản thân và phục vụ chính mình Điều này không chỉ giảm gánh nặng cho gia đình mà còn góp phần giảm áp lực cho xã hội.
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Lệ về chăm sóc phục hồi chức năng tại nhà cho bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2014, có 75% bệnh nhân mong muốn luyện tập tay chân hai bên, nhưng 33,3% nhu cầu này chưa được đáp ứng Đặc biệt, 96,6% bệnh nhân cần được vận động tay chân liệt, trong khi 32% chưa nhận được hướng dẫn từ nhân viên chăm sóc Ngoài ra, 50% bệnh nhân cần hỗ trợ tập ngồi, 92,3% mong muốn tập đứng và 51,9% cần tập đi, nhưng tỷ lệ không được đáp ứng lần lượt là 65,4%, 59,3% và 50%.
Kỹ thuật đặt bệnh nhân nằm ngửa cho thấy 48,1% NCSC thực hiện đúng và đủ các bước, tỷ lệ này sau can thiệp tăng lên 100% Tuy nhiên, chỉ có 35,2% thực hiện đúng bước kê cổ chân vuông góc với cẳng chân, trong khi cổ chân bên liệt thường xoay ngoài do không có trương lực cơ và co rút của gân asin, gây khó khăn cho bệnh nhân trong việc di chuyển Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm sóc tất cả các khớp, đặc biệt là bên liệt, và đặt đúng tư thế để hỗ trợ phục hồi Đối với kỹ thuật nằm nghiêng, chỉ có 37% và 33,3% NCSC thực hiện đúng và đủ các bước, cho thấy kỹ năng chưa tốt trong việc thay đổi tư thế bệnh nhân, dẫn đến nguy cơ tuần hoàn kém và loét do đè ép.
Kỹ năng tập cho NB lăn nghiêng sang bên lành, bên liệt là 24,1% và 64,8%
Tỷ lệ lăn nghiêng sang bên liệt ở người bệnh cao gấp gần 3 lần so với bên lành Khi lăn sang bên liệt, người bệnh có lợi thế là bên lành có thể thực hiện các thao tác sinh hoạt một cách chủ động, như cầm nắm đồ vật mà không cần sự trợ giúp từ người thân Chính vì lý do này, NCSC thường khuyến khích người bệnh lăn nghiêng sang bên liệt nhiều hơn để giảm thiểu sự phụ thuộc vào người khác.
Kỹ thuật tập cho người bệnh ngồi dậy từ tư thế nằm ngửa đạt tỷ lệ thực hiện đúng và đủ các bước lên đến 72,2%, gấp đôi so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Lệ Các bước trong kỹ thuật này đều được NCSC thực hiện trên 50%, cho thấy đây là một kỹ thuật quen thuộc mà họ thực hiện nhiều lần trong ngày để hỗ trợ người bệnh đi lại hoặc vệ sinh cá nhân.
Chỉ 13% NCSC thực hiện các động tác tập duy trì và tăng cường sức mạnh cơ, trong đó hai động tác dồn trọng lượng lên chân liệt và kỹ thuật bắc cầu có tỷ lệ thực hiện dưới 10% Điều này cho thấy NCSC chưa có kỹ năng tốt hoặc chưa nắm vững kiến thức để thực hiện đầy đủ các động tác Hai kỹ thuật này có độ khó cao hơn và cần được hướng dẫn tỉ mỉ Ngược lại, tỷ lệ NCSC thực hiện các động tác gập duỗi khủy tay và gập duỗi gối đạt trên 80%, cho thấy đây là những thao tác dễ thực hiện và đơn giản hơn.
Theo kết quả khảo sát, chỉ có 13% nhân viên chăm sóc sức khỏe (NCSC) thực hiện đúng và đủ các bước hướng dẫn giúp người bệnh trong sinh hoạt hàng ngày Trong đó, hai bước hỗ trợ người bệnh di chuyển từ giường sang xe lăn và ngược lại, cũng như giúp người bệnh đứng dậy, đạt tỷ lệ thực hiện 72,2%, cao hơn nhiều so với các bước còn lại Điều này cho thấy hai bước đầu tiên thường xuyên xảy ra trong ngày và được NCSC thực hiện tốt hơn Ngược lại, hai bước còn lại yêu cầu sự hướng dẫn và hỗ trợ từ nhân viên y tế, do đó NCSC gặp khó khăn trong việc thực hiện.
Kết quả của can thiệp
Đánh giá kiến thức của NCSC về phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân đột quỵ cho thấy sự cải thiện đáng kể sau can thiệp Trước can thiệp, chỉ có 7,4% NCSC có kiến thức đạt yêu cầu, trong khi 92,6% không đạt Sau khi thực hiện can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe, tỷ lệ NCSC có kiến thức đạt đã tăng lên 96,3%, cho thấy sự hiệu quả của can thiệp Điểm trung bình kiến thức của NCSC trước can thiệp là 5,57 ± 2,44, và sau can thiệp tăng lên 11,98 ± 1,21, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001) Về khả năng thực hành, trước can thiệp chỉ có 5,6% NCSC thực hiện được các kỹ thuật PHCN, nhưng sau can thiệp, tỷ lệ này đã thay đổi rõ rệt với 98,1% NCSC thực hiện thành công.
Việc thay đổi tư thế cho bệnh nhân đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi, giúp hạn chế biến chứng trên da và hệ hô hấp Điểm trung bình của NCSC về việc thay đổi tư thế là 10,56 ± 2,82, trong khi sau can thiệp, điểm kỹ năng tăng lên 18,30 ± 1,96 Để giảm thiểu biến chứng co cơ cứng khớp và cải thiện chức năng sinh hoạt, NCSC cần phát triển kỹ năng thực hành về các bài tập duy trì và tăng cường sức mạnh cơ Điểm kỹ năng thực hành cho bệnh nhân sau đột quỵ trước can thiệp là 6,83 ± 2,21, và sau can thiệp, điểm này tăng lên 13,96 ± 3,41, với mức thấp nhất là 10 điểm và cao nhất là 30 điểm Sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê với p