CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1 Khái quát về an toàn truyềnmáu
• Máu và các chế phẩm từmáu
Máu là một mô lỏng màu đỏ, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tuần hoàn của cơ thể Nó bao gồm các thành phần hữu hình như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, cùng với huyết tương, trong đó chứa các chất dinh dưỡng, chất vận chuyển và các yếu tố đông máu.
Từ máu toàn phần người ta đã chiết tách ra các chế phấm máu khác nhau để phù hợp với nhu cầu điều trị của người bệnh [2]
Hình 1.1: Máu toàn phần và một số chế phẩm từ máu
Các hệ nhóm máu đã được xác định bao gồm ABO, Rh, Kell, Duffy, Kidd và Lewis Tuy nhiên, tại Việt Nam, hai hệ nhóm máu ABO và Rh là những hệ nhóm máu có ý nghĩa lâm sàng quan trọng nhất trong thực hành truyền máu.
Dựa trên sự có mặt của kháng nguyên trên hồng cầu và kháng thể trong huyết thanh, người ta chia nhóm máu hệ ABO thành 4 nhóm: A, B, AB và O
• Quy tắc truyền máu dựa trên hệ nhómABO
Truyền cùng nhóm máu: Người bệnh nhóm máu nào thì truyền nhóm máu đó và truyền theo chỉ định của Bác sỹ
Trong tình huống cấp cứu, khi không có máu cùng nhóm, có thể thực hiện truyền máu khác nhóm nhưng không vượt quá 250ml, theo quy tắc truyền máu tối thiểu và dưới sự chỉ định của bác sĩ.
Hình 1.2: Sơ đồ cho - nhận các nhóm máu hệ ABO
Truyền máu toàn phần là phương pháp quan trọng giúp tăng khối lượng tuần hoàn và bù đắp lượng máu đã mất cho bệnh nhân trong các trường hợp mất máu cấp tính do chấn thương, phẫu thuật hoặc chảy máu ồ ạt.
Truyền khối hồng cầu: Tăng khả năng cung cấp oxy khi thiếu máu không hồi phục hoặc thiếu máu nặng mất bù, như trong bệnh: Thalasemia, suy tuỷ
Truyền tiểu cầu và huyết tương: Tăng khả năng đông máu và cầm máu
Truyền bạch cầu, gamma globulin, albumin: Tăng khả năng đề kháng và chống nhiễm khuẩn [4]
• Các phản ứng bất lợi do truyềnmáu
Phản ứng sớm: Tan máu cấp, khó thở, sốt rét run, dị ứng
Các phản ứng muộn sau truyền máu, bao gồm tan máu muộn, xuất huyết giảm tiểu cầu, nhiễm khuẩn và nhiễm virus, có thể xảy ra chậm, từ vài ngày đến hàng tháng sau khi truyền Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2008, những dấu hiệu đầu tiên của phản ứng truyền máu có thể xuất hiện chỉ trong vài phút đầu sau khi bắt đầu quá trình truyền.
• Nguyên tắc thực hiện hoạt động truyềnmáu
Máu và các chế phẩm máu chỉ được sử dụng cho mục đích chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học Thông tin liên quan đến người hiến máu, người nhận máu và chế phẩm máu phải được giữ bí mật Đảm bảo an toàn cho người hiến máu, bệnh nhân nhận máu, chế phẩm máu và nhân viên y tế là rất quan trọng Việc thực hiện truyền máu cần phải hợp lý đối với từng bệnh nhân.
• Qui trình sử dụng máu cho ngườibệnh
Bác sĩ sẽ chỉ định truyền máu cho bệnh nhân, sau đó tiến hành đăng ký máu và gửi mẫu máu đăng ký đến Khoa Truyền máu Tại đây, nhóm máu sẽ được xác định và thực hiện phản ứng hòa hợp miễn dịch Sau khi phát máu, điều dưỡng sẽ lĩnh máu về khoa và thực hiện quy trình kỹ thuật truyền máu cho bệnh nhân Cuối cùng, quá trình sẽ được theo dõi để đảm bảo an toàn cho người bệnh.
NB trước, trong và sau khi truyền máu [2]
Bảng 1.1 Quy trình kỹ thuật truyền máu
B1 Xem hồ sơ bệnh án, phiếu lĩnh máu, phiếu chỉ định truyền máu, thực hiện 5 đúng
Thông báo và giải thích về thủ thuật sắp tiến hành trên người bệnh
B3 Đánh giá tình trạng người bệnh đo dấu hiệu sinh tồn hướng dẫn người bệnh đại tiểu tiện trước khi tiến hành
2 Chuẩn bị người điều dưỡng
B4 Trang phục y tế đúng quy định
Trụ cắm kẹp Kose, khay chữ nhật, khay quả đậu vô khuẩn, cốc đựng bông cồn 70, gạc phủ vùng truyền, băng dính, dung dịch sát khuẩn tay nhanh và bình xịt tráng khay (nếu có) là những dụng cụ y tế cần thiết trong việc đảm bảo vệ sinh và an toàn trong quy trình chăm sóc sức khỏe.
Túi máu và các thiết bị y tế cần thiết bao gồm bộ dây truyền máu, bơm 5 ml, kim luồn, dây garo, bộ huyết thanh mẫu, phiến đá men, que khuấy, và hộp chống sốc Để theo dõi tình trạng bệnh nhân, cần sử dụng huyết áp kế và ống nghe Ngoài ra, việc sử dụng một đôi găng tay vô khuẩn và một đôi găng tay sạch là rất quan trọng để đảm bảo an toàn trong quá trình thực hiện.
B9 Dụng cụ phân loại rác
B10 Thông báo lại với người bệnh về thủ thuật sắp tiến hành
B11 Đối chiếu lại giữa túi máu và phiếu lĩnh máu và người bệnh
B12 Điều dưỡng tiến hành lấy máu của người bệnh
B13 Điều dưỡng đi găng sạch, làm phản ứng định nhóm tại giường đúng kỹ thuật dưới sự giám sát của bác sỹ
B15 Kiểm tra lại túi máu, lắc nhẹ nhàng túi máu
B16 Xé túi dây truyền Cắm đầu dây truyền vào túi máu
B17 Treo túi máu lên cọc truyền và đuổi khí Cắt băng dính
B18 Gắp bông vào khay quả đậu, mang khay tới giường người bệnh
Giúp người bệnh ở tư thế thuận lợi, bộc lộ, xác định vị trí tĩnh mạch, đặt dây garo Thắt dây garo, sát khuẩn vị trí truyền hai lần
B20 Điều dưỡng mang găng tay vô khuẩn
Căng da và đâm kim luồn qua da đúng kỹ thuật Lắp dây truyền, mở khóa cho máu chảy quan sát sắc mặt, động viên người bệnh
B22 Cố định kim luồn, đặt gạc phủ vùng truyền Điều chỉnh tốc độ truyền theo y lệnh
B23 Thu dây garo Dặn người bệnh những điều cần thiết
B24 Phân loại rác theo quy định, xịt cồn 70 tráng khay quả đậu dùng bông lau khô.Tháo găng tay
B25 Theo dõi thường xuyên người bệnh, viết phiếu truyền máu
1đ: Có thực hiện nhưng chưa tốt
• Thực hiện và theo dõi truyền máu tại đơn vị điềutrị
Bác sĩ điều trị và điều dưỡng viên cần thực hiện kiểm tra và đối chiếu nhóm máu, theo dõi quá trình truyền máu, đồng thời phát hiện và xử trí kịp thời các bất thường cũng như tai biến không mong muốn trong và sau khi truyền máu.
Kiểm tra và đối chiếu thông tin của người bệnh, đơn vị máu và phiếu truyền máu là rất quan trọng Đồng thời, cần xác minh hạn sử dụng và hình thức bên ngoài của túi máu theo quy định hiện hành.
Thực hiện định nhóm máu hệ ABO của người bệnh, của túi máu ngay tại giường bệnh và đối chiếu với thông tin trên phiếu truyền máu
Khi thực hiện truyền máu toàn phần, cần sử dụng huyết thanh mẫu để định nhóm máu ABO từ mẫu máu của người bệnh và từ đơn vị máu chuẩn bị truyền, được lấy ngay trước khi tiến hành truyền.
Khi truyền tiểu cầu, huyết tương:
- Sử dụng huyết thanh mẫu định nhóm máu ABO mẫu máu của người bệnh;
Trộn 02 giọt chế phẩm máu với 01 giọt máu của người bệnh để kiểm tra hiện tượng ngưng kết Việc truyền máu không được phép thực hiện nếu có sự ngưng kết, ngoại trừ trường hợp truyền tủa lạnh.
Cần phối hợp với đơn vị phát máu để điều tra và làm rõ mọi sự khác biệt (nếu có) giữa hồ sơ bệnh án, phiếu truyền máu, nhãn đơn vị máu và kết quả định nhóm.
Trong quá trình truyền máu, cần thực hiện việc theo dõi chặt chẽ tình trạng sức khỏe của người bệnh bằng cách kiểm tra các chỉ số như mạch, nhiệt độ, huyết áp và trạng thái tinh thần trước và trong khi truyền máu, đặc biệt trong 15 phút đầu để phát hiện kịp thời các tai biến Sử dụng bộ dây truyền máu có bầu lọc là bắt buộc, và cần ghi chép đầy đủ các chỉ số và diễn biến lâm sàng vào phiếu truyền máu Sau khi kết thúc truyền máu, bác sĩ điều trị sẽ chỉ định việc theo dõi tiếp theo dựa trên tình trạng của người bệnh.
Cơ sở thực tiễn
2.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh, nhiều nghiên cứu toàn cầu đã tập trung vào hoạt động của Điều dưỡng Kiến thức và thái độ thực hành là nền tảng quan trọng cho nhiệm vụ chăm sóc người bệnh của Điều dưỡng Tuy nhiên, chất lượng này không chỉ phụ thuộc vào yếu tố cá nhân mà còn bị ảnh hưởng bởi môi trường làm việc, sự kiểm tra, giám sát, chương trình đào tạo liên tục, và sự quan tâm từ lãnh đạo cấp khoa/phòng cũng như bệnh viện Đặc biệt, trong nhiệm vụ thực hiện quy trình kỹ thuật truyền máu, các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa kiến thức và thực hành an toàn trong việc truyền máu.
Nghiên cứu cắt ngang của Yosef Aslani năm 2004 tại bệnh viện trường đại học y khoa Iran đã khảo sát kiến thức truyền máu của 117 điều dưỡng thông qua bộ câu hỏi thiết kế sẵn Kết quả cho thấy kiến thức của điều dưỡng về việc sử dụng máu và các chế phẩm từ máu, quy trình thực hiện kỹ thuật truyền máu, cũng như theo dõi và xử trí tai biến truyền máu chỉ đạt mức trung bình, với tỷ lệ lần lượt là 66,7%, 65,8% và 59% Đặc biệt, chỉ có 25% điều dưỡng hiểu đúng thời gian bắt đầu truyền máu sau khi nhận từ ngân hàng máu Những kết quả này chỉ ra rằng kiến thức trung bình của điều dưỡng có thể làm tăng nguy cơ rủi ro liên quan đến truyền máu và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng chăm sóc sức khỏe bệnh nhân.
2.2.Tình hình nghiên cứu tại ViệtNam
Năm 2014, nghiên cứu của Phan Thị Kim Hoa và Hứa Hồng Tài tại Bệnh viện ĐKKV Định Quán đã khảo sát kiến thức về an toàn truyền máu của điều dưỡng với hai mục tiêu chính Kết quả cho thấy, 80% nhân viên biết các chỉ định truyền máu và 97% nhận thức được các tai biến có thể xảy ra Tuy nhiên, chỉ có 55% điều dưỡng nêu được cách thực hiện phản ứng sinh vật trước khi truyền, trong khi 66% thực hiện phản ứng này Hơn 60% điều dưỡng biết các vấn đề cần theo dõi bệnh nhân trong quá trình truyền máu, và 100% nhân viên biết ngừng truyền ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường.
Năm 2009, Trịnh Xuân Quang và cộng sự đã tiến hành đánh giá kiến thức thực hành về an toàn truyền máu của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Trung Tâm Tiền Giang Kết quả cho thấy, 62,2% điều dưỡng nhận thông tin về an toàn truyền máu từ nhà trường, hơn 80% biết các chỉ định truyền máu, và 100% đồng ý rằng truyền máu cùng nhóm là tốt nhất Tuy nhiên, 12% chưa vẽ đúng sơ đồ truyền máu, 32% thực hiện truyền máu mà không phối hợp với bác sĩ, và 20% chưa hoặc ít khi làm phản ứng chéo tại giường Hơn 43% không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi truyền, trong khi 33,8% biết cách làm phản ứng sinh vật học nhưng chỉ 20,8% thực hiện Hơn 50% điều dưỡng nắm rõ các vấn đề cần theo dõi bệnh nhân trong quá trình truyền máu, và 92% biết ngừng truyền ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường Cuối cùng, 90% biết thể tích máu cần giữ lại trong túi trước khi ngưng truyền.
Nghiên cứu về thực hành quản lý kỹ thuật trong điều dưỡng, đặc biệt là quản lý kỹ thuật truyền máu, đã chỉ ra nhiều yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào việc đánh giá kiến thức và thực hành truyền máu một cách đúng-sai mà chưa đi sâu vào phân tích các yếu tố ảnh hưởng Phần lớn các nghiên cứu chỉ thu thập dữ liệu qua phiếu phỏng vấn mà chưa phân tích lý do vì sao điều dưỡng viên lại có kiến thức và thực hành chưa tốt Nghiên cứu của chúng tôi sẽ khám phá những kiến thức còn thiếu, những bước thực hành bị bỏ sót hoặc thực hiện chưa đúng, đồng thời xác định các yếu tố liên quan, từ đó đề xuất các giải pháp và khuyến nghị phù hợp nhằm nâng cao an toàn trong truyền máu theo quy định của Bộ Y tế.
LIÊN HỆ VỚI THỰC TẾ
Thông tin chung về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, thành lập năm 1903, đã vượt qua nhiều khó khăn trong suốt quá trình hoạt động và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao Bệnh viện đã triển khai nhiều kỹ thuật cao trong lâm sàng như phẫu thuật tim mạch, lọc máu và chạy thận nhân tạo Nhiều năm liền, bệnh viện được vinh danh là Bệnh viện xuất sắc.
Bộ Y Tế tặng cờ luân lưu, Chính phủ và Chủ tịch nước tặng thưởng huân chương, huy chương cùng nhiều danh hiệu cao quí khác
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình hiện có cơ cấu tổ chức bao gồm 1580 giường bệnh, 11 phòng chức năng, 23 khoa lâm sàng, 9 khoa cận lâm sàng, 1 khoa chăm sóc tự nguyện và 2 trung tâm chuyên sâu là Ung Bướu và Tim Mạch.
Bệnh viện hiện có tổng cộng 546 điều dưỡng viên, với cơ cấu trình độ như sau: 1 thạc sĩ/chuyên khoa I, 109 đại học, 341 cao đẳng và 95 trung học.
Bệnh viện đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng, bao gồm khám và chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, đào tạo đa khoa, chỉ đạo tuyến, phòng bệnh, và quản lý bệnh viện.
* Công tác truyền máu tại khoa Nội Tiêu hóa:
Khoa Nội Tiêu hóa chuyên tiếp nhận và điều trị các bệnh lý về tiêu hóa, thường xuyên đối mặt với tình trạng quá tải Mỗi ngày, khoa điều trị từ 90 đến 100 bệnh nhân nội trú và 20 đến 45 bệnh nhân ngoại trú.
Trong 6 tháng đầu năm 2020, khoa Nội Tiêu hóa đã truyền 1442 ca máu Như vậy, tính trung bình mỗi ngày sẽ có khoảng 6 đến 8 ca truyền máu, đòi hỏi công tác truyền máu phải thật sự an toàn
Công tác cấp phát máu được thực hiện với tiêu chí an toàn tuyệt đối, không để xảy ra sai sót Trong 5 năm qua, khoa truyền máu chưa ghi nhận trường hợp nào truyền nhầm nhóm máu ở cấp bệnh viện, đảm bảo an toàn cho bệnh nhân Tuy nhiên, tại cấp độ khoa phòng, đã có một số trường hợp thiếu sót trong thực hành truyền máu, nhưng những sự cố này đã được phát hiện và điều chỉnh kịp thời Các lỗi thường gặp trong quá trình này cần được chú ý để nâng cao chất lượng dịch vụ.
• Lưu trữ máu tại khoa lâm sàng chưa antoàn
• Thực hiện kỹ thuật phản ứng định lại nhóm máu tại giường khôngđúng
• Thời gian truyền máu quá dài hoặc quá ngắn
• Không ghi đầy đủ các thông tin liên quan đến việc theo dõi người bệnh trước, trong và sau truyềnmáu
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa kiến thức và thực hành truyền máu của đội ngũ y tế, cũng như các yếu tố liên quan, với mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân tại khoa Nội Tiêu hóa Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình.
Thực trạng công tác đảm bảo an toàn truyền máu của Điều dưỡng tại BVĐK tỉnh Thái Bình năm 2020
2.2.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 2.1: Thông tin cá nhân của Điều dưỡng (n= 43)
Nội dung Tần số Tỷ lệ (%)
Cao đẳng 31 72,1 Đại học trở lên 3 7,0
Trong nghiên cứu với 43 điều dưỡng tham gia, tỷ lệ nữ chiếm ưu thế với 97,7% Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là những điều dưỡng trẻ tuổi, với 48,8% nằm trong độ tuổi dưới 30 Thêm vào đó, 39,5% điều dưỡng có thâm niên công tác dưới 5 năm, và có 9 điều dưỡng (20,9%) có trình độ trung cấp.
2.2.2 Kết quả kiến thức an toàn truyền máu của Điều dưỡng
Bảng 2.2: Kiến thức về An toàn truyền máu (n= 43)
Kết quả Trả lời đúng Trả lời sai Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ% A1 Đối tượng bảo vệ của an toàn truyền máu 38 88,4 5 11,6
A2 Hệ nhóm máu quan trọng nhất trong thực hành truyền máu 11 25,6 32 74,4 A3 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (A) 20 46,5 23 53,5
A4 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (B) 21 48,8 22 51,2
A5 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (AB) 36 83,7 7 16,3
A6 Kháng nguyên – kháng thể nhóm máu (O) 37 86,0 6 14,0
Người nhóm máu O có thể nhận được máu toàn phần từ nhóm 36, với tỷ lệ 83,7%, trong khi 16,3% từ nhóm khác Người nhóm máu AB nhận khối hồng cầu từ nhóm 27, chiếm 62,8%, và 37,2% từ nhóm khác Người nhóm máu A nhận khối hồng cầu từ nhóm 38, với tỷ lệ 88,4%, và 11,6% từ nhóm khác Cuối cùng, người nhóm máu O nhận huyết tương từ nhóm 18, tỷ lệ 41,9%, và 58,1% từ nhóm khác.
Theo Bảng 2.2, tỷ lệ điều dưỡng có nhận thức đúng về hệ nhóm máu quan trọng trong thực hành truyền máu là thấp, chỉ đạt 25,6% Trong khi đó, tỷ lệ điều dưỡng nhận thức đúng về khối hồng cầu có thể truyền cho người có nhóm máu A lại cao, lên tới 88,4%.
2.2.3 Kết quả kiến thức về Điều kiện bảo quản máu và chế phẩm máu của ĐD
Bảng 2.3: Kết quả kiến thức về điều kiện bảo quản máu và chế phẩm máu của điều dưỡng (n= 43)
Kết quả Trả lời đúng Trả lời sai Tần số Tỷ lệ% Tần số Tỷ lệ% A13
Thời gian lưu giữ tối đa túi máu tại buồng bệnh trước khi truyền máu cho người bệnh
A14 Việc cần làm khi truyền máu với tốc độ nhanh và khối lượng lớn 25 58,1 18 41,9
Không sử dụng các đơn vị máu và chế phẩm khi có các dấu hiệu 40 93,0 3 7,0
Thời gian từ khi kết thúc việc làm tan đông đến khi kết thúc việc truyền máu cho người bệnh
Theo bảng 2.3, nhận thức của điều dưỡng về việc cần làm khi truyền máu với tốc độ nhanh và khối lượng lớn chỉ đạt 58,1%, cho thấy tỷ lệ thấp Trong khi đó, nhận thức về việc không sử dụng các đơn vị máu và chế phẩm khi có dấu hiệu bất thường lại đạt tỷ lệ cao 93,0%, phản ánh sự chú trọng đến an toàn trong truyền máu.
2.2.4 Kết quả kiến thức về Tai biến truyền máu của ĐD
Bảng 2.4: Kết quả kiến thức về Tai biến truyền máu của ĐD (n= 43)
Kể quả Trả lời đúng Trả lời sai Tần số Tỷ lệ% Tần số Tỷ lệ% A17 Khái niệm tai biến truyền máu 35 81,4 8 18,6
A18 Nguyên nhân gây tai biến truyền máu 39 90,7 4 9,3
A19 Các tai biến truyền máu sớm 28 65,1 15 34,9 A20 Các tai biến truyền máu muộn 24 55,8 19 44,2
A21 Tai biến không do truyền máu gây nên 36 83,7 7 16,3
A22 Các phản ứng có thể xảy ra sau truyền máu 36 83,7 7 16,3
A23 Thời điểm có thể phát hiện các tai biến truyền nhầm nhóm máu 40 93,0 3 7,0
Không được tiếp tục truyền đơn vị máu, chế phẩm máu có liên quan đến tai biến sau khi đã ngừng truyền quá thời gian
Theo bảng 2.4, 51,2% điều dưỡng (ĐD) hiểu rõ thời điểm không được truyền tiếp đơn vị máu và chế phẩm máu liên quan đến tai biến truyền máu sau khi ngừng truyền Nhận thức của ĐD về các tai biến truyền máu sớm đạt 65,1% Đặc biệt, tỷ lệ ĐD có nhận thức đúng cao nhất là thời điểm phát hiện tai biến truyền nhầm nhóm máu, lên tới 93%.
2.2.5 Kết quả kiến thức về Chăm sóc, theo dõi truyền máu của ĐD
Bảng 2.5: Kết quả kiến thức về Chăm sóc, theo dõi truyền máu của ĐD (n= 43)
Kết quả Trả lời đúng Trả lời sai Tần số Tỷ lệ% Tần số Tỷ lệ%
A25 Yêu cầu theo dõi người bệnh khi truyền máu 38 88,4 5 11,6
Trong khi truyền máu, nếu người bệnh có chỉ định tiêm/truyền thuốc, anh chị sẽ đưa thuốc vào người bệnh bằng cách
Xử trí đầu tiên của điều dưỡng khi xảy ra phản ứng tan máu cấp tính do truyền máu gây ra
A28 Điều không đúng khi điều dưỡng xử trí với tai biến truyền máu mức độ trung bình
Trong trường hợp xảy ra tai biến truyền máu, phải duy trì đường truyền tĩnh mạch bằng dung dịch
A30 Sau truyền máu, điều dưỡng cần ghi hồ sơ bệnh án những nội dung 42 97,7 1 2,3
Ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân
Khoa Nội Tiêu hóa chuyên điều trị bệnh thiếu máu do xuất huyết tiêu hóa, với tần suất truyền máu trung bình từ 6 đến 8 ca mỗi ngày Điều này giúp đội ngũ điều dưỡng tích lũy nhiều kinh nghiệm và có cơ hội thực hiện quy trình truyền máu một cách an toàn và hiệu quả.
- Bệnh viện và khoa phòng tạo điều kiện để ĐD được đào tạo tấp huấn hàng năm,giúp nâng cao kiến thức trong truyền máu
- Đội ngũ ĐD khá đông (43 ĐD), nên tỷ lệ thực hiện kỹ thuật có sai số giảm Kết quả đánh giá có độ chính xác cao hơn
Đội ngũ điều dưỡng cần nắm vững kiến thức về chăm sóc và theo dõi bệnh nhân trong quá trình truyền máu Điều này phản ánh sự nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của việc giám sát bệnh nhân, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong truyền máu.
- Nhận biết của ĐD về thời gian lưu giữ tối đa túi máu tại buồng bệnh trước khi truyềnchiếm tỷ lệ thấp là 60.5%
Kiến thức về an toàn truyền máu của đội ngũ y tế còn hạn chế, với chỉ 25.6% hiểu biết về hệ nhóm máu quan trọng trong thực hành truyền máu Đặc biệt, 46.5% nhân viên y tế chưa nắm rõ sơ đồ truyền máu, điều này cho thấy cần nâng cao kiến thức và đào tạo về an toàn truyền máu.
- Nhận biết của ĐD về thời gian không được phép truyền tiếp đơn vị máu có liên quan đến tai biến chiếm tỷ lệ thấp là 51.2%
- Nhận biết của ĐD về các tai biến truyền máu sớm còn khá thấp đạt 65.1 %
- Nhận biết của ĐD về việc cần làm khi truyền máu với tốc độ nhanh và khối lượng lớn chiếm tỷ lệ thấp là 58.1%.
- Khoa Nội Tiêu hóa là khoa mới thành lập (2012) nên đội ngũ ĐD còn khá trẻ Kinh nghiệm xử lý tai biến trong truyền máu chưa cao
Nhiều điều dưỡng hiện nay chủ yếu tập trung vào việc thực hiện quy trình và chăm sóc, theo dõi truyền máu mà chưa chú ý đến hệ nhóm máu, nhận diện và xử trí các tai biến liên quan đến truyền máu Nguyên nhân chủ quan là do điều dưỡng thường nghĩ rằng những vấn đề này thuộc trách nhiệm của bác sĩ.
- Một số ĐD còn chưa ý thức được tầm quan trọng của an toàn trong truyền máu
Do số lượng bệnh nhân đông đảo và việc tập huấn nâng cao kiến thức về an toàn truyền máu còn hạn chế, nên việc điều dưỡng mắc sai sót là điều khó tránh khỏi.
BÀN LUẬN
Thực trạng của vấn đề…
3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 43 điều dưỡng tại khoa Nội Tiêu hóa của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, nhằm đánh giá quy trình truyền máu hiện tại tại bệnh viện.
Tỷ lệ nữ giới tham gia nghiên cứu đạt 97,1%, vượt xa tỷ lệ nam giới chỉ có 2,9% Đây là đặc điểm nổi bật trong ngành điều dưỡng, đặc biệt là tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình.
Nhóm người trên 45 tuổi chỉ chiếm 7,0%, thấp hơn đáng kể so với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang và cộng sự (2009), cho thấy tỷ lệ nhóm tuổi trên 40 lên tới 41%.
[6] Sự khác biệt này có thể được lý giải là do khoa Nội Tiêu hóa là khoa mới được thành lập năm 2012 nên có nhiều cán bộ trẻ
Tỷ lệ điều dưỡng có trình độ trung cấp hiện nay chỉ đạt 20,9%, trong khi tỷ lệ điều dưỡng có trình độ cao đẳng và đại học lần lượt là 72,1% và 7,0% Nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang cho thấy tỷ lệ điều dưỡng trung cấp lên tới 97% Sự khác biệt này xuất phát từ quyết định của Bộ Y tế về việc chuẩn hóa trình độ điều dưỡng tại các cơ sở y tế, với quy định từ năm 2025 không còn điều dưỡng trung cấp tại các bệnh viện Do đó, nghiên cứu của tôi cho thấy tỷ lệ điều dưỡng trung cấp thấp hơn nhiều so với kết quả của tác giả Trịnh Xuân Quang.
Tỷ lệ điều dưỡng có thâm niên công tác dưới 5 năm hiện chiếm 39,5%, trong khi đó, 32,6% có thâm niên từ 10 năm trở lên Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang, trong đó tỷ lệ thâm niên công tác dưới 5 năm và trên 10 năm lần lượt là 28% và 49,3%.
3.1.2 Kiến thức an toàn truyền máu của điềudưỡng
Thông tư 26/2013/TT-BYT quy định các nội dung liên quan đến an toàn trong hoạt động truyền máu, đặc biệt là các chế phẩm máu, hệ nhóm và quy tắc truyền máu, cần được đảm bảo 100% Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ kiến thức đúng của điều dưỡng về hệ nhóm máu trong thực hành truyền máu chỉ đạt 25,6% và sơ đồ truyền máu tối thiểu là 46,5% Nhiều nội dung kiến thức của điều dưỡng đạt tỷ lệ thấp và không có yếu tố nào đạt 100% So với nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang (2009) và Phan Thị Kim Hoa (2014), tỷ lệ kiến thức về quy tắc truyền máu của điều dưỡng trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn do yêu cầu kiến thức sâu hơn về lý do truyền máu cùng nhóm, khác nhóm và số lượng truyền tối đa khi sử dụng máu khác nhóm.
Kiến thức của điều dưỡng về cách nhận biết và xử trí tai biến trong truyền máu còn có sự chênh lệch lớn Ba nội dung có tỷ lệ kiến thức cao trên 90% bao gồm: việc làm đầu tiên khi xảy ra tai biến truyền máu (96,9%), thời điểm phát hiện tai biến truyền nhầm nhóm máu (94,8%), và đường truyền máu vào cơ thể bệnh nhân khi tiêm hoặc truyền thuốc (93,7%) Tuy nhiên, kiến thức về dung dịch sử dụng khi xảy ra tai biến chỉ đạt 78,5%, trong khi tai biến thường gặp nhất khi truyền tiểu cầu/plasma chỉ có 60,7% kiến thức đúng Đặc biệt, tỷ lệ kiến thức đúng về tai biến khi truyền khối hồng cầu rất thấp, chỉ 35,6% Theo thông tư 26/2013/TT-BYT, điều dưỡng viên cần nắm vững 100% các nội dung này để có thể nhận biết và xử trí đúng các tai biến không mong muốn trong truyền máu.
Giải pháp để giải quyết/ khắc phục vấn đề
Thường xuyên tập huấn, kiểm tra kiến thức an toàn trong truyền máu
+ Ban lãnh đạo Bệnh viện và khoa phòng tạo điều kiện
+ Có sự hỗ trợ của phòng chỉ đạo tuyến trong quá trình tập huấn
+ Đã thành lập được Hội Đồng truyền máu tại Bệnh viện
Điều dưỡng thường gặp khó khăn trong việc tập trung học tập khi tham gia các lớp học trước ca làm việc hoặc sau các ca trực đêm, đồng thời còn phải đảm bảo trách nhiệm chăm sóc con nhỏ.
+ Hiện tại mới chỉ áp dụng hình thức đào tạo tập trung mà chưa triển khai được hình thức đào tạo trực tuyến
+ Nguồn giảng viên còn hạn chế do phải kiêm nhiệm nhiều công việc nên việc mời giảng còn gặp nhiều khó khăn
+ Trang thiết bị, vật tư tiêu hao còn thiếu: Máy chiếu mới chỉ có tại các hội trường lớn của viện mà chưa có tại các khoa phòng
+ Hội đồng truyền máu mặc dù đã được thành lập nhưng hoạt động còn hạn chế.