Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
Nhà nước dân chủ
1.1 Bản chất giai cấp của Nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” Khác với khái niệm “Nhà nước toàn dân”, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất của giai cấp công nhân, với mọi quyền hành và lực lượng thuộc về nhân dân Tính chất dân chủ nhân dân chính là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà nước kiểu mới.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên những phương diện như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí cầm quyền thông qua các phương thức chính: đầu tiên, bằng việc xây dựng đường lối, quan điểm và chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách và kế hoạch; thứ hai, thông qua hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước; và cuối cùng, bằng công tác kiểm tra để đảm bảo sự thực hiện đúng đắn các chủ trương, chính sách.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước là mục tiêu hàng đầu của Hồ Chí Minh, nhằm đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội Để đạt được điều này, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần có một tổ chức mạnh mẽ, thống nhất Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước Việt Nam là tập trung dân chủ, một yếu tố cốt lõi đảm bảo tính kỷ luật tự giác trong bộ máy nhà nước Nguyên tắc này khẳng định rằng ý chí của đa số phải được tôn trọng và tuân thủ một cách bắt buộc.
Trong Nhà nước Việt Nam, giai cấp công nhân thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích của mình với lợi ích của nhân dân và dân tộc, phản ánh tính nhân dân và tính dân tộc Đây là một đặc điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là thành quả của cuộc đấu tranh gian khổ của toàn thể dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Sự đoàn kết của nhân dân trong việc giành độc lập và tự do khẳng định rằng Nhà nước Việt Nam là của nhân dân, không thuộc về giai cấp nào riêng biệt.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc, đồng thời khẳng định mục tiêu kiên định vì quyền lợi của nhân dân Nhà nước Việt Nam đóng vai trò là đại diện, bảo vệ và đấu tranh không chỉ cho lợi ích của giai cấp công nhân mà còn cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Nhà nước mới ra đời đang nỗ lực bảo vệ độc lập và tự do, đồng thời xây dựng một Việt Nam hòa bình và phát triển Con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, được xác định bởi Hồ Chí Minh và Đảng, là sứ mệnh quan trọng của Nhà nước trong việc dẫn dắt nhân dân.
1.2 Nhà nước của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là một thể chế mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân, thể hiện nguyên tắc "dân là chủ" Trong mô hình này, nhân dân là chủ thể tối cao của mọi quyền lực trong nhà nước và xã hội.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp:
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ tối ưu, trong đó người dân có quyền quyết định trực tiếp mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc và quyền lợi của cộng đồng.
Dân chủ gián tiếp, hay còn gọi là dân chủ đại diện, là hình thức dân chủ trong đó người dân thực hiện quyền lực thông qua các đại diện mà họ đã lựa chọn và bầu ra, cũng như các cơ chế quyền lực mà họ thiết lập.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ hoàn hảo nhất và cần được tạo điều kiện để thực hiện Trong khi đó, dân chủ gián tiếp vẫn tồn tại những hạn chế nhất định.
Quyền lực nhà nước được xem là "thừa uỷ quyền" từ nhân dân, nghĩa là nhà nước không tự có quyền lực mà quyền lực đó được nhân dân ủy thác cho.
Nhân dân có quyền kiểm soát và phê bình nhà nước, cũng như quyền bãi miễn các đại biểu mà họ đã lựa chọn Họ có quyền bầu ra và giải tán các thiết chế do chính mình lập nên, đảm bảo rằng mọi quyền lực, bao gồm quyền lực nhà nước, luôn thuộc về nhân dân.
Luật pháp dân chủ không chỉ phản ánh ý nguyện của nhân dân mà còn bảo vệ quyền lợi của họ Đây là công cụ quan trọng để thực thi quyền lực của nhân dân và đồng thời là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong xã hội.
1.3 Nhà nước do nhân dân
Nhà nước pháp quyền
2.1 Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng nền tảng pháp lí cho Nhà nước Việt
Nam mới nhận thức rõ vai trò quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội, điều này được thể hiện qua bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” mà nhóm người Việt yêu nước tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây năm 1919 Bản yêu sách gồm 8 điểm, tập trung vào việc đòi quyền bình đẳng về pháp lý và tự do dân chủ tối thiểu cho dân tộc Việt Nam.
Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu nhằm lập Quốc hội và các cơ quan hợp hiến Điều này thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng Minh, thiết lập quan hệ quốc tế bình đẳng và xây dựng cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng tiêu chuẩn của một Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Cuộc Tổng tuyển cử thành công vào ngày 6-1-1946 đã áp dụng chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín Mọi công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt giới tính, địa vị xã hội, dân tộc, đảng phái hay tôn giáo, đều có quyền tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên Đây chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta
2.2 Nhà nước thượng tôn pháp luật
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một hệ thống luật pháp dân chủ và hiện đại Theo tư tưởng của ông, Nhà nước cần quản lý thông qua bộ máy và nhiều biện pháp khác nhau, nhưng điều cốt lõi là quản lý dựa trên Hiến pháp và pháp luật.
Để đạt được mục tiêu, việc lập pháp cần được thực hiện một cách hiệu quả Trong vai trò Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần tham gia vào quá trình lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp, bao gồm Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, đồng thời đã ký lệnh công bố 16.
Trong tổng số 613 sắc lệnh, có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước và pháp luật, cùng với nhiều văn bản dưới luật khác Trong bối cảnh đất nước vừa phải kháng chiến vừa kiến quốc đầy khó khăn, sự ra đời của hệ thống luật pháp này thể hiện rõ nỗ lực của Hồ Chí Minh và Nhà nước Việt Nam trong công tác lập pháp.
Đưa pháp luật vào cuộc sống và đảm bảo thi hành pháp luật là rất quan trọng, đòi hỏi nâng cao hiểu biết và năng lực sử dụng luật của người dân Cần giáo dục ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật, bởi pháp luật là công cụ quyền lực của nhân dân Việc thực thi pháp luật gắn liền với trình độ dân trí, do đó, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao dân trí và giáo dục pháp luật, nhằm phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân và khuyến khích họ tham gia vào công việc của chính quyền.
Nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật là điều cần thiết để khắc phục những hiện tượng như "thưởng có khi quá rộng, mà phạt thì không nghiêm", dẫn đến sự lẫn lộn giữa công và tội Để đạt được điều này, pháp luật cần phải đúng và đủ, đồng thời cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi người dân Người thực thi pháp luật cũng cần phải thể hiện sự công tâm và nghiêm minh trong công việc của mình.
Khuyến khích người dân tham gia phê bình và giám sát hoạt động của Nhà nước, đồng thời theo dõi quá trình thực thi pháp luật Cán bộ các cấp, các ngành cần gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật để tạo niềm tin và sự minh bạch trong quản lý.
Hồ Chí Minh là hình mẫu tiêu biểu cho việc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật Ông luôn tự giác tuân thủ kỷ luật và gương mẫu chấp hành các quy định pháp lý Việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật đã trở thành nếp sống, thói quen và cách ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con người, coi đây là một nguyên tắc cơ bản trong "Pháp quyền nhân nghĩa" Điều này thể hiện qua việc chăm lo đến lợi ích của mọi người và thực hiện đầy đủ các quyền con người Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo các lý thuyết hiện đại về quyền con người, tiếp cận một cách toàn diện nhằm giải phóng con người khỏi áp bức bất công Mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam là đảm bảo mọi người được hưởng quyền con người một cách đầy đủ Kể từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh cho quyền con người, và Hiến pháp đã ghi nhận một cách toàn diện các quyền này, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để bảo vệ và thực thi quyền con người.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng mọi người sinh ra đều có quyền tự do và bình đẳng Tuyên ngôn này không chỉ mang tính cách mạng mà còn thể hiện tư duy sâu sắc về quyền con người Quyền con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh được phát triển toàn diện, bao gồm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật mang tính nhân văn và khuyến thiện, thể hiện qua việc bảo vệ quyền con người một cách đầy đủ Hệ thống luật pháp này không chỉ nghiêm minh mà còn khách quan và công bằng, tuyệt đối chống lại mọi hình thức đối xử dã man Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng ngay cả những kẻ phản bội Tổ quốc cũng sẽ không bị tàn sát mà sẽ được xử lý theo luật pháp, tùy thuộc vào thái độ của họ Đặc biệt, mục tiêu của hệ thống pháp luật là khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt và tập trung vào giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nổi bật với sự kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước và xã hội Là người theo lập trường mácxít, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật Tuy nhiên, với hiểu biết sâu sắc về bản chất và giới hạn của pháp trị, Người không tuyệt đối hóa một trong hai công cụ quản lý nhà nước Theo Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thực thi pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức xã hội, với các giá trị đạo đức thấm nhuần trong mọi quy định pháp luật Điều này thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, trong đó hành động đúng đắn về pháp luật cũng đồng nghĩa với việc thực thi đạo đức tốt Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa phải hướng đến con người.
Nhà nước trong sạch, vững mạnh
3.1 Kiểm soát quyền lực nhà nước
Theo Hồ Chí Minh, việc kiểm soát quyền lực nhà nước là điều cần thiết, vì quyền lực này được nhân dân ủy thác Tuy nhiên, khi nắm giữ quyền lực, các cơ quan và cán bộ nhà nước có thể lạm dụng quyền hạn Do đó, để đảm bảo quyền lực luôn thuộc về nhân dân, việc kiểm soát quyền lực nhà nước là rất quan trọng.
Về hình thức kiểm soát quyền lực Nhà nước:
Đảng Cộng sản Việt Nam cần phát huy vai trò và trách nhiệm của mình như một đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Là Đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước và kiểm soát quyền lực Nhà nước Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, toàn thể Đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng.
Để đạt được mục tiêu đề ra, các cấp ủy Đảng cần tăng cường công tác kiểm tra một cách hệ thống, với những người thực hiện kiểm tra phải có uy tín cao Hai phương thức kiểm soát chính là từ trên xuống và từ dưới lên cần được áp dụng hiệu quả.
Theo Hiến pháp năm 1946, được ghi nhận bởi Hồ Chí Minh, việc tổ chức bộ máy nhà nước và phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước có sự kiểm soát nội bộ quan trọng Nghị viện nhân dân có quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ, bao gồm cả việc yêu cầu từ chức đối với các Bộ trưởng không được Nghị viên tín nhiệm.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, do đó có quyền kiểm soát quyền lực này Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiểm soát từ quần chúng, cho rằng Đảng cầm quyền cần phát huy vai trò này, vì số lượng đảng viên chỉ chiếm một phần nhỏ so với toàn dân Nếu không có sự hỗ trợ từ nhân dân, Đảng sẽ không thể thực hiện nhiệm vụ của mình Nhà nước, với vai trò là công bộc của dân, cần dựa vào quần chúng và khuyến khích họ tham gia vào việc giám sát và kiểm tra các hoạt động của Nhà nước.
3.2 Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước Đặc quyền, đặc lợi : biểu hiện là những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Tham ô, lãng phí, quan liêu : Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là
“Giặc nội xâm” và “giặc ở trong lòng” được coi là mối nguy hiểm lớn hơn cả giặc ngoại xâm Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù vô tình hay cố ý, đều là đồng minh của thực dân và phong kiến, với tội lỗi này không kém gì tội lỗi của Việt gian và mật thám Ngày 27-11-1946, Người đã ký Sắc lệnh quy định hình phạt cho tội đưa và nhận hối lộ, với mức án từ 5 đến 20 năm tù khổ sai và phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ Trước đó, vào ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh cũng đã ký lệnh quy định tội tham ô, trộm cắp nghiêm trọng nhất có thể bị xử án tử hình.
Lãng phí, theo Hồ Chí Minh, bao gồm lãng phí sức lao động, thời gian và tiền bạc Việc chống lãng phí không chỉ là một biện pháp tiết kiệm mà còn là một quốc sách quan trọng của mọi quốc gia.
Bệnh quan liêu không chỉ tồn tại ở cấp trung ương mà còn ở cấp tỉnh, huyện và cả cấp cơ sở Hồ Chí Minh đã chỉ trích các lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới vì không theo dõi sát sao công việc thực tế, không giáo dục cán bộ và thiếu sự gần gũi với quần chúng Họ thường chú trọng hình thức mà không xem xét toàn diện, dẫn đến việc dung túng cho tham ô và lãng phí Do đó, bệnh quan liêu là nguyên nhân gốc rễ gây ra các vấn đề tham ô, lãng phí; để loại bỏ hoàn toàn các vấn đề này, cần phải triệt tiêu bệnh quan liêu trước tiên.
Hồ Chí Minh đã chỉ trích mạnh mẽ những căn bệnh như "tư túng", "chia rẽ", và "kiêu ngạo" trong bộ máy nhà nước, cho rằng chúng gây mất đoàn kết và rối ren trong công tác Ông lên án việc kéo bè kéo cánh và sự ưu ái không công bằng đối với những người thiếu năng lực Hiện tượng mất đoàn kết, sự phân biệt giữa các tầng lớp, và tính kiêu ngạo trong chính quyền đã làm giảm uy tín của Chính phủ Để chống tiêu cực, Hồ Chí Minh đã phân tích nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân chủ quan như chủ nghĩa cá nhân và sự thiếu tu dưỡng của cán bộ, cùng với nguyên nhân khách quan như công tác cán bộ chưa hiệu quả và những tàn dư của chế độ thực dân Các nguyên nhân này tương tác lẫn nhau và nếu không có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, nguy cơ mất cán bộ sẽ rất lớn.
Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Trong nhiều tác phẩm và thời điểm khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề xuất nhiều biện pháp đa dạng Tóm lại, nổi bật trong đó là một hệ thống biện pháp cơ bản mà ông đã trình bày.
Nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội và thực hành dân chủ rộng rãi là giải pháp cơ bản, mang ý nghĩa lâu dài nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của Đảng cần được thực thi một cách nghiêm minh và thường xuyên Cán bộ, đảng viên phải tự giác tuân thủ các quy định này Đối với những cá nhân thoái hóa, biến chất, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.
“thẳng tay trừng trị”, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì
Giáo dục là yếu tố then chốt trong việc phát triển cán bộ, đặc biệt là giáo dục đạo đức và xây dựng chuẩn mực đạo đức cho người cầm quyền Cần khơi dậy lương tâm trong mỗi cá nhân, vì dù ở vị trí cao hay thấp, thiếu lương tâm sẽ dẫn đến tham nhũng và lạm dụng quyền lực Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng quyền lực, dù lớn hay nhỏ, nếu không đi kèm với lương tâm sẽ tạo cơ hội cho hành vi tiêu cực như tham nhũng và lợi dụng công quyền cho mục đích cá nhân.
Cán bộ cần làm gương, đặc biệt là những người giữ chức vụ cao, vì trách nhiệm nêu gương của họ rất lớn Khi cán bộ có ý thức tu dưỡng đạo đức và chống tiêu cực, họ sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cấp dưới và nhân dân, từ đó góp phần hình thành những đức tính tốt trong cộng đồng Đây là một đặc điểm nổi bật trong văn hóa chính trị Việt Nam.
Những vấn đề cần chú ý để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Nhà nước Việt Nam là một nhà nước dân chủ, việc tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là rất cần thiết để duy trì lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước Quyền làm chủ của nhân dân còn mơ hồ và chưa được hiểu đầy đủ, trong khi vai trò của họ là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa VIII đã thông qua nghị quyết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, nhấn mạnh việc thực hiện Nghị quyết lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua các hình thức dân chủ đại diện và trực tiếp, đặc biệt trong việc giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan và cán bộ công chức Nhà nước.
Để tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong việc thực thi quyền lực của nhân dân, cần nghiên cứu và xây dựng các thể chế, cơ chế cụ thể nhằm bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Mọi chủ trương và đường lối trong các lĩnh vực đời sống xã hội phải được xem xét và giải quyết từ vị trí của người dân, đảm bảo sự tham gia và quyền lợi của họ trong quá trình ra quyết định.
Tiếp tục mở rộng và cụ thể hóa dân chủ trực tiếp cho người dân, cần nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân Điều này sẽ tạo điều kiện cho người dân phát triển năng lực làm chủ và tích cực tham gia vào quản lý xã hội.
Phát huy dân chủ kết hợp với tăng cường pháp chế XHCN là cần thiết để văn hóa dân chủ thực sự phát huy tác dụng trong các lĩnh vực đời sống xã hội Điều này giúp phát triển dân chủ thực chất, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, đồng thời chống lại những vi phạm quyền làm chủ của người dân Việc này cũng góp phần hiệu quả trong việc ngăn chặn quan liêu, lãng phí, tham ô và tham nhũng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
Đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta hiện nay đông nhưng chưa mạnh, với nhiều cán bộ ưu tú bên cạnh tình trạng thoái hóa, biến chất và tiêu cực phức tạp Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, trong sạch và vững mạnh Hồ Chí Minh đã chỉ ra những yêu cầu chủ yếu đối với đội ngũ này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên.
Đảng viên và cán bộ cần phải tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn đặt lợi ích của Đảng lên hàng đầu, trong mọi tình huống và công việc, lợi ích cá nhân phải đứng sau.
Người thực hiện cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương và nghị quyết của Đảng cần phải nghiêm túc và tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Thứ ba, phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng Thứ tư, phải luôn luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt
Thứ năm, cần thiết phải duy trì mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, phục vụ tận tâm và trung thành với lợi ích của họ Điều này bao gồm việc tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời lãnh đạo phải tiên phong, gương mẫu, sẵn sàng chịu đựng khó khăn trước để mang lại niềm vui cho nhân dân sau này.
Vào thứ sáu, mỗi người cần phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình, đồng thời thể hiện sự năng động và sáng tạo Tránh thái độ thụ động và lười biếng; thay vào đó, hãy luôn tích cực, hăng hái và dám chấp nhận trách nhiệm trong mọi tình huống.
Thứ bảy, phải là những người luôn luôn phòng và chống các tiêu cực:
Trong công tác phòng chống tiêu cực, cần đặc biệt chú trọng đến việc ngăn chặn tham ô, lãng phí và quan liêu Đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được chuẩn hóa và nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính Họ cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trung thành với Tổ quốc và nhân dân Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cán bộ, đảng viên phải gương mẫu chấp hành pháp luật, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng, đồng thời cần có phẩm chất đạo đức như công bằng, liêm khiết và trong sạch Họ cũng cần gần gũi với dân, giúp đỡ và học hỏi từ dân để nâng cao tính liêm khiết và công bằng trong công việc.
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân gắn liền với việc duy trì sự trong sạch và vững mạnh của Nhà nước Trong quá trình lãnh đạo và phát triển Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cần đặc biệt đề phòng và khắc phục các tiêu cực như đặc quyền, đặc lợi, tham ô, lãng phí và quan liêu.
(3)Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Cuộc đấu tranh phòng chống tiêu cực trong hoạt động nhà nước hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, cho thấy những lời dạy của Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm và chống tham nhũng là vô cùng quý báu Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra rằng công tác xây dựng Đảng chưa đạt yêu cầu, với tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức Do đó, nhiệm vụ quan trọng của nhà nước là thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và triệt tận gốc bệnh tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo Để áp dụng tư tưởng của Người trong cuộc đấu tranh này, cần thực hiện những biện pháp cụ thể.
Để xây dựng một hệ thống pháp luật vững mạnh và kỷ luật của Đảng nghiêm minh, cần thực hiện công tác kiểm tra thường xuyên Các cán bộ và đảng viên phải tự giác và nghiêm túc tuân thủ pháp luật cũng như kỷ luật để đảm bảo sự ổn định và phát triển của Nhà nước.
Cần thực hiện việc phạt nghiêm minh và đúng người đúng tội, tránh lạm dụng hình phạt Đồng thời, cần chú trọng đến giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhằm xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức cho những người cầm quyền và khơi dậy lương tâm trong mỗi cá nhân.
Cán bộ cần phải làm gương, đặc biệt là những người giữ chức vụ cao, vì trách nhiệm nêu gương của họ rất lớn Khi cán bộ và người đứng đầu có ý thức tu dưỡng đạo đức và chống tiêu cực, họ sẽ tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến cấp dưới và nhân dân, từ đó góp phần hình thành những đức tính tốt đẹp trong cộng đồng.
Huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước là cần thiết trong cuộc chiến chống lại những tiêu cực tồn tại trong con người, xã hội và bộ máy Nhà nước.
Nếu chúng ta thực hiện tốt công tác chống tiêu cực, sẽ tạo ra sự đoàn kết, giúp cán bộ nâng cao nhận thức và thấm nhuần đạo đức cách mạng, từ đó phục vụ cách mạng và nhân dân một cách chân thành Điều này sẽ xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin của chiến sĩ và nhân dân Hơn nữa, nó cũng khuyến khích mọi người dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức bảo vệ tài sản công, tích cực thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm nhằm xây dựng đất nước.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật
Lỗ hổng và sai sót trong xây dựng hệ thống pháp luật là vấn đề cần được chú trọng Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn phải được nhận thức rõ ràng trong quá trình xây dựng Nhà nước.
Những tư tưởng lớn của Người về tầm nhìn, nội dung, yêu cầu và cả cách tư duy trong thiết kế và thực thi pháp luật:
Hệ thống pháp luật Việt Nam cần được xây dựng dựa trên những giá trị công bằng, nhân văn và chính nghĩa, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động và bảo vệ quyền lợi con người.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam cần xây dựng là hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng Hiến pháp dân chủ và các đạo luật
Thứ ba, pháp luật là công cụ cần thiết “giữ gìn quyền lợi của nhân dân” và duy trì trật tự xã hội
Hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ cần được ưu tiên hàng đầu để xây dựng và vận hành một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của tính nhân văn và dân chủ trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, khẳng định rằng mọi hoạt động pháp lý đều hướng tới phục vụ con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của tính khách quan trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Để pháp luật phát huy hiệu quả trong đời sống, nội dung của nó cần phải phù hợp với các quy luật khách quan.
Khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ
Đảng ta xác định Việt Nam thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), tuy nhiên, xã hội vẫn còn tồn tại những yếu tố của các nhà nước kiểu cũ Trong quá trình phát triển lên CNXH, cần rút ra bài học từ những thất bại của các nhà nước kiểu cũ để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN Do đó, việc xây dựng nhà nước phải đi đôi với việc khắc phục những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ.
Những căn bệnh cố hữu của hình thức nhà nước phong kiến:
Đội ngũ quý tộc đang trải qua sự tha hóa, dẫn đến việc bổ nhiệm những chức vụ quan trọng mà không mang lại hiệu quả Mặc dù trình độ và năng lực quản lý đất nước của các quan chức quý tộc không cao, họ vẫn được trọng dụng trong các vị trí này.
Thứ hai, sự mất bình đẳng về kinh tế: Khoảng cách giàu nghèo và sự bất bình đẳng về kinh tế dẫn đến bất bình đẳng xã hội
Vào thứ ba, quyền lực của nhà vua bị giới hạn bởi chế độ tự trị của các làng xã, dẫn đến việc hệ thống pháp luật chưa được coi trọng như một công cụ thiết yếu trong đời sống và chưa được áp dụng rộng rãi trong toàn xã hội.
Các triều đại phong kiến Việt Nam đã dựa vào cách thức xử sự của tiên vương, bao gồm chính lệnh, luật pháp và tập quán cai trị, làm khuôn mẫu cho hoạt động quản lý của mình Mặc dù các chế định trong bộ luật có thể lạc hậu so với thực tiễn kinh tế xã hội, nhưng chúng không bị loại bỏ; các vua kế tiếp chỉ có quyền bổ sung để cải thiện tình trạng này.
Những căn bệnh cố hữu của hình thức nhà nước chủ nghĩa tư bản:
Việc tước đoạt ruộng đất của nông dân và tư liệu sản xuất của người lao động đã khiến nhiều người trở thành công nhân thuê.
Các cuộc chiến tranh thế giới nhằm tranh giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại hậu quả nghiêm trọng cho nhân loại.
Mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân là yếu tố cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản, với quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê Mặc dù hình thức bóc lột này đã có trong lịch sử, nhưng bóc lột tư bản chủ nghĩa vẫn được xem là một bước tiến mới.
Thứ tư, tạo dựng giai cấp thực hiện sự thống trị, bóc lột giai cấp công nhân và những người lao động trong CNTB
Bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là sự thống trị của một thiểu số giàu có, hoạt động để phục vụ lợi ích của một bộ phận nhỏ trong xã hội Những giá trị tự do và dân chủ mà họ quảng bá thực chất chỉ là lớp vỏ bên ngoài, che đậy cho sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản độc quyền.
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng việc xây dựng nhà nước phải đi đôi với việc khắc phục những khuyết điểm của các nhà nước kiểu cũ, nhằm phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Cần phải kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc từ các thế lực thù địch về giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa Đồng thời, chúng ta phải chống lại những luận điệu mị dân, lợi dụng các khái niệm “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” để xuyên tạc các giá trị mà Đảng và nhân dân ta đã dày công xây dựng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Trong bối cảnh một đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo, công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ Lý luận về vai trò của Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo trong thời kỳ mới đang đối mặt với nhiều thách thức và vấn đề mới, đòi hỏi sự tìm tòi và rút kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
6.1 Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thực hiện phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước.
Quan điểm và nhận thức về phương thức lãnh đạo trong việc chuyển đổi nghị quyết, chỉ thị, và kết luận của Đảng thành những quyết định quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước hiện đang gặp phải sự lúng túng.
Trong một số tình huống, quyền lãnh đạo của Đảng và quyền quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước chưa được phân định rõ ràng Điều này dẫn đến việc tổ chức Đảng có thể bao biện hoặc làm thay, gây ra tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.
Công tác tuyên truyền và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống ở nhiều địa phương vẫn chưa được thực hiện đầy đủ và hiệu quả, dẫn đến sức thuyết phục kém và không đủ khả năng động viên đảng viên cùng nhân dân; nhiều nơi chỉ thực hiện mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
Chất lượng hoạt động của tổ chức đảng hiện còn nhiều bất cập, với việc thực hiện không đầy đủ và méo mó các nguyên tắc cơ bản như tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, cũng như tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách Chế độ sinh hoạt chủ yếu mang tính hình thức, trong khi bệnh thành tích vẫn phổ biến, dẫn đến việc che giấu khuyết điểm.
Thiếu quan tâm và kiểm tra thường xuyên đối với hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên dẫn đến việc không phát hiện kịp thời các vụ việc tiêu cực, bê bối Điều này không chỉ làm giảm uy tín của tổ chức Đảng mà còn khiến các vấn đề được phát hiện chủ yếu qua tố giác của quần chúng, báo chí và dư luận xã hội.
Trong sinh hoạt, tình trạng "ngại nói thật" vì sợ mất lòng khá phổ biến, dẫn đến sự thờ ơ và thiếu thẳng thắn Điều này ảnh hưởng đến ý thức và tinh thần chiến đấu của mọi người, làm giảm khả năng phát huy trí tuệ tập thể Hệ quả là vai trò lãnh đạo hạt nhân chính trị ở các cơ quan, tổ chức cũng bị suy giảm.
Người lãnh đạo tổ chức đảng hoặc cấp ủy trong cơ quan, đơn vị có tư tưởng độc đoán và chuyên quyền, thực hiện các hành vi trái thẩm quyền và trách nhiệm, dẫn đến vi phạm nguyên tắc, quy trình và thủ tục, gây ra sai phạm của cá nhân.
Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước thường lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa các quyết định nhằm thực hiện ý đồ cá nhân trong công tác cán bộ Các thành viên khác thường nể nang và né tránh, dẫn đến việc người đứng đầu lạm quyền và trục lợi cho bản thân hoặc người thân qua các mối quan hệ như “hậu duệ, quan hệ, tiền tệ” hoặc vì lợi ích nhóm.
6.2 Để tiếp tục đổi mới cũng như khắc phục các tồn tại cũ trong phương thức lãnh đạo của Đảng đồng thời và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Đại hội XIII của Đảng vận dụng những tư tưởng, chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề ra một số giải pháp cần được thực hiện như sau:
Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, cần cụ thể hóa các phương thức lãnh đạo trong Cương lĩnh đã được bổ sung và phát triển vào năm 2011 Điều này đòi hỏi việc thiết lập các quy chế, quy định và quy trình cụ thể, công khai nhằm tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia giám sát quá trình thực hiện.
Đảng cần có quy định rõ ràng về vai trò của mình, gắn bó chặt chẽ với Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân Đảng phải chịu sự giám sát của Nhân dân, tôn trọng quyền lợi chính đáng và hợp pháp của họ Thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" là điều cần thiết, đồng thời Đảng cũng phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình.
Ba là, cần tăng cường phân cấp và phân quyền đi đôi với việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ quyền lực để chống lại sự tha hóa quyền lực Đồng thời, cần đề cao trách nhiệm của các địa phương trong việc bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý thống nhất từ Trung ương.
Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu là cần thiết để đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và cá nhân phụ trách Việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và tập thể lãnh đạo là rất quan trọng, đồng thời cần có cơ chế xử lý rõ ràng đối với người đứng đầu khi có vi phạm.