TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng quan nghiên cứu
Phát triển nông nghiệp và nông thôn, cùng với xây dựng nông thôn mới (XDNTM) và giải quyết vấn đề của nông dân, đang là chủ đề được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến việc huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho XDNTM từ nhiều góc độ khác nhau.
1.1.1 Các nghiên cứu liên quan đến vấn đề huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
Các tác giả Trần Quang Minh (2011) trong tác phẩm “Nông nghiệp Hàn
Trong bài viết "Analysis of Saemaul Undong: a Korean rural development programme in the 1970s" của Sooyoung Park (2009), tác giả đã phân tích sự phát triển của nông nghiệp Hàn Quốc và các chính sách áp dụng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn thông qua phong trào xây dựng "làng mới" Những yếu tố chính góp phần vào thành công của phong trào này bao gồm: khuyến khích sự tham gia của người dân thông qua lợi ích thiết thực, phát triển cộng đồng xã hội, phân cấp quản lý và thực hiện dự án, tăng cường năng lực lãnh đạo địa phương, và phát huy dân chủ cùng sức sáng tạo của nhân dân Từ đó, tác giả rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhấn mạnh rằng các chính sách huy động và sử dụng nguồn lực tài chính của Chính phủ Hàn Quốc đã mang lại sự phát triển vượt bậc cho nền nông nghiệp.
Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai các chính sách nhằm mở rộng chương trình trợ cấp trực tiếp, ổn định giá cả sản phẩm nông nghiệp, phát triển và mở rộng các nguồn thu phi nông nghiệp, cũng như thực hiện các biện pháp hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp.
Nguyễn Thành Lợi (2012) trong bài viết về xây dựng nông thôn mới của Nhật Bản đã chỉ ra rằng quá trình phát triển nông thôn tại Nhật Bản được chia thành ba giai đoạn: đầu tiên là tăng cường nguồn lực tài chính cho cơ sở hạ tầng; thứ hai là nâng cao sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân; và cuối cùng là phát triển các sản phẩm đặc trưng của địa phương Đỗ Tiến Sâm, Nguyễn Xuân Cường và Lê Thế Cương đã phân tích thực tiễn hiện đại hóa nông nghiệp ở Trung Quốc và rút ra bài học cho Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính thông qua tuyên truyền, đổi mới chính sách, phát triển tổ chức kinh tế nông thôn và xây dựng hệ thống thị trường Các tác giả cũng nhấn mạnh cần có cơ chế giám sát để đảm bảo nguồn lực được sử dụng hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới.
Trong cuốn sách "Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế NT, thực trạng và giải pháp" của Chu Tiến Quang (2005), tác giả đã phân tích cách huy động và sử dụng các nguồn lực như đất nông nghiệp, lao động nông thôn và vốn cho sự phát triển nông thôn Ông cũng đề xuất các giải pháp nhằm phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này Đặc biệt, cuốn sách nhấn mạnh tầm quan trọng của ba nguồn lực chính: đất đai, nguồn nhân lực và nguồn vốn, trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Luân (2011) trong nghiên cứu về huy động nguồn lực cộng đồng cho xây dựng nông thôn mới đã chỉ ra rằng, để đạt hiệu quả cao, các xã cần chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân và thực hiện công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng Vai trò của cán bộ và lãnh đạo cũng rất quan trọng trong việc lựa chọn ưu tiên và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng dựa trên đặc điểm văn hóa, tín ngưỡng Khi xây dựng đề án, cần xác định rõ khả năng và nguồn lực của cộng đồng Mặc dù có nhiều văn bản quy định về vai trò của người dân, nhưng các chính sách hiện tại vẫn chưa cụ thể và thiếu quy trình thực hiện rõ ràng Hơn nữa, cơ chế huy động vốn và các hình thức huy động tài chính từ cộng đồng vẫn chưa được ban hành đồng bộ, dẫn đến việc thực hiện phụ thuộc vào từng địa phương.
Nguyễn Sinh Cúc (2013) trong bài viết "Nhìn lại Chương trình xây dựng nông thôn mới sau 2 năm thí điểm" đã chỉ ra rằng chương trình xây dựng nông thôn mới (XDNTM) đã thu hút được nhiều nguồn lực cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Tuy nhiên, chương trình vẫn gặp nhiều bất cập, như yêu cầu vốn đầu tư lớn trong khi nguồn lực từ Nhà nước và cộng đồng còn hạn chế, cùng với tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, dẫn đến tiến độ triển khai các dự án chậm.
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2013) chỉ ra rằng thách thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay là hiệu quả đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn Sự phân tán trong đầu tư dẫn đến lãng phí và trùng lặp, làm giảm hiệu quả đầu tư Nhu cầu vốn cho cơ sở hạ tầng trong tương lai đã vượt quá khả năng của ngân sách nhà nước Mặc dù phát hành trái phiếu là hình thức tài trợ chủ yếu ở cấp địa phương, thị trường trái phiếu tại Việt Nam vẫn chưa phát triển và chủ yếu chỉ có trái phiếu Chính phủ Các yếu tố liên quan đến tài trợ và quản lý rủi ro khiến khu vực tư nhân không mặn mà đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trong khi các ngân hàng thương mại cũng rất hạn chế cho vay chính quyền địa phương do lo ngại về rủi ro Quy định hiện tại cho phép sử dụng đất để huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nhưng việc áp dụng công cụ này vẫn gặp nhiều khó khăn.
Chương trình "đổi đất lấy hạ tầng" gặp phải một số hạn chế do nguồn đất đai có hạn và giá trị đất ở nhiều khu vực không đủ cao Để khắc phục tình trạng này, báo cáo khuyến nghị áp dụng các công cụ mới nhằm thu hút nguồn lực tài chính tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, bao gồm việc xây dựng quỹ phát triển địa phương để đóng vai trò là bên cho vay thứ cấp và cải thiện môi trường thuận lợi cho phát hành trái phiếu địa phương phát triển.
Luận án của Trần Ngọc Minh (2012) về “Vốn để phát triển kinh tế NN, NT ở tỉnh Yên Bái” đã chỉ ra vai trò quan trọng của vốn trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đồng thời đề xuất hai nhóm giải pháp chính: huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách nhà nước, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và cộng đồng, cùng với việc sử dụng vốn hiệu quả thông qua phân bổ hợp lý và kiểm tra, giám sát Đoàn Thị Hân (2013) trong nghiên cứu tại xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, nhấn mạnh rằng các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn trong việc huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới, trong khi các xã nghèo gặp khó khăn trong việc thu hút nguồn đầu tư, chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Hoàng Văn Hoan (2014), trong công trình nghiên cứu “Xây dựng mô hình
Để tăng cường huy động vốn cho phát triển nông thôn miền núi (NTM) tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản Trước hết, cần quy hoạch lại dân cư nhằm tránh lãng phí đầu tư ở những khu vực thưa thớt Thứ hai, việc lồng ghép các chương trình sẽ giúp tăng thêm nguồn lực cho phát triển Hơn nữa, huy động vốn cần đi kèm với phân bổ hợp lý để đảm bảo hiệu quả Nhà nước cũng nên yêu cầu các doanh nghiệp trích một tỷ lệ lợi nhuận nhất định cho xây dựng NTM Cuối cùng, việc tăng cường tuyên truyền và vận động sự đóng góp của các hộ dân là rất quan trọng.
Nguyễn Hoàng Hà (2014) trong nghiên cứu "Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp huy động vốn đầu tư cho CTMTQG XDNTM giai đoạn đến năm 2020" đã chỉ ra rằng các nguyên nhân chính hạn chế kết quả huy động vốn của Chương trình giai đoạn 2011-2013 bao gồm khả năng hạn chế của NSTƯ và NSĐP, cũng như sự tham gia bị động của cộng đồng địa phương Tác giả cũng đã đề xuất nhiều giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện chính sách huy động vốn trong thời gian tới.
Bài viết “Giải pháp huy động vốn đầu tư cho chương trình XDNTM”
Bài viết năm 2014 của Đỗ Thu Trang, Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và Vũ Thu Trang nêu rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến huy động vốn cho Chương trình xây dựng nông thôn mới (XDNTM), bao gồm tình trạng kinh tế suy thoái, nguồn lực ngân sách nhà nước (NSTƯ) phân bổ cho chương trình còn hạn chế, và sự chậm trễ trong phê duyệt kế hoạch phân bố vốn, từ đó ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân Để khắc phục tình trạng này, các tác giả đề xuất nâng cao chất lượng quy hoạch và đào tạo cán bộ quản lý cho chương trình XDNTM.
Nguyễn Mậu Thái (2015) trong luận án “Nghiên cứu XDNTM các huyện phía Tây thành phố Hà Nội” chỉ ra rằng, ngoài sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và nguồn lực tài chính, việc xây dựng nông thôn mới (XDNTM) tại các xã trong vùng chủ yếu phụ thuộc vào nguồn lực đất đai Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường hiện nay có nhiều biến động, nguồn lực này đang có xu hướng thiếu ổn định và bền vững, gây khó khăn cho các địa phương trong quá trình XDNTM.
Lê Sỹ Thọ (2016) trong luận án "Huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng NTM trên địa bàn thành phố Hà Nội" đã trình bày cơ sở khoa học về việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng cơ sở hạ tầng NTM Ông cũng đã đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư trong lĩnh vực này tại Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng NTM tại thành phố.
Phương pháp nghiên cứu của luận án
1.2.1 Phương pháp luận trong nghiên cứu luận án
Luận án áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lê nin nhằm phân tích các quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý, huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới.
1.2.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
1.2.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu khảo sát a Chọn điểm điều tra
Dựa trên tình hình xây dựng NTM tại tỉnh Hà Tĩnh, nghiên cứu sinh đã lựa chọn 4 xã tiêu biểu đại diện cho các nhóm xã khác nhau: Thạch Châu (huyện Lộc Hà) là xã điểm XDNTM của tỉnh; Trường Sơn (huyện Đức Thọ) là xã điểm của huyện; Hương Vĩnh (huyện Hương Khê) là xã thường; và Cẩm Hòa (huyện Cẩm Xuyên) đại diện cho nhóm xã khó khăn Việc này nhằm cung cấp cái nhìn khách quan về quá trình xây dựng NTM tại tỉnh Trong bối cảnh phát triển NTM tại Hà Tĩnh trong những năm qua, các Sở, Ban ngành đã tích cực triển khai công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực cho XDNTM Nghiên cứu sinh đã chọn điều tra tại các Sở, Ban ngành từ cấp tỉnh đến huyện, xã để hiểu rõ hơn về chủ trương, cơ chế và chính sách liên quan đến quản lý nguồn lực cho XDNTM tại tỉnh Hà Tĩnh.
Chương trình xây dựng NTM thu hút sự tham gia của các cấp CQĐP, nông dân, doanh nghiệp và tổ chức chính trị xã hội, cùng với cán bộ quản lý nguồn lực cho phát triển nông thôn Nghiên cứu áp dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện với kích thước mẫu N = 320, chọn các nhóm đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau Tại mỗi xã mục tiêu, tiến hành phỏng vấn 5 nhóm gồm đại diện CQ, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, nông dân và cư dân phi nông nghiệp với tổng cộng 50 hộ, 10 cán bộ và 5 doanh nghiệp Các cuộc phỏng vấn diễn ra chủ yếu tại thôn, đồng thời phỏng vấn 20 cán bộ liên quan đến quản lý nguồn lực từ cấp huyện đến tỉnh và 40 doanh nghiệp tiêu biểu trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
1.2.2.2 Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp
Thu thập và hệ thống hóa tất cả số liệu liên quan đến nghiên cứu, sau đó xử lý và phân tích chúng để đánh giá hiệu quả Nghiên cứu các lý thuyết và luận điểm liên quan đến phát triển nông nghiệp để áp dụng vào thực tiễn.
Quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là vấn đề quan trọng, đòi hỏi rà soát các văn bản chính sách liên quan Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM tại Hà Tĩnh cần được đánh giá dựa trên niên giám thống kê hàng năm của cả nước và tỉnh, cùng với số liệu điều tra từ Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê Hà Tĩnh Ngoài ra, các nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, giáo trình, sách chuyên khảo và báo cáo khoa học cũng đóng góp giá trị cho nội dung nghiên cứu về XDNTM.
NCS đã tiến hành tập hợp và phân tích dữ liệu thu thập được theo mục tiêu xác định, từ đó sàng lọc những dữ liệu thứ cấp để xây dựng cơ sở lý luận và kinh nghiệm về quản lý huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) tại một số địa phương trong và ngoài nước Những tư liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích thực trạng quản lý huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho XDNTM tại tỉnh Hà Tĩnh Đồng thời, dữ liệu thứ cấp cũng được sử dụng để làm rõ các mục tiêu, giải pháp, dự báo, cũng như cơ hội và thách thức trong công tác quản lý này tại Hà Tĩnh.
1.2.2.3 Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu sơ cấp a Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Phương pháp điều tra khảo sát trực tiếp bằng phiếu phỏng vấn
Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp được thực hiện thông qua các bảng hỏi đã được chuẩn bị sẵn, chi tiết có tại Phụ lục 4 Các bảng hỏi này được thiết kế để khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý huy động và sử dụng nguồn lực.
NLTC cho XDNTM ở địa phương như sau:
+ Các yếu tố thuộc về nhà nước
+ Điều kiện tự nhiên và kinh tế -xã hội
+ Các yếu tố thuộc về người dân
+ Sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp
Để củng cố các luận cứ cho luận án, nghiên cứu sinh đã tiến hành phỏng vấn và thảo luận nhóm với các lãnh đạo của UBND tỉnh Hà Tĩnh cùng với các chuyên viên từ nhiều sở, ban ngành như Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư.
NN và Phát triển NT, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Lao động-Thương Binh và Xã hội, Cục Thuế, Ngân hàng NN và Phát triển NT, Ngân hàng Chính sách và Xã hội đang thảo luận về các vấn đề liên quan đến luận án, nhằm đưa ra quan điểm, định hướng và giải pháp tăng cường quản lý huy động, sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới tại Hà Tĩnh Phương pháp phân tích dữ liệu sơ cấp sẽ được áp dụng để hỗ trợ nghiên cứu này.
Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu trên phiếu điều tra được nghiên cứu sinh tiến hành tổng hợp thủ công và được hệ thống hóa xử lý bằng phần mềm Excel.
Phương pháp phân tích số liệu
Thống kê mô tả là công cụ quan trọng trong việc xử lý và tính toán các trị số phản ánh đặc tính của các hiện tượng Nó giúp mô tả mức độ và sự biến động của các chỉ số thống kê, từ đó làm rõ thực trạng các hiện tượng kinh tế - xã hội, phục vụ cho nội dung nghiên cứu.
Thống kê so sánh là công cụ hữu hiệu để phân tích và so sánh các chỉ tiêu kinh tế - xã hội theo thời gian và không gian, giúp làm rõ các khía cạnh liên quan đến nội dung của luận án Việc áp dụng phương pháp này không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quan mà còn hỗ trợ việc đưa ra những nhận định chính xác về sự phát triển và biến động của các chỉ tiêu trong bối cảnh cụ thể.
-Phương pháp phân tích đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý huy động, sử dụng các NLTC cho XDNTM:
Phương pháp phân tích định tính là công cụ quan trọng để khám phá và điều chỉnh các biến quan sát liên quan đến quản lý huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) Nghiên cứu định tính được áp dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu nhằm tổng hợp và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nguồn lực tài chính tại Hà Tĩnh.
Phân tích định lượng là phương pháp bổ sung cho phân tích định tính, sử dụng mô hình dựa trên các hàm toán học với các biến độc lập và phụ thuộc khác nhau Dữ liệu phân tích được lấy từ khảo sát nghiên cứu sinh xây dựng, nhằm đánh giá tác động của các yếu tố liên quan đến quản lý huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới tại Hà Tĩnh Luận án áp dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy bội để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nguồn lực tài chính.
XDNTM Để tiến hành phân tích hồi quy, kích thước mẫu phải bảo đảm:
50 (với n là cỡ mẫu, m là số biến độc lập trong mô hình) [103] Cỡ mẫu được lựa
Trong nghiên cứu này, số lượng mẫu được chọn là n = 320 Dữ liệu từ các phiếu phỏng vấn đã được xử lý tổng hợp và các kiểm định, tính toán được thực hiện bằng phần mềm SPSS 22.0.
Chương 1 của luận án đã làm rõ tổng quan các đề tài nghiên cứu liên quan đến XDNTM nói chung, quản lý huy động và sử dụng các NLTC cho XDNTM nói riêng Các nghiên cứu này, đã gợi mở nhiều vấn đề cho NCS xây dựng cơ sở lý luận, vận dụng lý luận vào nghiên cứu thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm quản lý huy động, sử dụng hiệu quả các NLTC cho XDNTM tại Hà Tĩnh.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CHO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH
Một số vấn đề chung về xây dựng nông thôn mới
2.1.1 Nông thôn và vai trò của nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội
Nông thôn (NT) được định nghĩa là khu vực nằm ngoài đô thị, có môi trường tự nhiên và điều kiện sống khác biệt, nơi mà dân cư chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (NN) Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành như trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
Theo tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), có hai phương pháp chính để định nghĩa nông thôn Phương pháp thứ nhất dựa trên định nghĩa địa chính trị, trong đó các trung tâm tỉnh, huyện được coi là thành thị, còn lại được xem là nông thôn Phương pháp thứ hai dựa vào mức độ tập trung dân cư, xác định thành thị dựa trên các cộng đồng có số lượng hộ gia đình sống gần nhau, ví dụ như từ 2000 người trở lên Hiện nay, Việt Nam áp dụng phương pháp đầu tiên, theo đó nông thôn được hiểu là các địa bàn thuộc xã, trong khi các phường hoặc thị trấn được phân loại là khu vực thành thị.
Nông thôn là môi trường sống đặc trưng của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội với nhiều nét đặc sắc Nó không phải là đô thị, cả về không gian sống lẫn tổ chức xã hội, nhưng cũng không hoàn toàn đối lập với đô thị, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa Tóm lại, nông thôn được hiểu là nơi sinh sống của người nông dân với những hoạt động và đặc điểm riêng biệt, khác biệt với đô thị.
Tại các quốc gia đang phát triển, nông thôn thường có những đặc điểm chính như sau: Địa lý nông thôn thường là những khu vực rộng lớn, bao quanh các thành phố, thị xã và thị trấn.
Về kinh tế, NT chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, cùng với các ngành nghề thủ công và dịch vụ phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp và nông dân.
Dân cư ở NT chủ yếu là nông dân và gia đình họ, với mật độ dân cư thấp hơn so với thành phố, tạo nên tính cộng đồng cao và nhiều yếu tố tập quán riêng biệt Đồng thời, NT cũng chú trọng bảo tồn môi trường sinh thái tự nhiên, giúp con người có cơ hội gần gũi hơn với thiên nhiên.
NT là một khu vực sinh sống của cộng đồng dân cư, chủ yếu là nông dân, tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường Khu vực này hoạt động trong một thể chế chính trị cụ thể và chịu tác động từ các tổ chức khác, tạo nên sự phân biệt với đô thị.
2.1.1.2 Vai trò của khu vực nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội
Nông nghiệp (NN) đóng vai trò thiết yếu trong sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế, cung cấp lương thực và đảm bảo an ninh lương thực, từ đó góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội Ngoài ra, NN còn là nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu nông sản, giúp giảm nghèo nhanh chóng và bền vững nhờ vào việc tạo ra nhiều việc làm cho người lao động Hơn nữa, NN cũng hỗ trợ phát triển thị trường nội địa cho hàng hóa công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của nền kinh tế.
NT đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, vì mỗi tộc người đều bắt nguồn từ NT Bản sắc văn hóa làng quê gắn liền với bản sắc văn hóa của từng dân tộc, do đó, việc gìn giữ văn hóa làng quê chính là gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nền văn minh công nghiệp đã làm suy giảm mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, dẫn đến những tác động tiêu cực đến môi trường Việc phát triển nông nghiệp bền vững không chỉ bảo vệ hệ thống sinh thái mà còn giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của con người Các yếu tố như đất canh tác, hệ thống thủy lợi, rừng, vườn cây và ao cá đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giảm ô nhiễm tiếng ồn, cải thiện nguồn nước và ngăn chặn xói mòn đất Qua đó, nông nghiệp góp phần làm cho con người trở nên gần gũi và gắn bó hơn với thiên nhiên.
2.1.2 Nông thôn mới, những yêu cầu đặt ra và kết quả kỳ vọng đối với xây dựng nông thôn mới
Nông thôn mới (NTM) là một mô hình tổ chức nông thôn tiên tiến, đáp ứng các tiêu chí mới trong bối cảnh hiện đại NTM không chỉ mang tính văn minh, hiện đại mà còn giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam.
Xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là một quá trình phát triển toàn diện, bao gồm các hoạt động đa dạng với sự tham gia của cá nhân, nhóm và tổ chức, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng nông thôn Mục tiêu của XDNTM là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường nông thôn, đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa thành phố và nông thôn Trong quá trình này, người dân địa phương đóng vai trò chủ thể, với sự hỗ trợ tích cực từ Nhà nước.
Trên thế giới, đầu tiên, khái niệm phát triển NT gắn liền với khái niệm phát triển
Chiến lược NN nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, tăng sản lượng và khả năng tiếp thị, đã đạt được sự hài lòng cao sau cuộc cách mạng Xanh, giải quyết vấn đề an ninh lương thực cho nhiều quốc gia Trong thập kỷ 1960, phát triển NT đồng nghĩa với hiện đại hóa sản xuất và đời sống cư dân Đến thập kỷ 1970, các phương pháp phát triển NT phụ thuộc vào sự can thiệp của Nhà nước, trong khi thập kỷ 1980 chứng kiến làn sóng tự do hóa thương mại theo Đồng thuận Washington Ngân hàng Thế giới và UNDP đã đề xuất “chiến lược phát triển NTM”, tập trung cải thiện đời sống kinh tế - xã hội cho người nghèo ở NT, nhằm nâng cao mức sống cho nhóm thu nhập thấp và tạo ra tiến trình phát triển bền vững Hoạt động phát triển NT trở thành chương trình tổng hợp, nhắm đến xóa đói giảm nghèo, giảm chênh lệch thu nhập và tạo thêm việc làm.
Phát triển nông thôn (NT) bao gồm sự biến đổi xã hội và các hoạt động của chính phủ, mở rộng từ sản xuất nông nghiệp sang giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội Thập kỷ 1990 chứng kiến sự gia tăng phương pháp huy động người dân tham gia và nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương Sự thay đổi trong hệ thống nông nghiệp - nông thôn bao gồm các khía cạnh kỹ thuật, môi trường, kinh tế và xã hội, với mục tiêu phát triển tổng hợp vùng, cải thiện đời sống cư dân, tăng sản lượng và thu nhập bình quân đầu người, tạo thêm việc làm và thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa thành phố và nông thôn Đồng thời, phát triển nông thôn cũng hướng tới tự chủ kinh tế, đô thị hóa nông thôn, xây dựng nông thôn đa chức năng và hiện đại hóa ngành nông nghiệp.
Một vấn đề quan trọng trong phát triển nông thôn (NT) là xác định động lực và tổ chức chỉ đạo quá trình này Nhiều tác giả nhấn mạnh vai trò của yếu tố xã hội và thể chế, với mục tiêu chính là nâng cao mức sống của người nghèo thông qua việc khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên tự nhiên và con người Sự tham gia tích cực của cộng đồng là cần thiết để xây dựng các định chế và hoạt động của bộ máy phát triển, với sự thay đổi phải bắt nguồn từ chính những người sống tại NT Quá trình này mang tính tự phát triển và tự lập, trong khi tác động bên ngoài chỉ đóng vai trò hỗ trợ và khởi động Tại Việt Nam, cho đến năm 2007, vẫn chưa có chính sách cụ thể nào dành cho NT, khiến chính sách phát triển NT nằm trong khuôn khổ chung mà chưa được tập trung.
Nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới ở địa phương cấp tỉnh
2.2.1.1 Khái niệm về nguồn lực tài chính
Tài chính, dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, đều xoay quanh việc ra quyết định và mục đích liên quan đến các quỹ tiền tệ trong xã hội Bản chất của tài chính được thể hiện qua các hoạt động tài chính cụ thể, đặc biệt là sự phân bổ các nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính (NLTC) có nhiều quan điểm khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận Một trong những quan điểm cho rằng NLTC là khối lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ, được hình thành từ quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ NLTC phản ánh các mối quan hệ kinh tế xã hội trong phân phối, tương ứng với trình độ phát triển của nền kinh tế, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu bằng tiền của các chủ thể trong quá trình tái sản xuất.
NLTC được hiểu là khả năng tài chính mà các chủ thể kinh tế có thể khai thác và sử dụng thông qua các quan hệ tài chính, nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể.
Phạm trù NLTC, trong nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ của cải vật chất do lao động con người tạo ra và tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định, phản ánh giá trị của cả nguồn lực vật chất và nguồn lực con người Trong nghĩa hẹp, NLTC biểu hiện bằng tiền của các nguồn lực thuộc về quốc gia, tổ chức và cá nhân NLTC thể hiện khả năng tài chính mà các chủ thể xã hội có thể khai thác và sử dụng để thực hiện các mục đích của mình, tồn tại dưới dạng tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất.
NLTC, hay nguồn lực tài chính, có thể được định nghĩa là các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh chóng thành tiền trong nền kinh tế Những nguồn lực này có thể được huy động để tạo ra các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong luận án, nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) được định nghĩa là các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền Những nguồn lực này được hình thành từ các quan hệ tài chính trong nền kinh tế và được huy động, sử dụng để đáp ứng các tiêu chí XDNTM.
2.2.1.2 Phân loại nguồn lực tài chính
NLTC đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, với nguồn gốc đa dạng từ cá nhân, doanh nghiệp, và các tổ chức chính trị - xã hội Tùy thuộc vào mục đích phân tích, NLTC có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau, phản ánh quy mô và phạm vi phong phú của chúng.
- Phân loại theo nguồn huy động:
Ngân sách Nhà nước (NSNN) đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM) thông qua các khoản chi đầu tư NSNN cung cấp nguồn lực tài chính cần thiết cho các hạng mục cơ bản của NTM Chương trình xây dựng NTM được hỗ trợ trực tiếp từ NSNN, bao gồm cả trái phiếu Chính phủ và nguồn lực tài chính từ việc lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm thúc đẩy các dự án hỗ trợ đặc thù tại khu vực nông thôn.
NLTC từ tín dụng bao gồm nguồn vốn từ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vay thương mại Khi huy động vốn qua tín dụng, các chủ thể thường xem xét tỷ suất sinh lời từ vốn vay so với chi phí vay Đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn có mức rủi ro cao và tỷ suất sinh lời thấp hơn so với ngành công nghiệp và dịch vụ Do đó, để thu hút tín dụng đầu tư vào khu vực này, cần có sự can thiệp hỗ trợ từ Nhà nước thông qua các chính sách ưu đãi cho người vay và tổ chức tín dụng.
NLTC từ các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đầu tư xây dựng các công trình NTM, với khả năng thu hồi vốn qua các hình thức như BOT, BT hoặc liên doanh, liên kết Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể hỗ trợ đóng góp cho các dự án cụ thể nhằm phát triển NTM tại địa phương Nguồn vốn này đặc biệt cần thiết trong giai đoạn phát triển nông nghiệp.
Huy động hiệu quả nguồn vốn từ cộng đồng dân cư sẽ có tác động lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Đồng thời, việc này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và chuyển giao trình độ quản lý cũng như khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn Nguồn lực tài chính từ cộng đồng bao gồm các khoản đóng góp tự nguyện của người dân cho từng dự án cụ thể và các khoản viện trợ không hoàn lại từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Phân loại theo xuất xứ NLTC
Nguồn lực tài chính trong nước (NLTC) bao gồm hai khu vực chính: khu vực nhà nước và khu vực tư nhân Từ khu vực nhà nước, NLTC bao gồm vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn lực từ doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính trung gian Trong khi đó, khu vực tư nhân cung cấp NLTC thông qua doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức tín dụng tư nhân, cùng với vốn tiết kiệm của hộ gia đình và cá nhân.
NLTC từ nước ngoài bao gồm nhiều nguồn vốn quan trọng như nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn từ các tổ chức phi Chính phủ (NGO) và nguồn vốn từ cá nhân người nước ngoài.
- Phân loại theo thời gian huy động
NLTC ngắn hạn là loại vốn huy động và sử dụng trong thời gian dưới 1 năm, với đặc điểm ít rủi ro và chi phí huy động thấp Loại vốn này chủ yếu phục vụ cho các mục đích đầu tư ngắn hạn và giúp quay vòng vốn nhanh chóng.
NLTC trung và dài hạn là nguồn vốn huy động với thời gian sử dụng trên 1 năm Loại hình này có đặc điểm là thời gian sử dụng kéo dài, chịu rủi ro lớn hơn và chi phí huy động cao hơn NLTC trung và dài hạn thường được sử dụng cho các dự án cần thời gian hoàn vốn dài hoặc hoàn vốn từng phần.
2.2.2 Vai trò của các nguồn lực tài chính đối với xây dựng nông thôn mới
Một là, NLTC là điều kiện cần thiết để phát triển CSHT KT-XH theo định hướng NTM.
Quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới ở địa phương cấp tỉnh
2.3.1 Khái niệm về quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
Quản lý là quy trình mà người quản lý sử dụng các công cụ và phương pháp phù hợp để tác động và điều khiển đối tượng, nhằm đảm bảo hoạt động và phát triển theo các quy luật khách quan, đồng thời đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý nhà nước về kinh tế là quá trình mà Nhà nước tác động đến hệ thống kinh tế thông qua các chính sách và biện pháp quản lý nhằm điều chỉnh và phát triển nền kinh tế.
(nền kinh tế) nhằm hướng sự vận hành của nền kinh tế theo các mục tiêu đặt ra”[77].
CTMTQG là tập hợp các mục tiêu và giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Đây là cơ chế giúp chính phủ phân bổ nguồn lực tài chính cho các chính sách quan trọng, với nguồn vốn đặc biệt khác biệt so với ngân sách thông thường, bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển Trong đó, XDNTM là một CTMTQG về phát triển nông thôn trên toàn quốc, yêu cầu huy động và sử dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời quản lý các nguồn lực này theo các đặc điểm và mục đích của quản lý tài chính công.
Quản lý tài chính công là hoạt động của các chủ thể quản lý nhằm sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý để điều khiển tài chính công, đạt được các mục tiêu đã định Campos và Pradhan (1996) xác định ba kết quả lý tưởng của hệ thống quản lý tài chính công: kỷ luật tài khóa, phân bổ nguồn lực theo ưu tiên chính sách, và quản lý tác nghiệp tốt Kỷ luật tài khóa dựa trên dự báo chính xác về thu nhập và lập kế hoạch chiến lược, trong khi phân bổ nguồn lực phải phù hợp với các ưu tiên chính phủ, đảm bảo sự phối hợp giữa các cấp chính quyền Quản lý tác nghiệp tốt bao gồm việc tối ưu hóa chi phí đầu vào và đầu ra, đồng thời đạt được kết quả mong muốn Họ cũng nhấn mạnh rằng tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình có thể tạo ra những ràng buộc cần thiết cho chính quyền Các kết quả đầu ra được đo lường dựa trên sự tín nhiệm ngân sách, tính toàn diện và minh bạch của chính sách, cùng với khả năng kiểm soát và giám sát từ bên ngoài.
Nội dung quản lý tài chính công bao gồm: thiết lập và duy trì kỷ cương ngân sách, phân bổ hiệu quả nguồn lực tài chính công thông qua phân cấp quản lý sâu rộng, và tăng cường tính minh bạch cùng trách nhiệm giải trình tài khóa Điều này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, với sự hỗ trợ từ cơ quan tư pháp và cơ quan kiểm toán.
Quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới (XDNTM) ở cấp tỉnh là một yếu tố quan trọng, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và bền vững trong các dự án phát triển Việc áp dụng các quan niệm chung về quản lý sẽ giúp các địa phương tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương.
NLTC cho XDNTM tại các địa phương cấp tỉnh là sự can thiệp của chính quyền nhà nước ở các cấp (tỉnh, huyện, xã) nhằm huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho việc xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch và mục tiêu đã đề ra.
Khái niệm này chỉ rõ các vấn đề sau:
Một là, chính quyền các cấp cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ theo chức năng quản lý nhà nước về các NLTC cho XDNTM trên địa bàn tỉnh.
Quản lý nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) bao gồm việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này, đồng thời đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi.
2.3.2 Các công cụ quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
Pháp luật là hệ thống quy tắc bắt buộc do Nhà nước thiết lập nhằm phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu đã định Công cụ pháp luật giúp quản lý và tạo môi trường cho việc sử dụng nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới (XDNTM) một cách có trật tự Để đảm bảo thi hành pháp luật tại địa phương, các cơ quan địa phương cần thực hiện đồng bộ các biện pháp tuyên truyền, giáo dục và áp dụng quy định pháp luật phù hợp với đặc thù từng vùng Đồng thời, các cơ quan này cũng phải nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công và tăng cường hiểu biết pháp luật cho người dân trong quá trình thực hiện chương trình XDNTM.
Các chính sách huy động, phân bổ, sử dụng và kiểm tra giám sát nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo động lực thúc đẩy hiện thực hóa các mục tiêu của chương trình Chính sách hỗ trợ XDNTM được chia thành hai nhóm: nhóm chính sách trực tiếp, bao gồm đầu tư cơ sở hạ tầng cấp xã như trụ sở, đường xã, nhà văn hóa, trạm y tế và trường học; và nhóm chính sách gián tiếp, bao gồm đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chính sách tín dụng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, cũng như tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Kế hoạch huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước, bao gồm kế hoạch dài hạn, trung hạn và hằng năm Kế hoạch này không chỉ là phương án hành động trong tương lai mà còn là quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát các hoạt động liên quan Ở cấp tỉnh, các cơ quan địa phương sử dụng kế hoạch để quản lý nguồn lực tài chính cho XDNTM thông qua việc xác định mục tiêu, định hướng và các dự án cụ thể, đồng thời cân đối và phân bổ nguồn lực một cách hợp lý.
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của Nhà nước Nhà nước sử dụng công cụ tổ chức để kiểm tra và giám sát việc thực hiện quy định pháp luật, xử lý vi phạm, tranh chấp và giải quyết khiếu nại của tổ chức, cá nhân Trong xây dựng nông thôn mới (XDNTM), Nhà nước thành lập Ban chỉ đạo và Văn phòng điều phối Chương trình XDNTM từ Trung ương đến địa phương, quy định chức năng và nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan liên quan, bao gồm quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực cho XDNTM.
Hệ thống giám sát, thanh tra, kiểm tra, kế toán và kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực liên quan đến huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới Những công cụ này giúp đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài chính, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của các dự án nông thôn.
Các công cụ kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý quá trình huy động và sử dụng nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới (NTM) Chúng bao gồm các quy định về chất lượng công trình NTM, tiêu chí NTM và hệ thống thiết bị hỗ trợ quản lý nguồn lực, như máy tính và phần mềm quản lý.
2.3.3 Nội dung quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
2.3.3.1 Thiết lập khuôn khổ pháp lý và chính sách cho việc quản lý huy động, sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
Chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là những định hướng quan trọng của Nhà nước nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả Việc thiết lập khuôn khổ pháp lý phù hợp không chỉ xác định quyền lợi mà còn tạo động lực cho việc huy động và sử dụng các nguồn lực này Hơn nữa, một khuôn khổ pháp lý đầy đủ sẽ giúp giảm thiểu tình trạng thất thoát và chiếm dụng vốn trong quá trình XDNTM, đồng thời tăng cường niềm tin của các bên liên quan vào các nguồn lực tài chính cho XDNTM.
Với nội dung này, quản lý huy động, sử dụng NLTC thực hiện như sau:
Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính
2.4.1 Các yếu tố thuộc về nhà nước
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch xây dựng nông thôn mới của địa phương đóng vai trò quyết định trong việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính Việc này không chỉ phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà còn đặc biệt quan trọng cho xây dựng nông thôn mới Do các dự án xây dựng nông thôn mới thường yêu cầu tổng mức đầu tư lớn, việc có một kế hoạch dài hạn và ổn định sẽ là yếu tố then chốt để thu hút nguồn lực tài chính đầu tư.
Các chính sách của nhà nước tạo ra hành lang pháp lý cho việc quản lý huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) Hệ thống chính sách đồng bộ và đầy đủ, chú trọng đến đặc thù địa phương sẽ nâng cao hiệu quả trong việc huy động và sử dụng nguồn lực này Việc phân cấp cho các cơ quan địa phương trong quản lý sẽ khuyến khích tính chủ động và sáng tạo của các địa phương Để áp dụng các chính sách hiệu quả, các cơ quan địa phương cần điều chỉnh linh hoạt theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn.
Năng lực quản lý điều hành của CQĐP là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới (XDNTM) Trình độ quản lý cao, phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng cấp, từng ngành sẽ nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực, trong khi trình độ quản lý thấp sẽ dẫn đến kết quả kém Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của CQĐP bao gồm cơ cấu tổ chức và năng lực thực hiện công khai, minh bạch trong huy động và sử dụng nguồn lực cho XDNTM Trách nhiệm giải trình được thực hiện theo hai hướng: từ cấp dưới lên cấp trên và từ cấp trên xuống cấp dưới, nhằm tạo sự kết nối giữa chính quyền và nhân dân Trong bối cảnh cải cách hành chính hiện nay, việc thực hiện trách nhiệm giải trình hai chiều là cần thiết để thu thập thông tin phản hồi từ cộng đồng, từ đó tạo sự đồng thuận và ủng hộ cho các chính sách của chính quyền về XDNTM.
Nhận thức của cán bộ quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới Khi đội ngũ này có nhận thức tốt và tinh thần trách nhiệm cao, đồng thời xem xét quyền lợi và nghĩa vụ của người dân, hiệu quả công tác sẽ được nâng cao Ngược lại, nếu nhận thức kém, hiệu quả huy động và sử dụng nguồn lực sẽ giảm sút.
2.4.2 Các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên và điều kiện KT-XH
Hoạt động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực nông thôn, nhưng lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên Sự thuận lợi của thiên nhiên có tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp, trong khi mọi biến đổi tự nhiên đều ảnh hưởng đến đời sống cư dân nông thôn và quá trình xây dựng nông thôn mới (XDNTM) Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và giá rẻ cùng vị trí địa lý thuận lợi cũng là yếu tố quan trọng thu hút các nguồn lực cho XDNTM.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) được đánh giá qua các tiêu chí như cơ sở hạ tầng, tăng trưởng GRDP và giá trị sản xuất nông nghiệp Khi kinh tế địa phương phát triển cao, đời sống người dân được cải thiện, việc huy động nguồn lực tài chính cộng đồng trở nên thuận lợi hơn, góp phần vào xây dựng nông thôn mới (XDNTM) Sự gia tăng của cải vật chất và nhu cầu sống chất lượng hơn giúp nhà nước tăng tỷ lệ động viên từ GDP vào ngân sách nhà nước Đồng thời, các tổ chức và cá nhân có thêm điều kiện để đầu tư phát triển, từ đó tạo ra cơ hội cho việc huy động nguồn lực tài chính qua nhiều kênh khác nhau Tốc độ phát triển kinh tế đóng vai trò quan trọng, chi phối các yếu tố khác trong việc huy động và sử dụng nguồn lực cho XDNTM.
2.4.3 Các yếu tố thuộc về người dân
Nguồn nhân lực nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Trình độ lao động và dân trí của người dân là những yếu tố quyết định trong việc quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính cộng đồng cho xây dựng nông thôn mới.
Hiểu biết của người dân về xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là rất quan trọng Khi người dân nhận thức rõ vai trò chủ thể của mình trong quá trình này, họ sẽ chủ động và tự giác tham gia đóng góp nguồn lực cộng đồng cho chương trình, từ đó nâng cao hiệu quả và tính bền vững của các dự án phát triển nông thôn.
Sự tham gia của người dân vào xây dựng nông thôn mới (XDNTM) được đánh giá qua nhiều mức độ, bao gồm việc người dân quan tâm, được thông báo, thảo luận, góp ý và tham gia quyết định, giám sát, đánh giá các công việc liên quan Từ lý luận đến thực tiễn, sự tham gia này không chỉ đảm bảo kỷ luật tài khóa mà còn nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực tài chính và hoạt động Chương trình XDNTM có tác động lớn đến lợi ích của người dân nông thôn, do đó, sự tham gia của họ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của chương trình.
2.4.4 Sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp
Sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể trong việc xây dựng nông thôn mới (XDNTM) thể hiện qua việc quán triệt và thống nhất trong cộng đồng về ý nghĩa và nhiệm vụ của XDNTM, từ đó tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân để họ nhận thức rõ vai trò chủ thể của mình Đồng thời, các tổ chức này cũng đóng vai trò cầu nối hiệu quả giữa chính quyền địa phương và người dân Hơn nữa, họ tổ chức vận động nhân dân thi đua thực hiện XDNTM nhằm huy động nguồn lực cho công cuộc này Cuối cùng, các tổ chức đoàn thể cần gương mẫu đi đầu trong việc triển khai và thực hiện đóng góp nguồn lực cho XDNTM, đồng thời sử dụng hiệu quả các công trình nông thôn mới.
Thu hút DN đầu tư vào NN, NT có ý nghĩa rất quan trọng trong XDNTM.
Doanh nghiệp (DN) trực tiếp đóng góp vào việc phát triển nông thôn mới (XDNTM) thông qua việc nâng cao sản xuất và thu nhập cho người dân Một trong những cách thức là thu hút đầu tư vào nông nghiệp để khai thác tiềm năng và lợi thế của địa phương, đặc biệt là các yếu tố về thổ nhưỡng, khí hậu và kinh nghiệm sản xuất Tuy nhiên, để phát huy các lợi thế này và chuyển đổi sản xuất nông nghiệp từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn, cần có sự tác động và thúc đẩy từ các DN DN có vai trò quan trọng trong việc phát huy tiềm năng địa phương nhờ vào trình độ chuyên môn cao, khả năng tiếp cận thị trường tốt, quy mô vốn lớn, và công nghệ tiên tiến Với những ưu điểm này, DN có khả năng khai thác hiệu quả các thế mạnh của nông nghiệp địa phương, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư và phát triển kinh tế bền vững.
Đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro cho sản xuất mà còn bảo vệ quyền lợi của nông dân Ngành nông nghiệp thường xuyên đối mặt với nhiều rủi ro do phụ thuộc vào thời tiết và dịch bệnh Ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển, nông dân thường ở trong tình thế yếu thế, khó tiếp cận thị trường và nguồn lực sản xuất Sự tham gia của doanh nghiệp vào nông nghiệp tạo ra liên kết, giúp chia sẻ và giảm thiểu rủi ro trong quá trình sản xuất Khi quyền lợi của doanh nghiệp và nông dân được gắn kết, cả hai bên sẽ nỗ lực hơn trong việc giảm thiểu rủi ro để bảo vệ lợi ích của mình và đối tác.
Ba là, thu hút đầu tư của DN vào NN góp phần gia tăng giá trị cho sản phẩm
Khái niệm chuỗi giá trị, lần đầu tiên được Michael Porter mô tả vào năm 1985, đã trở thành công cụ quan trọng trong phân tích hoạt động kinh tế Chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động mà sản phẩm trải qua, tạo ra giá trị tại mỗi giai đoạn Hiện nay, chuỗi giá trị không chỉ diễn ra trong nước mà còn xuyên quốc gia, bao gồm ba giai đoạn chính: sản xuất, thu mua, chế biến và thương mại Lợi nhuận trong giai đoạn sản xuất thường thấp và rủi ro cao, trong khi các giai đoạn khác mang lại lợi nhuận cao hơn với ít rủi ro hơn Điều này lý giải vì sao nhiều nhà đầu tư chọn tập trung vào thu mua và thương mại thay vì sản xuất Nghiên cứu cho thấy, ở các quốc gia nông nghiệp lạc hậu, giá trị sản phẩm thường chỉ dừng lại ở khâu sản xuất mà không chú trọng đến việc gia tăng giá trị ở các giai đoạn tiếp theo, dẫn đến việc người nông dân nhận được lợi ích tối thiểu trong toàn bộ chuỗi giá trị.
Thu hút đầu tư từ doanh nghiệp vào nông nghiệp là một phương pháp quan trọng để gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp vào sản xuất, cùng với việc thiết lập liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân, cho phép nông dân tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Việc thu hút đầu tư từ doanh nghiệp vào nông nghiệp không chỉ giúp sản phẩm tiếp cận thị trường tiêu thụ mà còn tạo điều kiện cho việc mở rộng xuất khẩu Doanh nghiệp có khả năng tổ chức lưu thông hàng hóa hiệu quả, từ đó nâng cao quy mô sản xuất và tiếp cận thị trường toàn cầu Đồng thời, doanh nghiệp cũng dựa vào nhu cầu thị trường để xây dựng kế hoạch sản xuất và phân phối, góp phần cấu trúc lại nền sản xuất nông nghiệp theo hướng gắn kết với thị trường, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng Hơn nữa, doanh nghiệp có thể nắm bắt thông tin về thị trường, yêu cầu về chất lượng, giá cả và chủng loại sản phẩm, từ đó điều chỉnh hoạt động sản xuất để kịp thời thích ứng với biến động của thị trường.
Kinh nghiệm về quản lý huy động, sử dụng các nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới tại một số quốc gia và địa phương ở Việt Nam
2.5.1 Kinh nghiệm của một số quốc gia
Trên thế giới có nhiều chương trình phát triển NT theo hướng tiếp cận dựa vào cộng đồng Một số kinh nghiệm có liên quan đến đề tài là:
2.5.1.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Năm 1970, Tổng thống Pắc Chung Hy đã phát động phong trào “Làng mới” Phong trào đề cao “Tinh thần Saemaul” gồm 3 thành tố: “Chăm chỉ - Tự lực
Hợp tác là tinh thần cốt lõi của phong trào đổi mới, nhấn mạnh sự tự chủ, ý chí sáng tạo, và tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư Để phát triển bền vững, cần có những giải pháp phù hợp nhằm khuyến khích sự tham gia và đóng góp của mọi thành viên trong xã hội.
Nông thôn (NT) được hình thành và phát triển thông qua việc huy động nội lực của nhân dân (ND) bằng cách tổ chức các nhóm phát triển cộng đồng tại các làng, xã Sự hỗ trợ từ chính sách của Nhà nước cùng với nguồn lực vật chất hạn chế đã khơi dậy sức mạnh tinh thần và nội lực của ND, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nông thôn.
Một số kinh nghiệm quản lý huy động và sử dụng NLTC rút ra từ phong trào đổi mới NT của Hàn Quốc:
Để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn hiệu quả, cần phát huy vai trò của người lao động từ cộng đồng dân cư Các chính sách của Nhà nước nên tập trung vào việc khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đồng, nhằm nâng cao trách nhiệm và quyền lợi của họ trong quá trình phát triển hạ tầng.
ND trong phát triển NT NLTC cho các công trình CSHT được xác định theo nguyên tắc Nhà nước đóng góp 1 phần, trong khi người dân đóng góp từ 5-10 phần Người dân có quyền tự quyết định và biểu quyết về mức độ đóng góp và bồi thường cho những cá nhân bị ảnh hưởng, bao gồm đất đai và tài sản.
Nguyên tắc sử dụng NLTC "hỗ trợ nhiều hơn cho các thôn thành công hơn" đã kích thích hiệu quả và tăng tính cạnh tranh giữa các thôn, đồng thời thúc đẩy sự tham gia để đạt được thành tích tốt hơn Phong trào đổi mới NT được thực hiện theo phương châm từng bước, bắt đầu từ thí điểm hẹp rồi mở rộng ra toàn quốc, từ xây dựng đến sản xuất, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho người dân có thời gian chuyển đổi tư duy và phương thức làm việc, cũng như thời gian để chọn lựa và đào tạo cán bộ cơ sở, giúp nông hộ tự tích lũy và mở rộng sản xuất.
Nhà nước cần phát huy tinh thần dân chủ trong quản lý các nguồn lực cho phong trào đổi mới nông thôn bằng cách chuyển giao quyền quản lý vật tư cho nhân dân Người dân sẽ chủ động bầu ra Ủy ban phát triển nông thôn để đại diện cho công tác quản lý, đồng thời tham gia thảo luận và quyết định ưu tiên cho các công trình, chịu trách nhiệm toàn diện trong thiết kế, chỉ đạo thi công và nghiệm thu công trình.
2.5.1.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Sau Thế chiến thứ hai, Chính phủ Nhật Bản đã tập trung đầu tư vào công nghiệp và các đô thị lớn để nhanh chóng khôi phục và ổn định đất nước, dẫn đến sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa cư dân đô thị và nông thôn Sự di cư ồ ạt của cư dân nông thôn đến các đô thị đã làm trầm trọng thêm tình trạng này, khiến xã hội truyền thống nông thôn Nhật Bản gần như bị suy tàn và dân số nông thôn giảm đáng kể Để giải quyết vấn đề này và phát triển hài hòa giữa nông thôn và đô thị, Chính phủ Nhật Bản đã khởi xướng chương trình “Chấn hưng nông thôn” cùng với nhiều giải pháp khác nhau qua từng giai đoạn Một số kinh nghiệm trong quản lý và sử dụng nguồn lực nông thôn từ quá trình cải cách nông thôn của Nhật Bản đã được rút ra để áp dụng trong bối cảnh hiện tại.
Một là, xây dựng và thực hiện hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ cho huy động và sử dụng NLTC cho phát triển NN, NT
Hai là, đầu tư NLTC lớn cho phát triển NN, NT Để giải quyết vấn đề thiếu
NLTC đã đầu tư vào sự phát triển nông nghiệp, trong khi Nhật Bản triển khai các chính sách hỗ trợ như trợ giá nông sản và xây dựng quỹ rủi ro giá cả nông sản Đồng thời, Nhật Bản cũng chú trọng vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
NN, NT, trong đó người ND bỏ ra 30%, Chính phủ bỏ ra 70%.
Ba là, khuyến khích người ND tích cực tham gia, coi trọng tính tự lập tự chủ, coi trọng NLTC từ cộng đồng.
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp Tổ chức này không chỉ quản lý các vấn đề liên quan đến nông nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và nông thôn Việc phát huy vai trò của HTXNN sẽ giúp tăng cường sự hợp tác giữa các nông dân, nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện đời sống cộng đồng.
Hơn 99% hộ nông dân ở Nhật Bản thuộc tổ chức hợp tác xã, tạo nên một mạng lưới rộng khắp cung cấp dịch vụ nhanh chóng và hiệu quả Sự mạnh mẽ của tập thể này không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn mà còn nâng cao đời sống cho nông dân, bảo vệ quyền lợi của họ và thúc đẩy hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
2.5.1.3 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới, có khoảng 53,4% dân số sinh sống tại khu vực nông thôn, tương đương với 710 triệu người Tương tự như Việt Nam, trước đây
NT Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn Kinh tế thuần nông, thu nhập của dân cư
Sự phân cách giữa nông thôn và thành thị ở Trung Quốc đã dẫn đến những khó khăn nghiêm trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc đã triển khai nhiều chính sách mới nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn Hội nghị Trung ương Khóa 17 (2006) của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thông qua chiến lược “Đẩy mạnh phát triển cải cách nông thôn”, với mục tiêu xây dựng nông thôn mới theo hướng xã hội chủ nghĩa và hiện đại hóa nông nghiệp mang đặc trưng Trung Quốc Chính phủ khẳng định tầm quan trọng của việc hỗ trợ “tam nông” và nhấn mạnh cần có một hệ thống chính sách tài chính mạnh mẽ để đầu tư vào nông thôn và nông nghiệp Những bài học kinh nghiệm từ quản lý nông thôn có thể áp dụng cho việc xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
Một là, đầu tư NLTC lớn từ NSNN hỗ trợ NT phát triển Chính phủ Trung
Quốc đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước vào việc xây dựng nông thôn toàn diện, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng, cải tạo nhà ở, và nâng cao các dịch vụ phục vụ người dân như giáo dục và y tế Đồng thời, quốc gia cũng chú trọng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hai là, thực thi các chính sách hỗ trợ sản xuất NN, tăng thu nhập cho cư dân
NT Trung Quốc tích cực miễn giảm các loại thuế, các khoản phí ngoài thuế cho
Chính phủ Trung Quốc hỗ trợ nông dân thông qua ngân sách quốc gia, giúp chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng, vật nuôi, lương thực và thiết bị Để đảm bảo lợi nhuận cho nông dân, chính phủ quy định mức giá nông sản cơ bản; nếu giá thị trường thấp hơn mức này, họ sẽ bù đắp phần chênh lệch Ngoài ra, chính sách khen thưởng được áp dụng cho các huyện đạt sản lượng và năng suất cao trong sản xuất nông nghiệp hàng năm, với mức thưởng tương ứng với kết quả đạt được.
Ba là, việc xây dựng mạng lưới tín dụng nông thôn đến cấp xã với sự tham gia của nhiều tổ chức là rất quan trọng Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc đóng vai trò chủ chốt trong việc phát triển tín dụng nông thôn, không ngừng nâng cao mức độ hỗ trợ cho các khu vực này.