1. Trang chủ
  2. » Y Tế - Sức Khỏe

Thực trạng tuân thủ điều trị insulin ở người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện trung ương thái nguyên

44 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Tuân Thủ Điều Trị Insulin Ở Người Bệnh Đái Tháo Đường Type 2 Điều Trị Ngoại Trú Tại Bệnh Viện Trung Ương Thái Nguyên
Tác giả Nguyễn Việt Hương
Người hướng dẫn TTND.TS.BS Ngô Huy Hoàng
Trường học Trường Đại Học Điều Dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều Dưỡng Nội Khoa
Thể loại Báo Cáo Chuyên Đề Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2021
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 1,16 MB

Cấu trúc

  • Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (0)
    • 1.1. Cơ sở lý luận (11)
    • 1.2. Cơ sở thực tiễn (22)
  • Chương II: MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT (0)
    • 2.1. Giới thiệu sơ lược về Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên (26)
    • 2.1. Thực trạng tuân thủ điều trị insulin ở người bệnh đái tháo đường type2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên (27)
      • 2.1.1. Đối tượng và phương pháp khảo sát (27)
      • 2.1.2. Kết quả khảo sát (29)
    • 2.2. Phân tích ưu, nhược điểm (31)
      • 2.2.1. Ưu điểm và cơ hội (31)
      • 2.2.2. Nhược điểm và nguyên nhân (31)
    • Chương 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP (0)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Cơ sở lý luận

1.1.1 Định nghĩa đái tháo đường

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đái tháo đường được định nghĩa là một hội chứng có đặc điểm là tăng glucose trong máu, do thiếu hụt hoặc mất hoàn toàn insulin, hoặc do suy yếu trong việc tiết và hoạt động của insulin.

Theo định nghĩa của Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) năm 2010, đái tháo đường là một nhóm các rối loạn phức tạp liên quan đến tăng đường huyết và rối loạn dung nạp glucose, nguyên nhân chính là do thiếu insulin, giảm tác dụng của insulin hoặc cả hai Đái tháo đường type 2 được đặc trưng bởi tình trạng kháng insulin và thiếu insulin tương đối, và một trong hai rối loạn này có thể xuất hiện khi bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng của bệnh đái tháo đường.

Theo Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA), đái tháo đường là một nhóm rối loạn chuyển hóa, đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết Nguyên nhân của tình trạng này là do sự thiếu hụt sản xuất insulin, giảm hoạt động của insulin, hoặc cả hai yếu tố này.

1.1.2 Phân loại đái tháo đường

Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ phân loại đái tháo đường thành hai loại chính: Đái tháo đường type 1, đặc trưng bởi sự phá hủy tế bào bêta và thiếu insulin tuyệt đối, được chia thành hai thể do cơ chế tự miễn và không tự miễn; và Đái tháo đường type 2, với đặc điểm kháng insulin, giảm tiết insulin, tăng sản xuất glucose từ gan, và bất thường trong chuyển hóa mỡ Béo phì, đặc biệt là mỡ nội tạng hoặc béo phì trung tâm, là yếu tố phổ biến nhất liên quan đến ĐTĐ type 2.

Đái tháo đường có nhiều loại đặc hiệu như MODY (đái tháo đường do thiếu hụt chức năng tế bào bêtadi truyền) và các loại do di truyền như thiếu hụt hoạt động insulin, bệnh tuyến tụy ngoại tiết, hay các bệnh nội tiết như hội chứng đa nội tiết tự miễn, Cushing, và các u tiết hormone Ngoài ra, còn có đái tháo đường do thuốc, hóa chất, nhiễm trùng, hoặc các loại trung gian tự miễn như hội chứng Stiff – Man, Down, Klinerfelter, và Turner Đái tháo đường thai nghén thường được phát hiện lần đầu trong thai kỳ, với phần lớn trường hợp glucose máu trở về bình thường sau sinh, nhưng một số ít có thể tiến triển thành đái tháo đường type 2 Đái tháo đường thể LADA (đái tháo đường tự miễn ở người lớn) cũng là một dạng đáng chú ý của bệnh này.

Theo tổ chức y tế thế giới Who phân loại đái tháo đường như sau

Bệnh đái tháo đường được chia thành 4 loại chính: Đái tháo đường type 1, do phá hủy tế bào beta tụy dẫn đến thiếu insulin tuyệt đối; Đái tháo đường type 2, do giảm chức năng tế bào beta trên nền tảng đề kháng insulin; Đái tháo đường thai kỳ, được chẩn đoán trong 3 tháng giữa hoặc cuối của thai kỳ mà không có tiền sử ĐTĐ type 1, type 2; và các loại ĐTĐ đặc biệt do nguyên nhân khác Đái tháo đường type 1 chủ yếu xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên, với 95% trường hợp do cơ chế tự miễn Bệnh nhân type 1 cần insulin để ổn định glucose huyết, trong khi người lớn tuổi có thể mắc ĐTĐ tự miễn diễn tiến chậm (LADA) Đái tháo đường type 2, chiếm 90-95% trường hợp, thường không cần insulin để sống sót ở giai đoạn đầu, với tình trạng thiếu insulin tương đối và đề kháng insulin.

Đái tháo đường type 2 không có nguyên nhân cụ thể, nhưng thường liên quan đến béo phì, đặc biệt là béo phì vùng bụng Tình trạng này dẫn đến tăng acid béo trong máu và tiết hormone từ mô mỡ làm giảm hiệu quả của insulin, gây ra kháng insulin tại các cơ quan như gan và cơ Ban đầu, tế bào beta bù trừ bằng cách tăng tiết insulin, nhưng nếu kháng insulin kéo dài, tế bào beta không đủ khả năng sản xuất insulin, dẫn đến sự xuất hiện của ĐTĐ type 2 Mặc dù tình trạng kháng insulin có thể cải thiện khi giảm cân hoặc dùng thuốc, nhưng không bao giờ trở lại hoàn toàn bình thường Đái tháo đường thai kỳ được chẩn đoán trong 3 tháng giữa hoặc cuối thai kỳ, không có dấu hiệu của ĐTĐ type 1 hoặc type 2 trước đó.

Trong 3 tháng đầu phát hiện tăng glucose huyết, chẩn đoán có thể là đái tháo đường chưa được chẩn đoán, áp dụng tiêu chí tương tự như ở người không mang thai Đái tháo đường thứ phát và các thể bệnh chuyên biệt có thể liên quan đến khiếm khuyết trên nhiễm sắc thể thường, di truyền theo gen trội tại tế bào beta.

- ĐTĐ đơn gen thể MODY (Maturity Onset Diabetes of the Young)

- Insulin hoặc proinsulin đột biến: (Protein đột biến preproinsulin-gen INS)

Đột biến kênh KATP, bao gồm protein đột biến kênh chỉnh lưu Kali 6,2-gen KCNJ11 và thụ thể sulfonylurea 1-gen ABBC8, có thể dẫn đến các khiếm khuyết trên nhiễm sắc thể thường di truyền theo gen lặn tại tế bào beta, gây ra các hội chứng hiếm gặp như Mitchell-Riley, Wolcott-Rallison, Wolfram, và thiếu máu hồng cầu to đáp ứng thiamine, thường gây ĐTĐ sơ sinh hoặc ĐTĐ ở trẻ em Ngoài ra, khiếm khuyết gen liên quan đến hoạt tính insulin và các hội chứng bất thường nhiễm sắc thể như Down, Klinefelter, và Turner cũng có thể kết hợp với ĐTĐ Các bệnh lý tụy như viêm tụy, chấn thương, u tụy, cắt tụy, và xơ sỏi tụy, cũng như bệnh lý nội tiết như to đầu chi, hội chứng Cushing, u tủy thượng thận, cường giáp, và u tiết glucagon, có thể dẫn đến ĐTĐ Cuối cùng, một số loại thuốc và hóa chất như interferon alpha, corticoid, thiazide, hormon giáp, thuốc chống trầm cảm, và antiretroviral protease inhibitors cũng có thể gây ra tình trạng ĐTĐ.

1.1.3 Tình hình mắc đái tháo đường type 2 trên thế giới và tại Việt Nam a) Trên thế giới

Theo ước tính của Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF) vào năm 2017, có khoảng 425 triệu người trưởng thành trên toàn thế giới mắc bệnh đái tháo đường, tương đương 1 trong 11 người trong độ tuổi từ 20 đến 79 Dự báo đến năm 2045, con số này sẽ tăng lên 629 triệu Trong đó, vùng Tây Thái Bình Dương ghi nhận số người mắc bệnh cao nhất với 159 triệu, tiếp theo là vùng Đông Nam Á với 82 triệu người.

Tại Mỹ, có khoảng 30,19 triệu người được chẩn đoán mắc đái tháo đường, chiếm 10,8% dân số, cùng với 11,5 triệu người chưa được chẩn đoán Theo báo cáo của CDC năm 2017, cứ 10 người Mỹ thì có 1 người mắc bệnh này, và hơn một nửa số người mới được chẩn đoán nằm trong độ tuổi 45-64 Đáng chú ý, tỷ lệ mắc đái tháo đường type 2 đang gia tăng đáng kể ở người trẻ tuổi.

Theo thống kê của IDF năm 2017, Châu Âu có 58 triệu người mắc đái tháo đường, dự kiến con số này sẽ tăng 16% vào năm 2045, đạt khoảng 67 triệu người Tại Châu Phi, năm 2017 ghi nhận khoảng 16 triệu người mắc đái tháo đường ở vùng Nam Phi và 39 triệu người ở Bắc và Trung Phi, với dự báo tăng từ 110-156% vào năm 2045.

Theo ước tính của IDF năm 2019, có tới 3 trong 4 người mắc bệnh đái tháo đường, tương đương 352 triệu người, trong độ tuổi lao động từ 20 đến 64 tuổi Dự báo con số này sẽ tăng lên 417 triệu người vào năm 2030 và 486 triệu người vào năm 2045.

Đến năm 2045, dự báo số người trên 65 tuổi mắc bệnh đái tháo đường sẽ đạt 111 triệu, chiếm 20% trong tổng số người lớn tuổi này.

Dự kiến đến năm 2030, số người trên 65 tuổi mắc bệnh đái tháo đường sẽ tiếp tục tăng lên 195 triệu người Đến năm 2045, nó sẽ đạt 276 triệu b) Tại Việt Nam

Theo Bộ Y tế Việt Nam, dự báo tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường (ĐTĐ) ở người từ 20-79 tuổi sẽ tăng 78,5% từ 2017 đến 2045, từ 3,53 triệu lên 6,3 triệu người Việt Nam hiện nằm trong top 10 quốc gia có tỷ lệ gia tăng người mắc ĐTĐ cao nhất thế giới, với mức tăng 5,5% mỗi năm Sự gia tăng này đòi hỏi người dân cần nâng cao kiến thức về ĐTĐ, vì chỉ khi hiểu biết, họ mới có thể quản lý bệnh một cách hiệu quả Do đó, việc tuyên truyền và giáo dục sức khỏe cho cộng đồng là rất quan trọng.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Các nghiên cứu về kiến thức và thực hành tự tiêm insulin ở người bệnh đái tháo đường type 2 trên thế giới

Nghiên cứu tại Bệnh viện Bedele, Ethiopia năm 2020 của tác giả Fego M.W và cộng sự cho thấy 67,3% trong số 196 người tham gia có kiến thức tốt về bệnh ĐTĐ, với 96,9% nhận thức được lợi ích của liệu pháp insulin trong việc ngăn ngừa biến chứng Khoảng 65,3% người được hỏi cho rằng insulin hấp thụ nhanh hơn qua thành bụng hoặc rốn, và 83,6% hiểu tầm quan trọng của vị trí tiêm insulin Tuy nhiên, chỉ 22,9% biết cách tự sử dụng insulin đúng cách Nghiên cứu của Nair B.B và cộng sự năm 2021 cho thấy 63,4% trong số 245 bệnh nhân có kiến thức chung tốt, trong đó 78,4% hiểu rõ về thời gian tiêm và 89,4% về vị trí tiêm insulin, nhưng chỉ 43,3% có kiến thức tốt về thực hành tiêm ở góc nghiêng.

Nghiên cứu của tác giả Bhosale A và cộng sự tại Ấn Độ chỉ ra rằng người bệnh đái tháo đường có kiến thức tự tiêm insulin tốt với điểm trung bình đạt 19,81 ± 3,5 Tuy nhiên, thực hành tự tiêm insulin của họ chỉ ở mức độ trung bình, với điểm trung bình là 7,85 ± 1,81, và có đến 46,6% người bệnh thực hiện tiêm insulin ở mức độ trung bình.

Một nghiên cứu năm 2009 tại Brazil do tác giả Stacciarini T.S.G và cộng sự thực hiện cho thấy rằng 100% người bệnh không sát khuẩn nắp lọ insulin trước khi lấy thuốc Ngoài ra, 68% người bệnh không bơm khí vào lọ insulin, 7,1% không lấy đủ liều thuốc đã được kê đơn, và 100% không để khô khi sát khuẩn bằng cồn 70 độ Hơn nữa, 17,1% người bệnh không véo da trước khi tiêm, 42,6% không tiêm đúng góc 90 độ, 66,8% không kiểm tra xem có máu trào ra từ bơm tiêm, và 84,6% không đợi 5 giây trước khi rút kim.

Một nghiên cứu tại Ấn Độ về thực hành tự tiêm của bệnh nhân cho thấy 83,16% người bệnh thực hiện đúng góc tiêm, 76,34% chọn đúng vị trí, và 62,57% bảo quản insulin đúng cách Hơn nữa, 89,04% bệnh nhân ăn đúng thời gian sau tiêm và 82,22% vệ sinh thiết bị tiêm đúng cách Tuy nhiên, vẫn có 69,65% người bệnh không đổi vị trí tiêm đúng cách và 72,19% tái sử dụng kim tiêm quá 3 lần Đáng lưu ý, 12,57% người bệnh mắc loạn dưỡng phì đại mô mỡ, tỷ lệ này có liên quan lớn đến việc thực hiện sai kỹ thuật đổi vị trí tiêm (RR 20,07; p < 0,001).

Nghiên cứu của Narayanapillai S và cộng sự năm 2020 tại Trung tâm y tế phía Bắc Sri Lanka trên 360 người bệnh cho thấy 81,4% bệnh nhân đã thực hiện sát khuẩn trước khi tiêm, trong đó 89,7% sử dụng phương pháp sát khuẩn hình xoáy chôn ốc Khoảng 50,8% bệnh nhân tự tiêm, và 91,4% trong số họ sử dụng bơm kim tiêm Các biến chứng tại chỗ tiêm thường gặp bao gồm thay đổi da (25%), sưng dai dẳng (15,3%) và mỏng da (7,8%) Đáng chú ý, 83,6% bệnh nhân đã sử dụng lại kim tiêm và 35% vứt kim tiêm vào thùng rác thông thường.

Một vấn đề quan trọng liên quan đến việc tự tiêm insulin ở bệnh nhân đái tháo đường là sự không tuân thủ y lệnh sử dụng insulin Nghiên cứu của Farsaei S và cộng sự chỉ ra rằng 28,8% bệnh nhân đái tháo đường type 2 không tuân thủ liệu trình điều trị insulin Tương tự, nghiên cứu của Lerman I và cộng sự cho thấy con số này lên đến 41%.

1.2.2 Các nghiên cứu về kiến thức và tự tiêm insulin ở người bệnh đái tháo đường type 2 tại Việt Nam

Nghiên cứu của Đặng Thị Hân và cộng sự năm 2020 tại Bệnh viện đa khoa Tỉnh Nam Định cho thấy 62,4% bệnh nhân ĐTĐ type 2 có kiến thức tự tiêm insulin, với điểm trung bình đạt 13,85 ± 3,8 trên 21 điểm Hầu hết bệnh nhân (98,3%) biết bảo quản thuốc chưa mở trong tủ lạnh, nhưng chỉ 23,1% biết cách bảo quản thuốc đang sử dụng Chỉ 30,8% quan tâm đến hạn dùng và 13,7% ghi lại ngày mở lọ thuốc Về vị trí tiêm, 100% bệnh nhân biết tiêm ở vùng bụng, 97,4% ở vùng đùi, trong khi chỉ 40,2% biết tiêm ở vùng mông Tỷ lệ bệnh nhân luân chuyển vị trí tiêm là 62,4% Hạ đường huyết là tác dụng phụ được biết đến nhiều nhất (100%), trong khi loạn dưỡng mỡ và nhiễm khuẩn nơi tiêm chỉ được biết đến với tỷ lệ 41% và 41,9% Ngoài ra, chỉ 42,7% bệnh nhân chú ý rửa tay sạch trước khi tiêm, nhưng đa số đều biết sát trùng vị trí tiêm (91,5%) và đâm kim đúng góc độ (92,3%) Tất cả 117 bệnh nhân đều biết cách hủy bơm tiêm đã sử dụng.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thoa (2018) tại Bệnh viện 19-8 Bộ Công An cho thấy khoảng 88% bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú không rửa tay trước khi tiêm, trong khi 100% bệnh nhân đều thực hiện sát khuẩn vị trí tiêm.

Nghiên cứu của Phùng Văn Lợi và Đào Thanh (2018) đã khảo sát 178 bệnh nhân mắc ĐTĐ2 theo tiêu chuẩn của hiệp hội ĐTĐ Mỹ (ADA) 2012 Kết quả cho thấy, 34,2% bệnh nhân tự tiêm insulin tốt, 47,8% tự tiêm ở mức độ khá, trong khi chỉ có 18% bệnh nhân tự tiêm kém.

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hân và Nguyễn Thị Hoàng Vân tại Bệnh viện tim mạch An Giang chỉ ra rằng có nhiều bệnh nhân mắc lỗi trong thực hành tiêm insulin Cụ thể, 27,2% bệnh nhân thực hiện sai vị trí tiêm và 27,2% khác thực hiện sai kỹ thuật tiêm Đáng chú ý, tới 45,5% bệnh nhân chưa thực hiện chính xác kỹ thuật tiêm insulin.

MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT

Giới thiệu sơ lược về Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, thành lập năm 1951, là bệnh viện hạng I trực thuộc Bộ Y tế, phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc Đây cũng là cơ sở thực hành chính của trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên Qua nhiều giai đoạn phát triển và đổi tên, bệnh viện đã khẳng định vị thế quan trọng trong hệ thống y tế của tỉnh Thái Nguyên.

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên có 45 trung tâm/ khoa/ phòng trong đó

Bệnh viện được tổ chức với 10 trung tâm, 23 khoa lâm sàng, 3 khoa cận lâm sàng và 9 phòng chức năng Đội ngũ nhân lực của bệnh viện bao gồm 02 phó giáo sư, 09 tiến sĩ và 42 bác sĩ chuyên khoa II, đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh hiệu quả.

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên sở hữu quy mô 1300 giường bệnh kế hoạch và 1521 giường thực kê, với đội ngũ nhân sự gồm 163 thạc sỹ và bác sĩ chuyên khoa I, 410 cán bộ có trình độ cử nhân và đại học, cùng 573 cán bộ có trình độ cao đẳng và trung cấp.

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

Khoa khám bệnh - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên không chỉ thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh mà còn quản lý các bệnh mạn tính không lây nhiễm, đặc biệt là đái tháo đường Phòng khám quản lý bệnh đái tháo đường theo dõi hơn 3000 bệnh nhân, giúp họ kiểm soát tốt tình trạng bệnh, duy trì đường huyết ổn định và nhận được tư vấn về dinh dưỡng, thuốc men cũng như kỹ thuật tự tiêm insulin tại nhà Việc giáo dục sức khỏe và lối sống tích cực góp phần làm chậm tiến triển của bệnh, ngăn ngừa biến chứng, giảm tỷ lệ tàn phế và tử vong, đồng thời giảm gánh nặng cho các khoa điều trị nội trú và chi phí cho người bệnh và xã hội Đái tháo đường là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật toàn cầu, do đó, thông tin và giáo dục là yếu tố thiết yếu để cải thiện kiến thức và thực hành, từ đó dẫn đến kiểm soát bệnh tốt hơn Người bệnh càng nhận thức rõ trách nhiệm của mình thì càng ít mắc sai lầm trong việc sử dụng insulin, điều này rất quan trọng vì điều trị đái tháo đường là một quá trình kéo dài suốt đời.

Thực trạng tuân thủ điều trị insulin ở người bệnh đái tháo đường type2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

Trong bối cảnh hạn chế về thời gian và nguồn lực, một khảo sát ngắn hạn đã được thực hiện từ ngày 01 tháng 06 năm 2021 đến ngày 30 tháng 06 năm 2021 để đánh giá khách quan thực trạng tuân thủ điều trị insulin ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Khoa khám Bệnh BVTWTN.

2.1.1 Đối tượng và phương pháp khảo sát

- Đối tượng tham gia khảo sát: gồm 63 người bệnh đang điều trị đái tháo đường type 2 ngoại trú tại Phòng khám Đái tháo đường của Khoa Khám bệnh - BVTWTN

Tiêu chuẩn lựa chọn cho nghiên cứu bao gồm những bệnh nhân được chẩn đoán mắc đái tháo đường typ 2 và được chỉ định tiêm insulin tại nhà Bệnh nhân cần có khả năng tự trả lời bộ câu hỏi đã được lập sẵn, ngoại trừ những trường hợp không đồng ý tham gia nghiên cứu.

+ Đặc điểm bệnh nhân về nhân khẩu học: Tuổi, giới, nơi sinh sống, …

+ Số năm người bệnh được điều trị ĐTĐ type 2

+ Việc đánh giá tuân thủ điều trị Insulin của người bệnh đái tháo đường type

Hai phương pháp điều trị ngoại trú được đánh giá qua bộ câu hỏi tự điền về kiến thức tiêm insulin và việc thực hành khả năng tự tiêm insulin của bệnh nhân Đánh giá này được thực hiện thông qua quan sát trực tiếp dựa vào bảng kiểm khi bệnh nhân thực hiện tiêm tại phòng khám.

Bài phỏng vấn bệnh nhân về kiến thức tự tiêm insulin bao gồm 5 phần với tổng cộng 17 câu hỏi Mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm, trong khi câu trả lời sai không được điểm nào Điểm số tối thiểu có thể đạt được là 0, và điểm tối đa là 17 Sau khi hoàn thành, tổng điểm của từng phần kiến thức sẽ được tính toán để phân loại mức độ hiểu biết của bệnh nhân.

- Kiến thức đạt: > 8 điểm (tương đương trả lời đúng > 50% tổng số câu hỏi, từ 9/17 câu)

Kiến thức đạt yêu cầu về khả năng tự tiêm Insulin được xác định khi người bệnh có điểm số từ 9 trở lên, tương ứng với việc trả lời đúng ít nhất 50% tổng số câu hỏi (tối thiểu 9/17 câu) Để đánh giá khả năng tự tiêm Insulin, cần quan sát và sử dụng bảng kiểm khi người bệnh thực hiện tiêm tại phòng khám Dụng cụ tiêm mẫu bao gồm bút tiêm Insulin, kim tiêm kích thước 0,25x6mm và hộp đựng bông cồn Kỹ thuật tự tiêm Insulin được chấm điểm theo thang 28 điểm, phân loại thành 3 mức: Tốt (22-28 điểm), Khá (18-21 điểm) và Kém (0-17 điểm).

Kỹ thuật thu thập số liệu bao gồm việc sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn nhằm đánh giá kiến thức của người bệnh, đồng thời áp dụng bảng kiểm để quan sát và đánh giá thực hành tự tiêm tại phòng khám.

2.1.2.1 Thông tin chung về người bệnh được khảo sát

Bảng 2.1: Đặc điểm người bệnh đái tháo đường type 2 được khảo sát (nc) Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %

Nơi sinh sống Nông thôn 28 44,4

Người sống cùng Sống một mình 33 52,3

Trong nghiên cứu với 63 bệnh nhân ĐTĐ type 2, nhóm tuổi từ 60-69 chiếm 52%, nhóm tuổi từ 70-79 chiếm 40%, và có 8 bệnh nhân trên 80 tuổi, chiếm 8% Tỷ lệ bệnh nhân nam là 63,5%, trong khi bệnh nhân nữ chiếm 36,5% Hơn một nửa (55,6%) bệnh nhân sống ở thành phố, còn 44,4% sống ở nông thôn Đáng chú ý, có 33 bệnh nhân, tương đương 52,3%, đang sống một mình.

Trong khảo sát của chúng tôi về bệnh nhân tiểu đường type 2, 39,7% người tham gia có trình độ học vấn từ trung cấp trở lên, trong khi 28,6% có trình độ cấp 3 Bên cạnh đó, 19% người bệnh đạt trình độ cấp 2 và 12,7% có trình độ cấp 1.

Bảng 2.2: Đặc điểm về tình trạng bệnh (nc)

Nội dung Số lượng Tỷ lệ %

Số lần tiêm trong ngày 1 lần 10 15,9

Tỷ lệ người bệnh điều trị bệnh ĐTĐ trên 10 năm chiếm 41,33%, trong khi thời gian điều trị từ 5-9 năm là 31,7% và dưới 5 năm là 27% Số lần tiêm insulin trong ngày chủ yếu là 2 lần, chiếm 50,8%, tiếp theo là hơn 3 lần với 33,3% và 1 lần với 15,9% Mức HbA1C của người bệnh dao động từ 5,7 đến 13,8%, với giá trị trung bình là 7,6 ± 1,32%.

2.1.2.2 Kiến thức về tiêm insulin của người bệnh được khảo sát

Bảng 2.3 Kết quả đánh giá kiến thức tự tiêm insuin (nc)

Kiến thức tự tiêm Số lượng Tỷ lệ % Đạt 41 65,1

Nhận xét: Tỷ lệ người bệnh đạt kiến thức tự tiêm insulin là 65,1%

2.1.2.3 Kết quả thực hành tự tiêm insulin của người bệnh ĐTĐ type 2

Bảng 2.4: Thực hành tự tiêm Insulin của người bệnh ĐTĐ type 2 (nc)

Thực hành tự tiêm Số lượng Tỷ lệ %

Trong một nghiên cứu tại Phòng khám, 63 bệnh nhân tự tiêm insulin đã được quan sát, cho thấy chỉ 30,2% thực hiện kỹ thuật tự tiêm tốt, 52,4% thực hiện ở mức khá, trong khi 17,5% bệnh nhân có kỹ năng tiêm ở mức kém.

Phân tích ưu, nhược điểm

2.2.1 Ưu điểm và cơ hội

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên tự hào với cơ sở vật chất hiện đại và đội ngũ nhân viên tận tâm, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng, đặc biệt là người cao tuổi Khoa Khám Bệnh của bệnh viện có 3 phòng khám chuyên biệt cho bệnh nhân ĐTĐ, với đội ngũ 3 bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp 1 trở lên và 6 điều dưỡng chuyên nghiệp, đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh và tư vấn giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân điều trị ngoại trú.

Khi người bệnh đến khám lần đầu, họ sẽ được hướng dẫn từ bàn tiếp nhận và đưa đến các phòng khám để thực hiện các xét nghiệm máu, nước tiểu, siêu âm và điện tim nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe Sau đó, bệnh nhân sẽ được cấp phát thuốc và tư vấn cách sử dụng Đặc biệt, những bệnh nhân cần điều trị insulin sẽ được hướng dẫn quy trình tuân thủ điều trị theo hướng dẫn của Bộ Y tế và các biện pháp kiểm soát đường huyết như tập luyện và theo dõi đường máu.

Mỗi bệnh nhân được cấp một hồ sơ bệnh án và mã số riêng, được lưu trữ trong hệ thống quản lý của bệnh viện để theo dõi lâu dài Bệnh nhân cũng có một cuốn sổ theo dõi sức khỏe tại nhà Trong mỗi lần khám bệnh, bác sĩ sẽ ghi chép đầy đủ thông tin và chỉ định vào bệnh án cũng như sổ theo dõi của bệnh nhân.

Mỗi tháng, bệnh nhân sẽ đến khám theo lịch hẹn với bác sĩ để thực hiện xét nghiệm kiểm tra đường máu và nhận thuốc điều trị cho tháng tiếp theo.

2.2.2 Nhược điểm và nguyên nhân

Tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, thực trạng tuân thủ điều trị insulin ở bệnh nhân đái tháo đường gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng Chỉ có 65,1% người bệnh có kiến thức đầy đủ về tiêm insulin, trong khi 34,9% còn lại chưa đạt yêu cầu Tỷ lệ sai sót trong kỹ thuật tuân thủ điều trị insulin vẫn cao, đặc biệt ở người cao tuổi và những bệnh nhân tiêm insulin từ 2 lần/ngày trở lên Những người bệnh có thời gian mắc bệnh lâu năm cũng thường mắc nhiều sai sót trong việc điều trị Đáng chú ý, tỷ lệ người sống độc thân trong nghiên cứu chiếm tới 52,3%, cho thấy một yếu tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến việc tuân thủ điều trị Những sai sót này có thể được giải thích bởi một số nguyên nhân nhất định.

* Về công tác tư vấn giáo dục sức khỏe về kỹ thuật tuân thủ điều trị insulin

Mặc dù đội ngũ bác sĩ và điều dưỡng tại phòng quản lý đái tháo đường ngoại trú rất nhiệt tình và có chuyên môn cao, nhưng do số lượng bệnh nhân quá đông (> 3000 người) và thiếu nhân lực, họ phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau Điều này dẫn đến việc cán bộ y tế chưa thể cung cấp tư vấn giáo dục sức khỏe đầy đủ và thường xuyên cho bệnh nhân về kỹ thuật tiêm.

Mặc dù người bệnh đã được hướng dẫn quy trình tiêm insulin và có sự quan sát khi tiêm, nhưng họ thường chỉ được theo dõi trong lần đầu tiên khi bắt đầu tự tiêm insulin tại nhà.

Việc kiểm soát thực hành tự tiêm insulin và kỹ thuật tiêm insulin tại nhà của người bệnh là khó

* Về sự tuân thủ điều trị đái tháo đường bằng tiêm insulin của người bệnh ngoại trú

Trong quá trình điều trị có nhiều yếu tố dẫn đến người bệnh không tuân thủ sử dụng hoặc tiêm insulin không đúng cách:

Nhiều bệnh nhân có thể không tiêm insulin vì các lý do như phải điều trị nhiều bệnh khác, lo ngại về nguy cơ hạ đường huyết, hoặc quên tiêm do suy giảm trí nhớ.

Bệnh nhân tiểu đường điều trị bằng insulin thường gặp phải nhiều sai sót trong quy trình tiêm do thiếu hướng dẫn, quên các bước thực hiện, cũng như phải tiêm nhiều lần trong ngày và sử dụng nhiều loại insulin khác nhau, dẫn đến nguy cơ nhầm lẫn cao.

Bệnh nhân đái tháo đường type 2 thường là người cao tuổi và có thể gặp khó khăn trong nhận thức và trí nhớ Vì vậy, việc tiêm insulin cần có sự hướng dẫn từ người thân, tránh để bệnh nhân tự tiêm, nhằm giảm thiểu sai sót trong quá trình điều trị.

Nhiều bệnh nhân mắc bệnh lâu năm chỉ nhận được tư vấn một lần duy nhất khi bắt đầu sử dụng insulin và không được đào tạo lại về kỹ thuật tiêm Điều này dẫn đến việc họ dễ mắc phải nhiều sai sót trong quá trình tiêm insulin.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 52,3% bệnh nhân sống độc thân, dẫn đến việc thiếu hỗ trợ từ người thân trong việc tiêm insulin Điều này có thể làm gia tăng khả năng mắc sai sót trong quá trình tiêm insulin, đặc biệt là ở những người có vấn đề về trí nhớ.

Chương 3 ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Dựa trên cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng tuân thủ điều trị insulin ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tuân thủ điều trị insulin, đặc biệt cho người cao tuổi Một trong những giải pháp quan trọng là tăng cường giáo dục sức khỏe và tư vấn điều trị tại bệnh viện, giúp bệnh nhân hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc tuân thủ phác đồ điều trị.

Xây dựng phòng thực hành tiêm insulin cho bệnh nhân đái tháo đường ngoại trú là cần thiết, với đội ngũ cán bộ y tế chuyên trách nhằm hướng dẫn quy trình tiêm insulin Đồng thời, các chuyên gia cũng sẽ tư vấn và giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, giúp họ hiểu rõ hơn về cách quản lý bệnh đái tháo đường hiệu quả.

Xây dựng quy trình kỹ thuật tiêm insulin cho bệnh nhân ngoại trú dưới dạng tờ rơi hoặc video hướng dẫn là rất quan trọng Tài liệu này sẽ cung cấp cho bệnh nhân đái tháo đường những thông tin cần thiết về cách tiêm insulin đúng cách, đặc biệt nhấn mạnh những bước dễ bị bỏ qua hoặc quên Việc này không chỉ giúp bệnh nhân thực hiện tiêm insulin hiệu quả mà còn nâng cao sự tự tin và đảm bảo an toàn trong quá trình điều trị.

Thường xuyên tập huấn và nâng cao trình độ cho các cán bộ chuyên trách tại phòng bệnh ĐTĐ tại Khoa khám bệnh - BVTWTN

Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến Bệnh viện xây dựng chương trình đào tạo

Ngày đăng: 01/04/2022, 14:06

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Y tế (2013), Danh mục hướng dẫn quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnhchuyên ngành Nội tiết (ban hành kèm theo Quyết định số 1119 ngày 05 tháng 4 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế):, chủ biên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh mục hướng dẫn quy trình kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành Nội tiết
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2013
2. Bộ Y tế (2017), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đái tháo đường típ 2 (Ban hành kèm theo Quyết định số 3319/QĐ-BYT ngày 19 tháng 7 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế, chủ biên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đái tháo đường típ 2
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Bộ Y tế
Năm: 2017
3. Đặng Thị Hân và Trần Thị Bích Đào và Nguyễn Thị Dung và cộng sự (2020). Thực trạng kiến thức tự tiêm insulin của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh nam định năm 2020. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 03(05), 263-272 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng kiến thức tự tiêm insulin của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh nam định năm 2020
Tác giả: Đặng Thị Hân, Trần Thị Bích Đào, Nguyễn Thị Dung
Nhà XB: Tạp chí Khoa học Điều dưỡng
Năm: 2020
4. Nguyễn Thị Ngọc Hân và Nguyễn Thị Hoàng Vân (2014), Khảosát khả năng tự tiêm Insulin ở bệnh nhân ĐTĐ 2 điều trị ngoại trú, Hội nghịkhoa học Bệnh viện Tim mạch An Giang, chủ biên, An Giang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảosát khả năng tự tiêm Insulin ở bệnh nhân ĐTĐ 2 điều trị ngoại trú
Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Hân, Nguyễn Thị Hoàng Vân
Nhà XB: Hội nghị khoa học Bệnh viện Tim mạch An Giang
Năm: 2014
5. Hội nội tiết và đái tháo đường Việt Nam (2020). Hưởng ứng ngày Thế giới phòng, chống Bệnh Đái tháo đường đường 14/11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hưởng ứng ngày Thế giới phòng, chống Bệnh Đái tháo đường đường 14/11
Tác giả: Hội nội tiết và đái tháo đường Việt Nam
Năm: 2020
6. Phùng Văn Lợi và Đào Thanh Xuyên (2018), "Đánh giá khả năng tự tiêm insulin và một số yếu tố liên quan trên người bệnh đái tháo đườngtyp 2 cao tuổi điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên", Tạpchí Y học Thực Hành. 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá khả năng tự tiêm insulin và một số yếu tố liên quan trên người bệnh đái tháo đườngtyp 2 cao tuổi điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
Tác giả: Phùng Văn Lợi, Đào Thanh Xuyên
Nhà XB: Tạpchí Y học Thực Hành
Năm: 2018
7. Nguyễn Thị Thoa (2019), Thực trạng kiến thức và thực hành tự tiêm Insulin của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 19-8- Bộ công an năm 2019, Chuyên đề tốt nghiệp Chuyên khoa I, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng kiến thức và thực hành tự tiêm Insulin của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 19-8- Bộ công an năm 2019
Tác giả: Nguyễn Thị Thoa
Nhà XB: Chuyên đề tốt nghiệp Chuyên khoa I
Năm: 2019
8. Vũ Đình Triển và Đặng Bích Thủy (2018). Tỷ lệ hiện mắc bệnh đái tháo đường type 2 ở người trưởng thành ≥ 25 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2017. Tạp chí y học dự phòng, 28(7) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tỷ lệ hiện mắc bệnh đái tháo đường type 2 ở người trưởng thành ≥ 25 tuổi tại tỉnh Thái Bình, năm 2017
Tác giả: Vũ Đình Triển, Đặng Bích Thủy
Nhà XB: Tạp chí y học dự phòng
Năm: 2018
9. American Diabetes Association (2017), "2. Classification and diagnosis of diabetes", Diabetes care. 40(Supplement 1),tr. S11-S24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: 2. Classification and diagnosis of diabetes
Tác giả: American Diabetes Association
Nhà XB: Diabetes care
Năm: 2017
10. American Diabetes Association (2020), Classification and Diagnosis of Diabetes: Standards of Medical Care in Diabetesd 2020. Diabetes Care 2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Classification and Diagnosis of Diabetes: Standards of Medical Care in Diabetesd 2020
Tác giả: American Diabetes Association
Nhà XB: Diabetes Care
Năm: 2020
11. Baruah M. P., et al. (2017), "An Audit of Insulin Usage and Insulin Injection Practices in a Large Indian Cohort", Indian J EndocrinolMetab. 21(3), pp.443-452 Sách, tạp chí
Tiêu đề: An Audit of Insulin Usage and Insulin Injection Practices in a Large Indian Cohort
Tác giả: Baruah M. P., et al
Năm: 2017
12. Bhosale A., et al.(2018), "A study to assess the knowledge and practice of self-administration of insulin in a view to develop self-instructional module [SIM]among patients with diabetes mellitus in selected hospitals of Pune city", IJAR.4(5),pp. 395-398 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A study to assess the knowledge and practice of self-administration of insulin in a view to develop self-instructional module [SIM]among patients with diabetes mellitus in selected hospitals of Pune city
Tác giả: Bhosale A., et al
Nhà XB: IJAR
Năm: 2018
13. Centers for Disease Control and Prevention (CDC) (2017), National Diabetes Statistic Report, 2017, USA Sách, tạp chí
Tiêu đề: National Diabetes Statistic Report, 2017
Tác giả: Centers for Disease Control and Prevention (CDC)
Nhà XB: USA
Năm: 2017
14. Farsaei S., et al. (2014), "Insulin adherence in patients with diabetes: risk factors for injection omission", Prim Care Diabetes. 8(4), pp. 338-45 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Insulin adherence in patients with diabetes: risk factors for injection omission
Tác giả: Farsaei S., et al
Năm: 2014
15. Fego M.W., Yasin J.T., Aga G.M., (2021). Knowledge, Attitude and Practice Towards Insulin-Self Administration Among Diabetic Patients Attending Bedele Hospital, Southwest Ethiopia, 2019/2020. Diabetes, Metabolic Syndrome and Obesity: Targets and Therapy 2021, 1919–1925 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Knowledge, Attitude and Practice Towards Insulin-Self Administration Among Diabetic Patients Attending Bedele Hospital, Southwest Ethiopia, 2019/2020
Tác giả: Fego M.W., Yasin J.T., Aga G.M
Nhà XB: Diabetes, Metabolic Syndrome and Obesity: Targets and Therapy
Năm: 2021
18. Lerman I., et al. (2009), "Nonadherence to insulin therapy in low-income, type 2 diabetic patients", Endocrine Practice. 15(1), pp. 41-46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nonadherence to insulin therapy in low-income, type 2 diabetic patients
Tác giả: Lerman I., et al
Nhà XB: Endocrine Practice
Năm: 2009
19. Narayanapillai S., Thambipillai P., Mahalingam A.. et al (2020). An observational study on usage of insulin and selfinjection practises among patients Sách, tạp chí
Tiêu đề: An observational study on usage of insulin and selfinjection practises among patients
Tác giả: Narayanapillai S., Thambipillai P., Mahalingam A
Năm: 2020
20. Nasir B.B., Buseir M.S., Muhammed O.S., (2021). Knowledge, attitude and practice towards insulin self-administration and associated factors among diabetic patients at Zewditu Memorial Hospital, Ethiopia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Knowledge, attitude and practice towards insulin self-administration and associated factors among diabetic patients at Zewditu Memorial Hospital, Ethiopia
Tác giả: Nasir B.B., Buseir M.S., Muhammed O.S
Năm: 2021
21. Nguyen C. T., et al. (2015), "Prevalence of and Risk Factors for Type 2 Diabetes Mellitus in Vietnam: A Systematic Review", Asia Pac J Public Health.27(6), pp. 588-600 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Prevalence of and Risk Factors for Type 2 Diabetes Mellitus in Vietnam: A Systematic Review
Tác giả: Nguyen C. T., et al
Nhà XB: Asia Pac J Public Health
Năm: 2015
22. Pouya Saeedi (2019). Global and regional diabetes prevalence estimates for 2019 and projections for 2030 and 2045: Results from the International Diabetes Federation. Diabetes Atlas, 9th edition Sách, tạp chí
Tiêu đề: Global and regional diabetes prevalence estimates for 2019 and projections for 2030 and 2045: Results from the International Diabetes Federation
Tác giả: Pouya Saeedi
Nhà XB: Diabetes Atlas
Năm: 2019

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w