Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm bệnh viêm phổi
Viêm phổi là bệnh lý ảnh hưởng đến tổ chức phổi, bao gồm phế nang, tổ chức liên kết và tiểu phế quản, do nhiều tác nhân gây ra như vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng và hóa chất.
1.1.2 Triệu chứng của bệnh viêm phổi Điển hình của viêm phổi là do phế cầu Đây là nguyên nhân hàng đầu gây viêm phổi, chiếm tỷ lệ 60- 70%, bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở những người có sức đề kháng kém như trẻ em, người già, người bị suy dinh dưỡng, suy giảm miễn dịch thì tỷ lệ cao hơn; bệnh thường xảy ra vào mùa đông - xuân có khí hậu lạnh, khắc nghiệt và có khi gây thành dịch hoặc xảy ra sau các trường hợp nhiễm virus ở đường hô hấp trên như cúm, sởi, herpes hay ở người bệnh hôn mê, nằm lâu, suy kiệt Giai đoạn khởi phát: Bệnh thường khởi đầu đột ngột với sốt cao, rét run, sốt giao động trong ngày, có đau tức ở ngực, khó thở nhẹ, mạch nhanh, ho khan toàn trạng mệt mỏi, chán ăn, ở môi miệng có thể có hạt Herpes, nhưng các triệu chứng thực thể còn nghèo nàn
Giai đoạn toàn phát của bệnh thường bắt đầu từ ngày thứ 3, với các triệu chứng lâm sàng trở nên rõ ràng hơn Người bệnh có thể trải qua tình trạng nhiễm trùng nặng, sốt cao liên tục, mệt mỏi, sụt cân, biếng ăn, khát nước, đau ngực gia tăng, khó thở nghiêm trọng hơn, ho nhiều với đờm đặc có màu gỉ sắt hoặc có máu, cùng với nước tiểu ít và sẫm màu.
Khám phổi có thể cho thấy hội chứng đông đặc với các triệu chứng như rung thanh tăng, ấn đau ở các khoảng gian sườn, gõ đục và âm phế bào giảm Ngoài ra, âm thổi ống và ran nổ khô cũng xuất hiện xung quanh vùng đông đặc Nếu tổn thương nghiêm trọng, bệnh nhân có thể gặp dấu hiệu suy hô hấp cấp, gan to và đau, có thể kèm theo vàng da và xuất huyết dưới da Ở trẻ em, triệu chứng có thể bao gồm rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, nôn mửa và bụng chướng.
Cận lâm sàng cho thấy xét nghiệm máu có lượng bạch cầu và bạch cầu trung tính tăng, cùng với tốc độ máu lắng cao Soi tươi và cấy đờm có thể phát hiện phế cầu, thậm chí cấy máu cũng có thể tìm thấy phế cầu Hình ảnh chụp phim phổi thường thấy có một đám mờ chiếm một thùy hoặc phân thùy phổi, thường gặp ở thùy dưới phổi phải.
Giai đoạn lui bệnh diễn ra khi sức đề kháng tốt và điều trị được thực hiện sớm, với thời gian từ 7-10 ngày Trong giai đoạn này, nhiệt độ cơ thể giảm dần, người bệnh cảm thấy khỏe hơn, ăn uống ngon miệng, và lượng nước tiểu tăng lên Các triệu chứng như ho, đờm loãng và trong, đau ngực, khó thở cũng giảm dần Khám phổi cho thấy âm thổi ống biến mất, và ran nổ giảm, thay vào đó là ran ẩm Thông thường, triệu chứng cơ năng giảm trước triệu chứng thực thể Xét nghiệm máu cho thấy số lượng bạch cầu trở về bình thường, lắng máu cũng bình thường, trong khi tổn thương phổi trên X quang mờ dần Bệnh có thể khỏi hẳn sau 10-15 ngày.
Nếu không được điều trị đúng cách, bệnh có thể trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc, suy hô hấp, nhiễm trùng huyết và nhiều biến chứng như áp xe phổi, tràn dịch hay tràn mủ màng phổi, màng tim Phế quản phế viêm thường gặp ở trẻ em, người già, và những người có sức khỏe yếu hoặc mắc bệnh mạn tính Bệnh khởi phát từ từ với triệu chứng sốt tăng dần và khó thở ngày càng trầm trọng, có thể dẫn đến suy hô hấp cấp Bệnh nhân có thể biểu hiện triệu chứng nhiễm trùng, nhiễm độc cấp tính, kèm theo những dấu hiệu như lơ mơ hoặc mê sảng Khi khám phổi, có thể nghe thấy âm thanh ran nổ, ran ẩm và ran phế quản, xuất hiện ở cả hai phổi và lan tỏa nhanh chóng, cho thấy tình trạng tổn thương phổi và phế quản nghiêm trọng.
Kết quả xét nghiệm máu cho thấy bạch cầu và bạch cầu trung tính tăng cao, cùng với chỉ số máu lắng cũng gia tăng Đặc biệt, hình ảnh trên phim phổi cho thấy nhiều đám mờ rải rác ở cả hai phổi, và tình trạng này tiến triển theo từng ngày.
Nếu không điều trị hay điểu trị chậm bệnh sẽ dẫn đến suy hô hấp nặng, nhiễm trùng huyết, toàn trạng suy sụp và có thể tử vong
Các loại vi khuẩn gây viêm phổi phổ biến hiện nay bao gồm Phế cầu khuẩn, Hemophilus influenzae, Legionella pneumophila và Mycoplasma pneumoniae Bên cạnh đó, còn có các vi khuẩn khác như Liên cầu, tụ cầu vàng, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa, cùng với các vi khuẩn kỵ khí như Fusobacterium và các vi khuẩn gram âm như thương hàn, dịch hạch.
Virus cúm, virus sởi, Adenovirus, virus đậu mùa và bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn đều là những tác nhân gây bệnh quan trọng Tại Mỹ, viêm phổi do virus chiếm đến 73% các trường hợp nhiễm trùng đường hô hấp, trong đó virus cúm chiếm 40%.
Amip, giun đũa, sán lá phổi
Xăng, dầu, acid, dịch dạ dày
* Do các nguyên nhân khác
Bức xạ, tắc phế quản do u phế quản phổi, do ứ đọng
1.1.4 Các yếu tố nguy cơ
Tăng tiết dịch nhầy ở đường hô hấp: Do bất kỳ nguyên nhân bệnh lý nào đều làm tắc nghẽn phế quản, cản trở thông khí phổi
Người bệnh có suy giảm miễn dịch: Do dùng Corticoid, thuốc chống ung thư, thuốc ức chế miễn dịch, bệnh suy giảm miễn dịch mắc phải
Thuốc lá: Khói thuốc lá làm giảm hoạt động của tế bào lông chuyển, tăng tiết đờm rãi, giảm hoạt tính thực bào của đại thực bào phế nang
Nằm bất động lâu: Những người bệnh nằm bất động lâu trên giường dễ bị viêm phổi
Giảm phản xạ ho là điều quan trọng vì ho là một phản xạ bảo vệ giúp tống đờm và giảm tắc nghẽn phế quản, từ đó làm sạch đường thở Khi phản xạ ho bị ức chế, có thể dẫn đến nguy cơ viêm phổi do sự tích tụ chất nhầy trong đường hô hấp.
Người bệnh ăn bằng sonde dễ bị viêm phổi do vi khuẩn xâm nhập
Nghiện rượu: Uống nhiều rượu làm giảm phản xạ bảo vệ của cơ thể, giảm sự huy động bạch cầu chống nhiễm khuẫn
Người già và những người bị suy kiệt có nguy cơ cao mắc viêm phổi do hệ miễn dịch suy giảm Nhiễm virus đường hô hấp trên, bao gồm virus cúm, á cúm, virus hợp bào đường hô hấp và Adeno virus, làm suy yếu khả năng bảo vệ của đường hô hấp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của viêm phổi do vi khuẩn.
* Chẩn đoán xác định dựa vào:
- Hội chứng đông đặc ở phổi điển hình hoặc không điển hình
- Hội chứng suy hô hấp cấp (có thể có)
* Chẩn đoán nguyên nhân dựa vào:
- Yếu tố dịch tễ học
- Kết quả xét nghiệm đờm
- Phế viêm lao: Bệnh cảnh kéo dài, hội chứng nhiễm trùng không rầm rộ, làm các xét nghiệm về lao để phân biệt
- Nhồi máu phổi: Cơ địa có bệnh tim mạch, nằm lâu, có cơn đau ngực đột ngột, dữ dội, khái huyết nhiều, choáng
- Ung thư phế quản - phổi bội nhiễm: Thương tổn phổi hay lặp đi lặp lại ở một vùng và càng về sau càng nặng dần
- Áp xe phổi giai đoạn đầu
- Viêm màng phổi dựa vào X quang và lâm sàng
- Xẹp phổi: Không có hội chứng nhiễm trùng, âm phế bào mất, không có ran nổ, X quang có hình ảnh xẹp phổi
- Điều trị kháng sinh sớm, đủ liệu trình và theo dõi sát diễn biến của bệnh
- Nghỉ ngơi tại giường trong giai đoạn bệnh tiến triển
- Bù nước và điện giải do sốt cao, ăn uống kém, nôn, tiêu chảy
- Chế độ ăn lỏng, dễ tiêu hóa, đảm bảo đủ calo, ăn tăng đạm và các loại vitamin B, C
- Thuốc hạ sốt: Thuốc hạ sốt thường có tác dụng giảm đau Có thể dùng Paracetamol hoặc Acetaminophene
Để đảm bảo thông khí cho bệnh nhân suy hô hấp, cần cung cấp oxy qua sonde mũi với lưu lượng từ 3-5 lít/phút tùy theo mức độ nghiêm trọng Trong trường hợp bệnh nhân có suy hô hấp mạn tính, lưu lượng oxy nên được điều chỉnh giảm xuống còn 1-2 lít/phút và thực hiện thở ngắt quãng.
- Các thuốc giãn phế quản: Nếu có dấu co thắt phế quản có thể cho thêm Theophylline 100- 200 mg x 3 lần/ngày
Các loại thuốc giảm ho và long đờm hiệu quả bao gồm Codein 100 mg dùng 3 lần/ngày cho trường hợp ho nhiều Đối với đờm đặc và khó khạc, có thể sử dụng Terpin, Benzoat Natri, Eucaylyptin, Acemuc, Exocemuc, Mucosolvon hoặc Rhinathiol với liều lượng từ 2-3 gói/ngày hoặc 3-4 viên/ngày.
Điều trị nguyên nhân là phương pháp chính để giải quyết nguyên nhân gây bệnh viêm phổi Việc sử dụng kháng sinh cần được thực hiện sớm, đúng loại và đủ liều, dựa trên kháng sinh đồ Trong trường hợp chưa có kháng sinh đồ, bác sĩ sẽ căn cứ vào yếu tố dịch tễ, diễn tiến lâm sàng và kinh nghiệm cá nhân, cũng như thể trạng của người bệnh Quan trọng là theo dõi đáp ứng điều trị để có biện pháp xử trí kịp thời.
1.1.7.1 Nhận định người bệnh: (nhận định đầy đủ và toàn diện)
- Hình thức của khởi phát bệnh như thế nào?
- Bệnh lý hiện tại của người bệnh được biểu hiện như thế nào?
Cơn rét run, tính chất thời gian kéo dài của cơn rét run, mức độ sốt, ho, tính chất ho, đờm như thế nào?
Đau ngực: Tính chất đau, kèm theo khó thở không? Mệt mỏi? Ăn uống như thế nào?
- Tiền sử: Trước đây người bệnh có bị mắc các bệnh đường hô hấp không? Các thuốc đã sử dụng, có nghiện rượu và hút thuốc lá không?
* Thăm khám để phát hiện các triệu chứng và biến chứng của bệnh:
- Tìm dấu hiệu nhiễm khuẩn: Xem lưỡi có bẩn không? Đo thân nhiệt xem sốt bao nhiêu độ? Tính chất sốt?
- Có khó thở không? Đếm tần số thở, mức độ và tính chất khó thở?
- Có tím tái không? Mức độ tím tái?
- Xem số lượng đờm, màu sắc của đờm?
- Đếm mạch? đo HA phát hiện bất thường
- Xem người bệnh có vã mồ hôi? Đo lượng nước tiểu trong 24 giờ để biết tiến triển của bệnh
- Tham khảo kết quả xét nghiệm cận lâm sàng: hình ảnh Xquang và các kết quả xét nghiệm khác
- Đánh giá nhận thức của người bệnh về tự chăm sóc và phòng bệnh
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Tình hình nghiên cứu bệnh viêm phổi trên thế giới
Viêm phổi là một bệnh phổ biến nhưng khó có thể thống kê chính xác, với phần lớn số liệu dựa trên ước đoán Tại Mỹ, hàng năm ghi nhận khoảng 4-5 triệu trường hợp viêm phổi cộng đồng và khoảng 45.000 ca tử vong Ở các nước như Pháp, Đức, Ý và Anh, mỗi năm có từ 1-3 triệu trường hợp viêm phổi cộng đồng, trong đó 21-51% bệnh nhân cần nhập viện điều trị.
Tỷ lệ tử vong do viêm phổi khác nhau giữa các quốc gia, với Canada là 16%, Thụy Điển 8%, Anh 13% và Tây Ban Nha 20% Tần suất mắc bệnh viêm phổi cộng đồng dao động từ 2,6 đến 16,8 trường hợp/1000 dân mỗi năm, trong khi tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân nhập viện từ 15-30% và không nhập viện từ 1-5% Tỷ lệ mắc bệnh còn phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, chủng tộc và tình trạng kinh tế Viêm phổi cộng đồng thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn trên 65 tuổi, với tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ từ 0-4 tuổi là 12-18/1000 trẻ và ở người trên 65 tuổi là 16,1/1000 dân.
Viêm phổi xảy ra phổ biến hơn ở người da đen so với người da trắng, và nam giới nhiều hơn nữ giới, đặc biệt trong các tháng mùa đông và mùa dịch cúm Gần đây, dịch tễ học của viêm phổi đã có sự thay đổi đáng kể, gia tăng do các yếu tố như biến động dân số, điều kiện kinh tế và ô nhiễm môi trường Thêm vào đó, biến đổi khí hậu và các bệnh lý đi kèm như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, đái tháo đường, suy thận mạn, bệnh lý gan mạn và suy giảm miễn dịch cũng góp phần làm tăng nguy cơ Sự xuất hiện của các tác nhân gây viêm phổi mới và sự thay đổi độ nhạy cảm của các vi khuẩn thường gặp như Streptococcus pneumonia, Haemophilus influenzae và Staphylococcus aureus cũng là những yếu tố quan trọng cần lưu ý.
Nghiên cứu của Macfarlane và cộng sự về nguyên nhân và kết quả điều trị viêm phổi ở người trưởng thành cho thấy trong số 1089 bệnh nhân nhập viện, 58% là nam và tuổi trung bình là 60 ± 18 Nguyên nhân gây viêm phổi phổ biến nhất là Staphylococcus aureus (32%), tiếp theo là Streptococcus pneumonia và Pseudomonas aeruginosa Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân nhiễm Pseudomonas lên tới 89%, trong khi tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân nhiễm Streptococcus là 53%, và tỷ lệ tử vong chung là 51% Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong do viêm phổi cộng đồng ở đây cao hơn nhiều so với các nước phát triển như Anh, Mỹ, Đức và Ý.
Nghiên cứu của Miyashita và cộng sự chỉ ra rằng trong số 124 bệnh nhân trên 50 tuổi nhập viện điều trị viêm phổi, 64% có bệnh mạn tính về đường hô hấp, 32% mắc đái tháo đường, và các nguyên nhân khác chiếm phần còn lại Tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi ở lứa tuổi này là 23,67/1000 dân, cho thấy tầm quan trọng của việc hiểu rõ đặc điểm dịch tễ học của người bệnh.
Một nghiên cứu tại New York cho thấy tỷ lệ mắc viêm phổi ở người từ 18-64 tuổi là 10,6/1000 dân, với chi phí điều trị trung bình lên tới 20.961 đô la Do đây là nhóm tuổi lao động, việc triển khai các chiến dịch phòng chống và tuyên truyền về viêm phổi là cần thiết để giảm thiểu gánh nặng kinh tế và sức khỏe cho cộng đồng.
Một nghiên cứu hồi cứu tại Nhật Bản về viêm phổi nặng đã xác định các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân gây bệnh, có giá trị lớn trong điều trị Nghiên cứu được thực hiện tại các cơ sở chăm sóc y tế đặc biệt với 290 bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 64 ± 16, trong đó nam giới chiếm ưu thế hơn nữ giới Tỷ lệ phân lập vi khuẩn đạt 24%, với Streptococcus pneumonia chiếm 57% Trong số bệnh nhân, 45% cần hỗ trợ thông khí nhân tạo và có 45% bị sốc nhiễm trùng khi nhập viện Tỷ lệ tử vong là 29%, cho thấy việc phân tầng yếu tố nguy cơ và xác định nguyên nhân gây bệnh là rất quan trọng trong điều trị viêm phổi cộng đồng.
Nghiên cứu của Macfarlane và cộng sự đã chỉ ra rằng các dấu hiệu nhiễm khuẩn sớm, bao gồm procalcitonin, protein C-Creative và bạch cầu, có mối liên quan chặt chẽ đến quyết định điều trị kháng sinh viêm phổi cộng đồng Qua việc xét nghiệm máu từ ngày thứ 1 đến 7 và sau 30 ngày trên 925 bệnh nhân, nghiên cứu phát hiện rằng 50 bệnh nhân tử vong và 118 người có tiên lượng xấu nếu mức procalcitonin, C protein, bạch cầu không giảm Tỷ lệ tử vong trong những ngày 3, 5, 7 tương ứng với mức độ tăng của các xét nghiệm này, cho thấy giá trị tiên lượng của procalcitonin cao nhất, tiếp theo là protein và cuối cùng là bạch cầu Bên cạnh đó, nghiên cứu của Bryan và cộng sự cũng cho thấy nồng độ kháng nguyên phế cầu trong máu cao hơn sẽ làm giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân viêm phổi cộng đồng, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Reynolds về điều trị viêm phổi cho thấy không có sự khác biệt giữa Ceftriaxone và Amoxicillin-Clavulanate khi điều trị cho 2000 người lớn, nhưng Ceftriaxone có chi phí thấp hơn Tương tự, nghiên cứu của Bryan cho thấy hiệu quả điều trị viêm phổi cộng đồng giữa Levofloxacin 750mg tiêm tĩnh mạch trong 5 ngày và 500mg trong 7-14 ngày là như nhau, không có sự khác biệt thống kê về tác dụng phụ và các xét nghiệm chức năng gan, bạch cầu, thận.
1.2.2 Tình hình nghiên cứu bệnh viêm phổi tại Việt Nam
Viêm phổi là một trong những bệnh nhiễm khuẩn phổ biến nhất trong lâm sàng, nhưng hiện tại vẫn thiếu một tổng kết toàn diện về tình hình bệnh này Một số nghiên cứu riêng lẻ tại các bệnh viện cho thấy rằng, trước năm 1985, tại Bệnh viện Bạch Mai, viêm phổi do vi khuẩn chiếm 12% tổng số bệnh về phổi.
Tại khoa hô hấp Học viện Quân y 103, tỷ lệ viêm phổi chiếm 1/5- 1/4 số người bệnh ở khoa phổi
Nghiên cứu hồi cứu của Ngô Quý Châu và Nguyễn Thanh Thủy về viêm phổi cộng đồng tại khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai năm 2011 đã khảo sát 167 bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, với tỷ lệ nam/nữ là 1,6/1 Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất bao gồm ho (88%), khạc đờm (64,1%), và ran nổ (44,9%) Các yếu tố nguy cơ đáng chú ý là hút thuốc (41,2%) và nghiện rượu (13,8%) Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu được phân lập là Klebsiella pneumoniae (34,5%), Acinetobacter baumannii (17,2%), Pseudomonas aeruginosa (17,2%) và E coli (6,9%).
Nghiên cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương (Thành phố Hồ Chí Minh) cho thấy trong năm 2004 có 710 trường hợp viêm phổi, chiếm 1,4% trong tổng số 29.353 bệnh nhân nhập viện, với 44 ca tử vong do viêm phổi, tương đương 14,8% tổng số ca tử vong Các nghiên cứu về viêm phổi tại đây chủ yếu tập trung vào sự đề kháng của vi khuẩn, như khảo sát của Lê Tiến Dũng (2005-2006) về đặc điểm và kháng thuốc của vi khuẩn gây viêm phổi, cho thấy hiện tượng kháng thuốc rất cao, đặc biệt là kháng hoàn toàn với kháng sinh beta lactam và kháng nhiều với các kháng sinh cephalosporin Năm 2011, Ngô Quý Châu và cộng sự phát hiện thêm rằng vi khuẩn còn kháng với nhóm kháng sinh meropenem và imipenem với tỷ lệ 18% và 8%.
Nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc tại bệnh viện Chợ Rẫy (Thành Phố Hồ Chí Minh) cho thấy tỷ lệ điều trị thành công viêm phổi đạt 80,5%, trong khi 11,1% bệnh nhân tử vong do bệnh tiến triển nặng Thời gian điều trị thường dao động từ 6 - 10 ngày (40,1%), 11 - 14 ngày (22,2%) và trên 15 ngày (13,9%) Đáng chú ý, 70,8% bệnh nhân được điều trị với một loại kháng sinh, trong khi 29,2% sử dụng kết hợp hai loại Các kháng sinh cephalosporine được sử dụng phổ biến nhất (78,3%), tiếp theo là macrolides và nhóm quinolone Để nâng cao tỷ lệ khỏi bệnh và giảm tỷ lệ tử vong, cần tối ưu hóa quy trình chẩn đoán và điều trị viêm phổi Tại Việt Nam, viêm phổi chiếm 12% các bệnh phổi, với 345 bệnh nhân viêm phổi trong số 3606 bệnh nhân điều trị tại khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai từ 1996 - 2000, đứng thứ tư trong các nguyên nhân gây tử vong.
Mô tả vấn đề cần giải quyết
Đặc điểm của người bệnh viêm phổi điều trị tại Khoa Hô hấp
Bảng 3.1 Phân bố người bệnh theo tuổi và giới Giới tính Độ tuổi
Số NB Tỷ lệ (%) Số NB Tỷ lệ (%) Số NB Tỷ lệ (%)
Bảng 3.1 cho thấy tổng số 102 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị viêm phổi tại Khoa Hô hấp, trong đó tỷ lệ nam giới chiếm 59,8% và nữ giới chiếm 40,2% Đáng chú ý, bệnh nhân trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 48,3%, tiếp theo là nhóm tuổi từ 45-60 với 31,9% và nhóm dưới 45 tuổi chiếm 19,8%.
Bảng 3.2 Biểu hiện các triệu chứng cơ năng khi vào Khoa
Triệu chứng Số người bệnh Tỷ lệ (%)
Theo Bảng 3.2, 63,7% bệnh nhân viêm phổi khi nhập viện có triệu chứng khó thở, trong khi các triệu chứng khác như ho, sốt và đau ngực có tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 18,7%, 10,8% và 6,8%.
Bảng 3.3 Phân loại mức độ khó thở khi vào Khoa (n2)
Mức độ khó thở Số người bệnh Tỷ lệ (%)
Nhẹ (nhịp thở bình thường) 19 18,6
Để đánh giá tình trạng khó thở, việc đếm nhịp thở trong một phút là rất quan trọng Tần số nhịp thở tỷ lệ thuận với mức độ suy hô hấp, do đó, việc này giúp xác định tình trạng hô hấp của bệnh nhân Kết quả khảo sát cho thấy có 20 bệnh nhân gặp khó thở ở mức độ trung bình, 55 bệnh nhân ở mức độ nặng và 08 bệnh nhân ở mức độ rất nặng.
Bảng 3.4 Mức độ bệnh dựa trên thông số SPO2 (n2)
SPO2 (mmHg) Số người bệnh Tỷ lệ (%)
Chỉ số SPO2 là thước đo quan trọng để đánh giá độ bão hòa oxy trong máu ngoại vi, giúp theo dõi tình trạng suy hô hấp của bệnh nhân một cách nhanh chóng và đơn giản Trong số 102 bệnh nhân nhập viện, có 20 người có chỉ số SPO2 ở mức trung bình, 55 người ở mức nặng và 8 người ở mức rất nặng Mức độ bệnh được xác định qua chỉ số SPO2 cũng tương ứng với mức độ khó thở được trình bày trong Bảng 3.3.
Phân loại mức độ nặng của bệnh để đưa ra phương pháp điều trị, chăm sóc phù hợp, nhằm nhanh chóng cải thiện tình trạng thiếu ô xy trong máu.
Thực trạng chăm sóc người bệnh viêm phổi điều trị tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ
Đa khoa tỉnh Phú Thọ
Bảng 3.5 Nội dung chăm sóc được thực hiện trong thời gian người bệnh nằm điều trị tại khoa (n2)
Nội dung chăm sóc Số người bệnh Tỷ lệ (%)
Chăm sóc về thể chất 80 78,4
Chăm sóc về tinh thần 77 75,5
Tư vấn, GDSK về PHCN hô hấp 50 49,0
Chăm sóc y tế bao gồm các quy trình kỹ thuật của Điều dưỡng trong việc theo dõi và chăm sóc người bệnh, như đếm mạch, nhịp thở, đo nhiệt độ, huyết áp, thực hiện y lệnh và theo dõi sự tăng tiết cũng như mức độ khó thở.
Hình 3.1 Minh họa hoạt động chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh viêm phổi tại
Khoa Hô hấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ cung cấp chăm sóc thể chất toàn diện, bao gồm chế độ dinh dưỡng hợp lý, giấc ngủ đầy đủ, thời gian nghỉ ngơi hợp lý, hoạt động thể chất, vệ sinh cá nhân và quản lý bài tiết.
Chăm sóc tinh thần trong y tế bao gồm phong cách và thái độ của nhân viên, giao tiếp hiệu quả, sự quan tâm đến bệnh nhân, đáp ứng kịp thời các nhu cầu, giải thích rõ ràng về tình trạng sức khỏe và động viên người bệnh trong quá trình điều trị.
Tư vấn và giáo dục sức khỏe về phục hồi chức năng hô hấp cho người bệnh bao gồm việc cung cấp kiến thức về bệnh lý, hướng dẫn sử dụng thuốc và thở oxy đúng cách Ngoài ra, người bệnh được hướng dẫn các phương pháp ho khạc đờm, tập thở và thực hiện vỗ rung lồng ngực Đặc biệt, tư vấn khuyến khích người bệnh từ bỏ các chất có hại như thuốc lá và rượu để cải thiện sức khỏe hô hấp.
Tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ, hình ảnh minh họa chăm sóc vỗ rung ngực cho bệnh nhân viêm phổi cho thấy nhóm chăm sóc y tế đã thực hiện tốt việc chăm sóc về thể chất và tinh thần, đồng thời ghi chép hồ sơ và bệnh án một cách tương đối hiệu quả.
Tuy nhiên, việc thực hiện hướng dẫn vỗ rung, dẫn lưu theo tư thế và chạy khí dung cho người bệnh còn chưa được liên tục, chưa tốt
Kết quả ở Bảng 3.5 cho thấy 100% người bệnh đã được chăm sóc y tế đầy đủ, bao gồm:
Trang thiết bị y tế đầy đủ, phù hợp
Trình độ chuyên môn tốt, đồng đều
Đội ngũ điều dưỡng tại Khoa thể hiện sự dồi dào về nhân lực, tâm huyết và nhiệt tình trong công việc, đồng thời thể hiện trách nhiệm cao đối với người bệnh Điều này cho thấy họ đã tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về chăm sóc y tế theo “Hướng dẫn công tác chăm sóc điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện” được quy định tại Thông tư 07/2011/TT-BYT ngày 26 tháng 01 năm 2011 của Bộ Y tế.
3.1 Một số ưu điểm và tồn tại trong công tác chăm sóc người bệnh viêm phổi 3.1.1 Ưu điểm
Khảo sát tại Khoa Hô hấp tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ cho thấy bệnh nhân được tiếp đón niềm nở ngay từ khi vào viện, được chăm sóc tận tình trong suốt thời gian điều trị và được dặn dò chu đáo khi ra viện Đặc biệt, đối với bệnh nhân mắc bệnh viêm phổi, việc chăm sóc và theo dõi luôn được đảm bảo liên tục, phù hợp với tình trạng bệnh lý của họ.
Người bệnh gặp khó khăn trong việc thở do co thắt phế quản và tăng tiết đờm cần được điều dưỡng theo dõi chặt chẽ Việc đánh giá thường xuyên mức độ khó thở và thiếu oxy là rất quan trọng, bao gồm theo dõi tần số thở và quan sát tình trạng da, niêm mạc, môi và các đầu chi Để cải thiện thông khí phổi, cần cho người bệnh nằm tư thế dẫn lưu trong môi trường thoáng sạch, khuyến khích thực hiện thở sâu và dẫn lưu tư thế, đồng thời thực hiện y lệnh và theo dõi tác dụng phụ của thuốc.
Để cải thiện khả năng làm sạch đường hô hấp cho bệnh nhân, điều dưỡng đã hướng dẫn bệnh nhân uống nhiều nước ấm và thực hiện các kỹ thuật dẫn lưu đờm theo tư thế Bên cạnh đó, việc kết hợp vỗ rung lồng ngực, ho chủ động và hút đờm dãi cũng được thực hiện để đạt hiệu quả tốt nhất trong việc hỗ trợ bệnh nhân.
Người bệnh có nguy cơ thiếu máu và mất thăng bằng nước, điện giải do giảm trao đổi khí và mất nước từ việc ăn uống kém hoặc sốt Cần thực hiện thở oxy ngắt quãng, thay đổi tư thế nằm và theo dõi sát các chỉ số như mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở Đồng thời, cần thực hiện y lệnh cân bằng nước và điện giải, cũng như theo dõi các dấu hiệu mất nước như nôn, sốt và khó thở.
Bệnh nhân nhiễm khuẩn đường thở cần thực hiện vệ sinh thân thể và vệ sinh răng miệng thường xuyên Khi ho hoặc khạc đờm, cần chú ý đến vệ sinh để ngăn ngừa lây lan vi khuẩn Để chẩn đoán chính xác, thực hiện xét nghiệm vi khuẩn và làm kháng sinh đồ là rất quan trọng Cuối cùng, việc tuân thủ y lệnh thuốc sẽ giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Nhân viên y tế không chỉ chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân mà còn trực tiếp hỗ trợ ăn uống cho những người bệnh nặng, hướng dẫn chế độ dinh dưỡng phù hợp để cải thiện tình trạng gầy yếu và sút cân, đặc biệt là trong trường hợp suy dinh dưỡng liên quan đến bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Trong quá trình điều trị, họ thường xuyên động viên bệnh nhân yên tâm và hướng dẫn chế độ nghỉ ngơi, vận động hợp lý, đồng thời khuyến khích từ bỏ những thói quen xấu như hút thuốc lá và sử dụng chất kích thích, cũng như tránh xa môi trường ô nhiễm khói bụi.
Với sự gia tăng lưu lượng bệnh nhân và áp lực công việc lớn, vai trò chủ động của điều dưỡng trong chăm sóc bệnh nhân trở nên cần thiết hơn bao giờ hết Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng việc hỗ trợ bệnh nhân thực hiện các động tác cải thiện tình trạng thông khí phổi vẫn chưa đạt hiệu quả tối ưu Cụ thể, công tác tư vấn, giáo dục và hướng dẫn bệnh nhân về các phương pháp ho, khạc đờm, tập thở và thực hiện vỗ rung lồng ngực - những kỹ thuật quan trọng giúp long đờm và làm sạch đường hô hấp - vẫn chưa được thực hiện liên tục và đầy đủ Hơn nữa, công tác giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân cũng cần được cải thiện để nâng cao hiệu quả chăm sóc.
Công tác chăm sóc người bệnh hiện nay chưa đầy đủ, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh y tế, thể chất và tinh thần Tuy nhiên, vẫn còn thiếu sự chú trọng đối với tư vấn, giáo dục sức khỏe và hướng dẫn phục hồi chức năng hô hấp cho bệnh nhân.
Tính chủ động của điều dưỡng viên trong việc chăm sóc bệnh nhân còn hạn chế, với phần lớn hoạt động chăm sóc chủ yếu tập trung vào việc thực hiện quy trình kỹ thuật và các chỉ định điều trị từ bác sĩ.