CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1.1 Dịch tễ học loét tỳ đè
* Khái niệm loét tỳ đè
Loét tỳ đè là tổn thương hoại tử xảy ra khi có áp lực kéo dài giữa xương và bề mặt cứng, thường gặp ở những bệnh nhân bất động do nhiều nguyên nhân như tổn thương cột sống, hôn mê, hoặc tai biến mạch máu não Áp lực liên tục lên da làm chèn ép các mạch máu nhỏ, dẫn đến thiếu máu và oxy cung cấp cho da Khi tình trạng thiếu máu kéo dài, mô da sẽ chết và hình thành các loại loét do áp lực.
Tất cả các vùng cơ thể chịu áp lực lâu dài đều có nguy cơ bị loét, trong đó một số vị trí thường gặp bao gồm loét vùng cùng cụt, loét gót chân và loét vùng ụ ngồi Ngoài ra, có thể xảy ra loét hỗn hợp ở nhiều vùng khác nhau.
Hình 1.1 Minh họa một số vị trí loét có thể gặp
Phân loại theo Hội đồng tư vấn Loét quốc gia Hoa Kỳ (National Pressure Ulcer Advisory Panel – NPUAP 2007), loét tỳ đè chia làm 4 mức độ bao gồm:
₋ Độ 1: Rộp hồng ổ nông, đỏ da, không mất đi khi giải phóng áp lực
₋ Độ 2: Tổn thương không hoàn toàn chiều dày của lớp da, bao gồm thượng bì và lớp đáy (loét nông nhìn như vết trầy hay phồng rộp)
₋ Độ 3: Tổn thương hoàn toàn bề dày chiều dày của lớp da, tổ chức dưới da đã bị tổn thương nhưng mới chỉ khu trú ngoài lớp cân
₋ Độ 4: Sâu toàn bộ da, có hang hốc đến cơ xương khớp
Hình 1.2 Minh họa 4 mức độ loét do tỳ đè
Bất kỳ ai, kể cả những người vận động bình thường, đều có nguy cơ bị loét điểm tỳ nếu giữ nguyên một vị trí quá lâu, gây áp lực lên cơ thể Những người ngồi xe lăn hoặc nằm trên giường dễ mắc phải tình trạng này do khó khăn trong việc thay đổi tư thế hoặc không thể tự nâng mình Khi phần mềm bị ép giữa các cấu trúc cứng như xe lăn hay giường trong thời gian dài, kết hợp với chức năng vận động và cảm giác bị suy yếu, nguy cơ loét càng cao vì bệnh nhân không nhận biết được khi nào cần nâng người để giảm áp lực Điều này dẫn đến việc máu tới các vùng tiếp xúc bị hạn chế, ảnh hưởng đến xương gần bề mặt da, đặc biệt ở những khu vực nhô xương như hông, gót chân, khuỷu tay và xương cụt.
Tình trạng teo cơ ở vùng háng chậu có thể dẫn đến mất khối cơ và làm tăng nguy cơ bong tróc da Chấn thương hoặc bệnh lý gây tê liệt ảnh hưởng đến khả năng hóa sinh của da, đặc biệt là sự suy giảm protein như collagen, vốn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì độ co giãn của da Khi lượng collagen giảm, da trở nên yếu hơn và kém đàn hồi hơn.
Quá trình lão hóa bình thường làm thay đổi tuần hoàn máu và cấu trúc da
Da của người cao tuổi thường khô và kém đàn hồi, dễ bị tổn thương và hình thành vết loét khi bị kích thích Ngoài ra, tuần hoàn máu giảm theo tuổi tác, dẫn đến sự thiếu hụt chất dinh dưỡng và oxy cần thiết cho sức khỏe của da.
Người bệnh có nguy cơ cao bị loét tỳ đè nếu chế độ ăn uống không đảm bảo đủ số lượng và chất dinh dưỡng Khi không cung cấp đủ dinh dưỡng, da và các mô khác trong cơ thể sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Người bệnh nặng bị ẩm bởi mồ hôi, phân, nước tiểu, vết thương hở có nguy cơ loét rất cao Độ ẩm làm da mềm và dễ tổn thương
₋ Các vấn đề tâm thần, thần kinh và thể chất khác
Người bệnh lo lắng, buồn ngủ nhiều hoặc hôn mê có thể không tự xoay trở cơ thể khi ngủ, dẫn đến việc ở cùng một tư thế trong thời gian dài Điều này làm tăng nguy cơ viêm nhiễm và rối loạn tại chỗ Ngoài ra, một số bệnh lý khác có thể gây rối loạn thần kinh giao cảm, mất chi phối thần kinh, làm giảm trương lực mạch máu và cảm giác bảo vệ, khiến người bệnh không nhận biết được tình trạng cơ thể, dẫn đến mỏi, tê, và lạnh ẩm ướt, làm cho việc di chuyển trở nên khó khăn.
Va chạm hoặc chà xát có thể xảy ra khi người bệnh được kéo lên giường hoặc ngồi vào ghế, gây kích thích cho da Những tác động này, kết hợp với các yếu tố nguy cơ khác, có thể dẫn đến tình trạng loét da.
₋ Thành giường và ghếlồi lõm hoặc vật cứng
Khi bề mặt giường không bằng phẳng hoặc có các vật cứng trên giường và ghế mà người chăm sóc không nhận biết, nguy cơ xuất hiện loét có thể gia tăng.
₋ Loét tỳ đè trong quá khứ
Người bệnh trước đó đã từng có loét thì có nguy cơ xuất hiện vết loét cao
Hầu hết mọi người đều di chuyển trên giường khi ngủ, giúp tránh được tình trạng loét tỳ đè Tuy nhiên, những người bệnh như người hôn mê hoặc liệt do tai biến mạch máu não không thể tự di chuyển, dẫn đến nguy cơ cao bị loét tỳ đè.
Người bị thừa cân hoặc thiếu cân có nguy cơ cao mắc chứng loét điểm tỳ Đối với người thừa cân, lượng mỡ dư thừa tạo áp lực lên các vùng da nhạy cảm, trong khi đó, người thiếu cân thường thiếu cơ bắp, làm giảm khả năng co giãn của da khi chịu áp lực.
Sức khỏe toàn thân kém, mất nước, vệ sinh kém, hút thuốc, bệnh thiếu máu, và các bệnh lý mạn tính như đái tháo đường và bệnh về mạch có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe Ngoài ra, việc sử dụng trang thiết bị kém chất lượng, lạm dụng thuốc, và tâm lý chán nản cũng góp phần làm giảm khả năng tự chăm sóc bản thân, đặc biệt là về sức khỏe da Giả thuyết hiện tại cho rằng những người có tâm lý chán nản thường ít chú ý đến việc chăm sóc sức khỏe của mình.
* Cơ chế loét do tỳ đè
Tổn thương da do áp lực thường xảy ra ở những vùng có xương gần bề mặt da, như hông, nơi mà lực từ bên trong ép lên da Khi da tiếp xúc với bề mặt cứng, mạch máu lưu thông bị chèn ép, dẫn đến sự giảm lưu thông khí ô-xy đến da, làm suy yếu sức bền của nó Cơ thể cố gắng bù đắp bằng cách tăng cường lưu lượng máu đến khu vực bị tổn thương, nhưng điều này lại khiến da bị phồng lên và tạo ra áp lực lớn hơn lên các mạch máu, gây hại thêm cho sức khỏe của da.
Loét tỳ đè (loét điểm tỳ) là biến chứng hay gặp ở những người bệnh:
- Liệt hai chi dưới do viêm nhiễm ở tủy, do tủy bị chèn ép, u tủy, gãy cột sống cổ, lưng gây liệt tủy
- Suy kiệt do nằm lâu vì tai biến mạch não, gãy cổ xương đùi
- Loét hay gặp ở chỗ bị tỳ đè: xương cùng cụt, mấu chuyển lớn, mắt cá, gót, xương chẩm, sau đầu
* Phương pháp phòng ngừa loét do tỳ đè
Kiểm tra da hàng ngày: Chú ý đặc biệt tới những vùng da nhạy cảm Hướng dẫn người bệnh tự kiểm tra ít nhất một lần mỗi ngày
Chăm sóc da cho người bệnh nằm lâu rất quan trọng, vì vậy hãy sử dụng xà phòng ít kiềm và lau bằng miếng vải mềm khi tắm Rửa nhẹ nhàng và lau khô bằng khăn mềm, tránh nước nóng để không làm tổn thương da Sử dụng sữa dưỡng không chứa cồn để làm mềm da khô, đồng thời tránh sản phẩm chứa cồn vì chúng có thể làm khô da Theo dõi các vùng da tiếp xúc, như dưới vú, và rắc một ít bột nếu cần để giữ cho những vùng này khô ráo Thay đổi bộ đồ giường và trang phục thường xuyên để duy trì độ khô thoáng Cuối cùng, áp dụng chế độ ăn uống cân bằng với nhiều protein, vitamin và khoáng chất để hỗ trợ sức khỏe da.
Không hút thuốc lá là điều quan trọng, vì hút thuốc làm hẹp mạch máu, hạn chế quá trình cung cấp chất dinh dưỡng cho da Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người nghiện thuốc lá có nguy cơ cao mắc các bệnh về da.
Cơ sở thực tiễn
Các yếu tố nguy cơ gây loét áp lực bao gồm tình trạng bất động hoặc khả năng vận động kém Những bệnh nhân không thể tự thay đổi vị trí có nguy cơ cao phát triển loét tỳ đè, do áp lực tác động lên các xương nổi, dẫn đến giảm lưu lượng máu và oxy đến các mô.
Tình trạng dinh dưỡng kém có thể làm tăng nguy cơ loét tỳ đè ở bệnh nhân, mặc dù có ít nghiên cứu chính thức hỗ trợ cho quan điểm này Dựa trên bằng chứng giai thoại, việc tư vấn chế độ ăn uống cho những người có dinh dưỡng kém có thể mang lại lợi ích đáng kể trong việc giảm thiểu nguy cơ này.
Lưu lượng máu đến các mô bị hạn chế có thể làm tăng nguy cơ phát triển loét do tì đè Một số nguyên nhân phổ biến gây ra tình trạng giảm lưu lượng máu bao gồm bệnh động mạch ngoại biên, suy tĩnh mạch và sốc.
Bề mặt hỗ trợ không phù hợp có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của người bệnh, đặc biệt khi họ nằm hoặc ngồi trong cùng một tư thế trong thời gian dài.
16 rõ rệt đến áp lực lên các phần nhô ra của xương.Các bề mặt hỗ trợ nên được đánh giá thường xuyên và điều chỉnh cho phù hợp
Bệnh thần kinh hoặc giảm cảm giác có thể dẫn đến việc người bệnh mất khả năng cảm nhận đau hoặc áp lực, làm tăng nguy cơ loét do tì đè Những đối tượng dễ bị tổn thương bao gồm người bị tổn thương tủy sống, đột quỵ, đa xơ tủy, và các bệnh lý thần kinh khác, ảnh hưởng đến khả năng nhận thức cơn đau và áp lực.
Những người bệnh có sắc tố da sẫm màu có nguy cơ cao bị loét tì đè do khó nhận biết các dấu hiệu tổn thương ban đầu Ngoài ra, những bệnh nhân có tình trạng da thay đổi như bầm tím, viêm da hay chàm cũng dễ gặp rủi ro Đau đớn có thể hạn chế khả năng di chuyển của người bệnh, khiến họ không thể thay đổi tư thế thường xuyên, đặc biệt khi sử dụng quá nhiều thuốc giảm đau Do đó, việc đánh giá khả năng di chuyển trong khi đảm bảo mức độ thoải mái là rất cần thiết.
Tuổi tác là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nguy cơ loét tì đè Người cao tuổi thường có nguy cơ cao hơn do hạn chế khả năng di chuyển hoặc thay đổi vị trí độc lập, trong khi trẻ sơ sinh cũng gặp khó khăn tương tự vì kích thước cơ thể nhỏ và chưa thể tự điều chỉnh vị trí.
Tình trạng tinh thần của người bệnh bị sa sút trí tuệ hoặc rối loạn nhận thức có thể khiến họ không hiểu được hướng dẫn giúp ngăn ngừa chấn thương do áp lực và không nhận ra sự khó chịu như một tín hiệu cần thay đổi vị trí Hơn nữa, tình trạng đại tiện và tiểu tiện không tự chủ làm tăng nguy cơ tổn thương da và phát triển loét do tì đè Việc này cũng khiến nhân viên y tế khó phát hiện các dấu hiệu cảnh báo sớm của vết loét do tì đè, như các vùng da ửng đỏ chuyển sang màu đỏ khi bị áp lực nhẹ.
Một nghiên cứu được thực hiện tại một Bệnh viện Vật lý trị liệu và Phục hồi chức năng ở Thổ Nhĩ Kỳ đã so sánh 32 bệnh nhân nội trú bị loét do tỳ đè với 30 bệnh nhân nội trú không bị loét trong tình trạng bất động Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của tình trạng bất động đối với sự phát triển loét tỳ đè ở bệnh nhân.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 81,2% bệnh nhân gặp vấn đề són phân và nước tiểu, trong khi 9,3% mắc tiểu đường Đáng chú ý, 18,7% đã sử dụng bề mặt giường giảm áp trước khi xuất hiện vết loét, và 40,6% bắt đầu sử dụng sau khi vết loét đã hình thành Ngoài ra, 59,3% bệnh nhân được thay đổi tư thế định kỳ Loét áp lực phát triển sớm hơn ở những bệnh nhân hút thuốc và thiếu máu, với mối liên quan rõ rệt giữa mức độ vết loét và tần suất thay đổi tư thế Hút thuốc và chứng són tiểu hoặc phân thường xuất hiện nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có loét so với nhóm chứng, trong khi són phân và việc không sử dụng bề mặt giường giảm áp cũng được xác định là các yếu tố nguy cơ trong nhóm này.
Một nghiên cứu cắt ngang tại Ethiopia trên 355 bệnh nhân cho thấy 14,9% trường hợp loét do tỳ đè Các yếu tố nguy cơ liên quan bao gồm thiếu vận động, thay đổi tư thế không thường xuyên, sự cọ sát hoặc trầy xước, và thời gian nằm viện kéo dài.
Nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn (2011) trên 10 bệnh nhân có vết loét mạn tính vùng cùng cụt cho thấy độ tuổi người bệnh dao động từ 59 đến 86 tuổi, với nguyên nhân chính gây loét là do tỳ đè ở người lớn tuổi, thường gặp ở những bệnh nhân bị liệt hoặc vận động kém sau tai biến mạch máu não (50%) Các nguyên nhân khác bao gồm tai nạn giao thông, tổn thương cột sống, tai nạn lao động và tai nạn sinh hoạt, mỗi loại chiếm 12,5% Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu là 1:1, và tất cả bệnh nhân đều có các bệnh lý nội khoa đi kèm, chủ yếu do mất hoặc giảm cảm giác vùng cùng cụt, dẫn đến loét không được phòng ngừa và phát hiện kịp thời.
18 đúng cách dẫn đến vết loét không lành, hoặc vết loét nhiễm trùng, ngày càng nặng hơn (độ 3, 4)
Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Lý (2012) tại Bệnh viện Thống Nhất trên 20 bệnh nhân từ 61 đến 91 tuổi có vết loét lâu liền ở cẳng chân, cổ chân và bàn chân cho thấy các bệnh lý đi kèm chủ yếu là huyết áp, đái tháo đường và các vấn đề tim mạch như suy van tĩnh mạch và bệnh mạch vành.
Năm 2013, tác giả Hoàng Văn Quang đã tiến hành nghiên cứu hiệu quả của Sanyrene trong việc phòng ngừa loét do tỳ đè Kết quả cho thấy, tuổi trung bình của bệnh nhân là 80, với độ tuổi lớn nhất là 101 và nhỏ nhất là 47 Tỷ lệ loét tỳ đè ghi nhận là 55%, tương đương 33 ca trong tổng số 60 bệnh nhân, trong đó có 26 ca loét cùng cụt, chiếm 43,3%.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tuấn năm 2014 khi sử dụng vạt C –
Tại Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu về điều trị loét vùng cùng cụt cho thấy loét mạn tính thường xảy ra ở những bệnh nhân bị liệt hoặc giảm cảm giác, vận động, kèm theo các bệnh lý nội khoa như tai biến mạch máu não, tăng huyết áp, đái tháo đường, và các bệnh khác như Parkinson, viêm phế quản phổi, và nhiễm trùng huyết Độ tuổi bệnh nhân dao động từ 25 đến 81, trong đó có 6 bệnh nhân trên 52 tuổi, và tỷ lệ nữ giới mắc bệnh cao hơn nam giới.
Khái quát về bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn là bệnh viện hạng 1 của TP Hà Nội với hơn
Bệnh viện có quy mô 600 giường bệnh, 45 khoa phòng và hơn 1000 cán bộ nhân viên Đặc biệt, bệnh viện nổi bật với 7 chuyên khoa đầu ngành bao gồm Ngoại, Nhi, Gây mê Hồi sức, Xét nghiệm, Chẩn đoán Hình ảnh, Điều dưỡng và Phẫu thuật tạo hình.
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn hàng năm tiếp nhận 600 nghìn lượt khám và điều trị 45 nghìn bệnh nhân nội trú, bao gồm cả bệnh nhân nặng từ các bệnh viện tuyến dưới và những người từ ngoại tỉnh, vùng lân cận Hà Nội Chuyên ngành ngoại khoa và gây mê của bệnh viện nổi bật với các kỹ thuật tiên tiến như tạo hình, che phủ vạt da, nối chuyển các ngón, phẫu thuật nội soi khớp gối và khớp vai, cũng như phẫu thuật thần kinh sử dụng hệ thống vi tính dẫn đường, nhiều trong số đó đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Khoa Cấp cứu được thành lập theo quyết định số 731/2001/QĐ-BYT vào ngày 28 tháng 03 năm 2016, qua việc sát nhập điều dưỡng và y công từ Phòng khám Ngoại vào Đơn nguyên Cấp cứu của Phòng khám Nội Đây là cửa ngõ của bệnh viện, hoạt động 24/7 để tiếp nhận và cấp cứu tất cả bệnh nhân từ các chuyên khoa khác nhau Với tinh thần tận tâm, đội ngũ cán bộ nhân viên Khoa Cấp cứu không ngừng nỗ lực cứu chữa, tạo dựng niềm tin và tình cảm từ bệnh nhân cùng gia đình.
Đánh giá nguy cơ loét do tỳ đè theo từng cấp độ ở người bệnh điều trị nội trú tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
2.2.1 Đối tượng và phương pháp đánh giá
Chúng tôi đã áp dụng thang điểm Norton để đánh giá tình trạng loét tỳ đè ở bệnh nhân, phù hợp với đặc thù của đơn vị cấp cứu Tổng cộng có 245 bệnh nhân được đánh giá theo chuyên đề này.
Sau khi áp dụng thang điểm Norton để đánh giá các tiểu mục vào ngày đầu tiên nhập viện (D0), sau đó mỗi 3 ngày trong suốt thời gian điều trị nội trú và vào ngày ra viện, điểm số của bệnh nhân được phân loại thành 4 mức độ nhằm đánh giá nguy cơ loét do tỳ đè.
Bảng 2.1.Thang điểm đánh giá nguy cơ loét do tỳ đè Đánh giá Điểm
Không có nguy cơ 16 – 20 điểm
Nguy cơ trung bình 6 – 10 điểm
Bảng 2.2 Đặc điểm về tuổi và giới của người bệnh (n$5)
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Nhận xét: Nhóm tuổi chủ yếu của người bệnh nằm tại khoa là 70 – 79 tuổi chiếm tỷ lệ 22.9%; 50 – 59 tuổi chiếm tỷ lệ 18%; 80 - 89 tuổi chiếm tỷ lệ
17.6%; 60 – 69 tuổi chiếm tỷ lệ 15.9%; trên 90 tuổi chiếm tỷ lệ 6.9%; 30 – 39 chiếm tỷ lệ 5.3%; 20 – 29 chiếm tỷ lệ 4.5%; dưới 20 tuổi chiếm tỷ lệ 0.4%
Bảng 2.3 Số nhóm bệnh mà người bệnh hiện mắc
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Phần lớn bệnh nhân tại khoa mắc nhiều bệnh lý phối hợp, trong đó 45.7% có 2 nhóm bệnh, 16.3% có 3 nhóm bệnh, và 4.1% có 4 nhóm bệnh Chỉ có 33.9% bệnh nhân mắc 1 nhóm bệnh lý.
Biểu đồ 2.1 cho thấy sự thay đổi trong đánh giá nguy cơ loét ở bệnh nhân trong quá trình nhập viện và ra viện Cụ thể, tỷ lệ bệnh nhân có nguy cơ cao giảm từ 12.7% vào ngày nhập viện xuống 12.2% vào ngày ra viện Đối với nhóm nguy cơ trung bình, tỷ lệ giảm từ 36.7% xuống 28.6%, trong khi nhóm có nguy cơ thấp giảm từ 32.2% xuống 29.4% Đặc biệt, tỷ lệ bệnh nhân không có nguy cơ loét do tỳ đè tăng mạnh từ 18.4% vào ngày nhập viện lên 29.8% vào ngày ra viện.
Bảng 2.4 Số lần đánh giá thang Norton trong kỳ nhập viện nội trú
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
KHÔNG CÓ NGUY CƠ NGUY CƠ THẤP NGUY CƠ TRUNG BÌNH NGUY CƠ CAO
Ngày vào viện Ngày ra viện
Trong khảo sát của chúng tôi, phần lớn người bệnh chỉ được đánh giá bằng thang Norton một lần, chiếm 52.2% Tỷ lệ đánh giá hai lần là 11.8%, ba lần là 11.0%, và bốn lần là 7.8% Số lần đánh giá thang Norton trung bình ở nhóm nam là 2.12 ± 1.44 lần, trong khi ở nhóm nữ là 2.40 ± 1.67 lần Tổng số lần đánh giá thang Norton trung bình của nhóm nghiên cứu là 2.26 ± 1.56 lần.
Phân tích những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân
Xu hướng tích cực trong việc điều trị bệnh nhân cho thấy tỷ lệ người bệnh không có nguy cơ loét đã tăng lên, trong khi tỷ lệ người bệnh có nguy cơ loét lại giảm đi khi ra viện.
Tất cả người bệnh đều được điều dưỡng đánh giá nguy cơ loét trong quá trình điều trị tại khoa
Gần một nửa số người bệnh được đánh giá nguy cơ loét từ 2 lần trở lên trong quá trình nằm viện
Các điều dưỡng đã thực hiện đầy đủ các biện pháp dự phòng loét cho người bệnh, bao gồm:
Để tránh cho người bệnh chịu áp lực tỳ đè, cần giữ cho vải trải giường luôn thẳng và phẳng Sử dụng đệm nước, đệm hơi, và đệm áp lực khi cần thiết để hỗ trợ vùng tỳ đè Ngoài ra, nên sử dụng vòng gòn hoặc vòng hơi cao su để giảm áp lực Quan trọng là xoay trở người bệnh mỗi 2 giờ để khuyến khích vận động Sử dụng giường và ghế đẩy trợ giúp đặc biệt cũng rất cần thiết để duy trì áp lực tỳ đè ở mức 32 mmHg.
Để đảm bảo chăm sóc da cho người bệnh, cần thay quần áo và vải trải giường ngay khi chúng ẩm ướt Việc vệ sinh da hàng ngày là rất quan trọng, giúp giữ cho da luôn khô ráo và sạch sẽ.
Quản lý chất tiết là một phần quan trọng trong chăm sóc vết thương Cần thay băng ngay khi băng thấm ướt dịch và sử dụng túi dẫn lưu cho các vết thương có nhiều dịch tiết Đảm bảo các ống dẫn lưu trên cơ thể luôn kín, vô khuẩn, thông và một chiều để tránh ứ đọng dịch Nên xả túi dẫn lưu khi đầy 2/3 hoặc mỗi 8 giờ để ngăn ngừa tình trạng túi quá căng, dễ gây ra rủi ro tràn dịch ra ngoài.
Sử dụng các dụng cụ quản lý nước tiểu và phân (uridom, tã giấy, túi nylon…): khi người bệnh đại tiểu tiện không tự chủ
Để đảm bảo sự toàn vẹn và tránh tổn thương cho da, cần di chuyển và xoay trở những người bệnh bất động một cách cẩn thận nhằm ngăn ngừa tổn thương do va chạm.
* Đảm bảo dinh dưỡng cho người bệnh: Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, đặc biệt protein và vitamin A, C
Quản lý và xử lý nhiễm khuẩn hiệu quả là rất quan trọng để ngăn ngừa và điều trị triệt để các ổ nhiễm khuẩn trên cơ thể Đối với đường hô hấp, việc phòng ngừa viêm phổi là cần thiết; trong khi đó, ở hệ tiết niệu, cần chú ý ngăn ngừa nhiễm trùng tiểu Bên cạnh đó, việc phòng ngừa rối loạn tiêu hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe tổng thể.
Giáo dục sức khoẻ cho gia đình người bệnh rất quan trọng, bao gồm việc giữ gìn vệ sinh da cho người bệnh sạch sẽ, đặc biệt là sau mỗi lần đại, tiểu tiện Gia đình cần thường xuyên thay đổi tư thế cho người bệnh mỗi 2 giờ để tránh tình trạng loét Ngoài ra, việc xoa bóp những vùng xương gồ lên, ít cơ bao bọc cũng cần được thực hiện thường xuyên Đặc biệt, cần đảm bảo người bệnh nhận đủ chất dinh dưỡng, bao gồm đạm và trái cây tươi, để cung cấp năng lượng cần thiết cho sức khoẻ của họ.
* Nâng cao thể trạng cho người bệnh: Đảm bảo calories, protein 1-2 g/kg/ngày, vitamin, yếu tố vi lượng để dự phòng thiếu máu
* Giảm đau: Vệ sinh sạch sẽ ổ loét và mô xung quanh Chăm sóc tiểu tiện không tự chủ
Công cụ đánh giá nguy cơ được sử dụng là thang điểm Norton, chưa so sánh để tìm ra các công cụ phù hợp và tối ưu
Các thời điểm đánh giá nguy cơ loét do tỳ đè được thực hiện vào ngày nhập viện và sau đó mỗi 3 ngày trong suốt thời gian bệnh nhân nằm viện Tuy nhiên, số lượng bệnh nhân
Hơn 25% bệnh nhân được đánh giá từ 2 lần trở lên có mức đánh giá thấp, trong khi hơn 52,2% bệnh nhân chỉ được đánh giá một lần Đặc biệt, hơn 60% bệnh nhân thuộc nhóm tuổi trên 60 và hơn 65% bệnh nhân mắc từ 2 nhóm bệnh lý trở lên.
Chưa kiểm chứng được độ tin cậy của việc đánh giá nguy cơ loét, việc chăm sóc dự phòng loét cũng chưa được triển khai nhất quán
₋ Với những kết quả đạt được:
Các điều dưỡng tại khoa đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phòng ngừa loét tỳ đè, từ đó góp phần đạt được những kết quả tích cực trong chăm sóc người bệnh.
Hoạt động đánh giá nguy cơ loét và chăm sóc dự phòng loéttại khoa được thực hiện đầy đủ và đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật
₋ Với một số tồn tại:
Hiện nay, vẫn chưa có nhiều chương trình huấn luyện và cập nhật thường xuyên cho điều dưỡng về việc chăm sóc bệnh nhân phòng chống loét áp lực Mặc dù đã áp dụng một công cụ đánh giá nguy cơ loét, nhưng vẫn thiếu các nghiên cứu quy mô để xác định công cụ nào là phù hợp và khách quan nhất.
Đánh giá nguy cơ loét của điều dưỡng hiện tại còn thiếu tính hệ thống và chưa có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ Cần thiết lập các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật và báo cáo thường xuyên để nâng cao hiệu quả trong việc quản lý nguy cơ loét.
BÀN LUẬN
Nguy cơ loét do tỳ đè ở người bệnh nội trú tại Khoa cấp cứu - Bệnh viện Đa
Nhóm tuổi chủ yếu của người bệnh tại khoa là 70 – 79 tuổi, chiếm 22.9%; tiếp theo là 50 – 59 tuổi với 18%; 80 - 89 tuổi 17.6%; 60 – 69 tuổi 15.9%; trên 90 tuổi 6.9%; 30 – 39 tuổi 5.3%; 20 – 29 tuổi 4.5%; và dưới 20 tuổi chỉ chiếm 0.4% Về nguy cơ loét theo thang điểm Norton, số bệnh nhân có nguy cơ cao giảm từ 12.7% (31 người) ở ngày nhập viện xuống 12.2% khi ra viện Nhóm nguy cơ trung bình giảm từ 90 xuống 70 người (giảm 36.7% xuống 28.6%), trong khi nhóm nguy cơ thấp giảm xuống 72 người từ 79 người Tỷ lệ bệnh nhân không có nguy cơ loét do tỳ đè tăng lên 29.8% (73/245 người) ở ngày ra viện, so với 18.4% (45/245 người) ở ngày nhập viện Điều này cho thấy sự nỗ lực trong công tác dự phòng và chăm sóc của điều dưỡng đã giúp giảm loét do tỳ đè ở bệnh nhân khi ra viện.
Trong nghiên cứu, phần lớn người bệnh chỉ được đánh giá bằng thang Norton một lần, chiếm 52,2%, trong khi 11,8% được đánh giá hai lần, 11,0% ba lần và 7,8% bốn lần Trung bình, số lần đánh giá bằng thang Norton của người bệnh là 2,26 ± 1,56 lần Đặc biệt, nam giới có số lần đánh giá trung bình là 2,12 ± 1,44, thấp hơn so với nữ giới với 2,40 ± 1,67 Mặc dù nam giới được đánh giá từ 1 đến 4 lần nhiều hơn nữ giới, nhưng tỷ lệ nữ bệnh nhân được đánh giá 5 lần lại cao hơn, với 11,4% so với 5,7% của nam.
Giải pháp tăng cường dự phòng loét do tỳ đè cho người bệnh tại khoa Cấp cứu Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn
Đối với phòng điều dưỡng
- Hằng năm cập nhật quy trình và hướng dẫn dự phòng, chăm sóc cho người bệnh bị loét do tỳ đè
Đào tạo liên tục cho điều dưỡng là rất quan trọng, đặc biệt trong việc hướng dẫn dự phòng loét và chăm sóc cho bệnh nhân bị loét tỳ đè Điều này càng cần thiết đối với các điều dưỡng trẻ tuổi, những người còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực này Việc nâng cao kiến thức và kỹ năng cho họ sẽ giúp cải thiện chất lượng chăm sóc bệnh nhân và giảm thiểu nguy cơ phát sinh loét tỳ đè.
- Kiểm tra, giám sát điều dưỡng chăm sóc người bệnh loét do tỳ đè dúng quy trình kỹ thuật, đánh giá nhận định người bệnh trước khi vào viện
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp, phương tiện dự phòng và chăm sóc người bệnh loét do tỳ đè Đối với điều dưỡng trưởng khoa
- Phối hợp với phòng điều dưỡng giám sát điều dưỡng viên thực hiện các quy trình nhận định, dự phòng và chăm sóc người bệnh loét do tỳ đè
- Phổ biến các quy trình kỹ thuật đầy đủ đến điều dưỡng viên trong khoa
- Truyền thông, giáo dục sức khỏe cho người nhà người bệnh phối hợp chăm sóc người bệnh loét do tỳ đè
- Tạo điều kiện cho điều dưỡng viên trong khoa tham gia đào tạo liên tục về dự phòng và chăm sóc cho người bệnh loét do tỳ đè
- Chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp, sáng kiến mới trong chăm sóc người bệnh bị loét do tỳ đè
KẾT LUẬN Qua kết quả khảo sát của chuyên đề trên chúng tôi có một số kết luận như sau:
1 Nguy cơ loét do tỳ đè
Tỷ lệ loét do tỳ đè ở bệnh nhân điều trị nội trú tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn được đánh giá theo thang điểm Norton, cho thấy sự phân loại theo từng cấp độ Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và mức độ nguy cơ phát triển loét do tỳ đè, từ đó giúp cải thiện quy trình chăm sóc y tế.
- Ngày vào viện: Nhóm đối tượng có nguy cơ cao là 12.7%; nguy cơ TB là 36.7%; nhóm nguy cơ thấp là 32.2% và nhóm không có nguy cơ là 18.4%
Ngày ra viện, tỷ lệ nhóm đối tượng nguy cơ cao giảm còn 12.2%, trong khi nhóm nguy cơ trung bình giảm xuống 28.6% Nhóm nguy cơ thấp cũng ghi nhận sự giảm còn 29.4%, trái lại, nhóm không có nguy cơ tăng lên 29.8% trong số bệnh nhân được nghiên cứu.
Tạo điều kiện cung cấp các phương tiện hỗ trợ điều dưỡng chăm sóc người bệnh bị loét do tỳ đè
Khuyến khích điều dưỡng viên chủ động, tích cực và sáng tạo các sáng kiến mới trong dự phòng và chăm sóc người bệnh bị loét do tỳ đè
Có chế tài thưởng phạt cho khoa có tỷ lệ người bệnh bị loét do tỳ đè thấp
₋ Đối với phòng Điều dưỡng
Là đầu mối tham mưu và đề xuất các giải pháp dự phòng và chăm sóc cho người bệnh bị loét do tỳ đè
Cập nhật thường xuyên các biện pháp và quy trình dự phòng, chăm sóc cho bệnh nhân loét do tỳ đè là rất quan trọng Đào tạo liên tục và tổ chức các cuộc thi chuyên môn về chăm sóc bệnh nhân loét cũng cần được thực hiện, đặc biệt tại các khoa như khoa Cấp cứu, nơi có nhiều trường hợp bệnh nhân bị loét do tỳ đè.
Phối hợp với điều dưỡng trưởng các khoa giám sát thực hiện quy trình kỹ thuật chăm sóc người bệnh bị loét do tỳ đè
Khuyến khích điều dưỡng làm đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến người bệnh bị loét do tỳ đè
₋ Đối với điều dưỡng viên tại khoa cấp cứu
Chủ động cập nhật kiến thức về dự phòng và chăm sóc người bệnh bị loét do tỳ đè
Phối hợp chặt chẽ với bác sĩ trong việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân bị loét do tỳ đè là rất quan trọng Cần tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật để nhận định tình trạng người bệnh khi nhập viện, đánh giá nguy cơ loét do tỳ đè và thực hiện các biện pháp chăm sóc hiệu quả cho bệnh nhân.
Sáng tạo, nghiên cứu khoa học, tìm ra các sáng kiến trong chăm sóc người bệnh bị loét do tỳ đè
Truyền thông và giáo dục sức khỏe đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn bệnh nhân và gia đình tham gia tích cực vào quá trình điều trị và chăm sóc cho người bị loét.
Trần Vân Anh, Vũ Quang Vinh và Nguyễn Minh Giang (2011) đã thực hiện nghiên cứu về ứng dụng vạt da nhánh xuyên động mạch mông trên trong điều trị loét vùng cùng cụt do tỳ đè Nghiên cứu này được công bố trong tạp chí Y học thảm họa & bỏng, số đặc biệt, trang 208-214.
[2] Allman R et al (1999) “Pressure ulcer, hospital complications and disease severity: impact on hospital cost and length of stay” Advances in Wound Care, 12(1), pp.22 – 30
[3] Chronakos J & Nierman D (2003) “Managing pressure ulcer in critically ill patients” Journal of Respiratory Disease, 24(8), pp 363-371
[4] Martha freeman somers (1991), Spinal Cord Injury Functional Rehabilitatio, Appleton and lange, trang 112 -119
[5] Bostom J, Kenneth H (1992) “Staff nurse knowledge and perception about prevention pressure sore” Dermatology Nursing, 4, pp 365-386
[6] Võ Thị Hương (2005), Phòng chống loét,Giáo trình tập huấn quyển số 2 VẾT LOÉT khoa PHCN tổn thương tủy sống, nhà xuất bản TP.HồChí Minh, trang 4-21
[7] Võ Thị Hương (2005), Điều trị vết loét, Giáo trình tập huấn quyển số 3 VẾT LOÉT khoa PHCN tổn thương tủy sống, nhà xuất bản TP.Hồ Chí Minh, trang 3-8
Ngô Thị Huỳnh Chúc (2009) đã nghiên cứu về phương pháp phòng và điều trị loét do tỳ đè ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng và liệt tủy Nghiên cứu này được thực hiện tại Đại học Y Hà Nội và cung cấp những kiến thức quan trọng trong việc chăm sóc bệnh nhân, đặc biệt là trong việc ngăn ngừa và điều trị các biến chứng liên quan đến loét tỳ đè.
[9] Black J, Baharestani M, Cuddigan J (2007), “National Pressure Ulcer Advisory Panel's Updated Pressure Ulcer Staging System”, Journal for Prevention and Healing, 20(5), pp 269 - 274
[10] Cao Minh Châu (2011), Biến chứng và 1 số TTTP thường gặp, Phục hồi chức năng dùng cho đào tạo cử nhân điều dưỡng, trang 12-18
[11] Jackson C.Tan (2002), Practical Manual of Physical Medicine and rehabilitation, Appleton and lange, trang 11 – 21
[12] Jules M.Rohstein, Serge H.Roy, Steven L.Wolf(1984), The rehabilitation specialist’s handbook, Second edition, trang 245
[13] Phạm Văn Thành Công (2003-2009), Bước đầu đánh giá khả năng đi lại của người bệnh tổn thương tủy sống, Khóa luận tốt nghiệp bác sỹ y khoa, trang 11 – 19
[14] Nguyễn Anh Tuấn (2010), Điều trị vết loét mạn tính vùng cùng cụt tại Bệnh viện Đại học Y dược, Tạp chí Y học Tp HCM, tập 15, phụ bản của số
1 (2011), Chuyên đề Ngoại khoa, tr 243 – 247
Nguyễn Tiến Lý và cộng sự (2011) đã nghiên cứu kết quả điều trị vết thương và vết loét lâu liền ở vùng cẳng chân, cổ chân và bàn chân của người cao tuổi tại Bệnh viện Thống Nhất Nghiên cứu được công bố trong Tạp chí Nghiên cứu Y học Tp HCM, tập 16, phụ bản số 1.
(2012), Hội nghị Khoc học Kỹ thuật Bệnh viện Thống Nhất, Tp HCM, tr
Hoàng Văn Quang, Lê Bảo Huy và cộng sự (2013) đã thực hiện nghiên cứu về hiệu quả của Sanyrene trong việc phòng ngừa loét do tỳ đè, được công bố trong Tạp chí Y học TpHCM, tập 17, phụ bản số 3, tại Hội nghị Khoa học Nội khoa toàn quốc 2013.
[17] Guy, H (2012) Pressure ulcer risk assessment Nursing Times http://www.nursingtimes.net/pressure-ulcer-risk- assessment/5040368.article
[18] Cakmak, S.K et al (2009) Risk factors for pressure ulcers Adv Skin
[19] Bereded, D.T et al (2018) Prevalence and risk factors of pressure ulcer in hospitalized adult patients; a single center study from Ethiopia MC Res Notes (2018) 11:847, https://doi.org/10.1186/s13104-018-3948
PHỤ LỤC BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
BỆNH VIỆN ĐA KHOA XANH PÔN
Họ và tên người bệnh:………Tuổi…………Giới………… Ngày vào viện:……… Số bệnh án……… Địa chỉ:……… Chẩn đoán ………
1 Phân loại nhóm bệnh lý theo ICD – 10 tại khoa điều trị (tích ×)
Bệnh lý trong thời gian điều trị nội trú Bệnh nhiễm trùng và kí sinh trùng
Bệnh máu, cơ quan tạo máu và các rối loạn liên quan cơ chế miễn dịch
Bệnh nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa
Rối loạn tâm thần và hành vi
Bệnh của hệ thần kinh
Bệnh mắt và phần phụ
Bệnh tai và xương chũm
Bệnh của hệ tuần hoàn
Bệnh da và mô dưới da
Bệnh cơ xương khớp và mô liên kết