C Ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới và hiệu quả kinh tế - xã hội
Nông thôn mới là khu vực định cư của người dân chủ yếu sống bằng nghề nông, với đất đai là tư liệu sản xuất chính Mặc dù một số ít người làm nghề phi nông nghiệp, nhưng họ thường có thu nhập thấp và công việc thường do tổ tiên để lại Tình trạng phân công lao động xã hội chưa cao và trình độ chuyên môn còn thấp khiến kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Nông thôn Việt Nam sở hữu điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái đa dạng, bao gồm tài nguyên đất, nước, khí hậu, rừng, sông suối, ao hồ và khoáng sản, cùng với hệ động thực vật phong phú Cư dân nơi đây duy trì mối quan hệ họ tộc và gia đình chặt chẽ, với những quy định cụ thể, tạo nên sự hỗ trợ lẫn nhau và tình làng nghĩa xóm bền vững Trong xã hội nông thôn, hành vi cá nhân thường được đặt trong bối cảnh các thiết chế xã hội như gia đình, dòng họ và làng xóm, làm nổi bật vai trò của cộng đồng và khiến cá nhân trở nên nhỏ bé hơn Sức mạnh của cộng đồng làng xã không chỉ thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên mà còn với những người ngoài cộng đồng.
Nông thôn là nơi bảo tồn di sản văn hóa quốc gia, bao gồm phong tục tập quán, lễ hội, sản xuất nông nghiệp và nghề truyền thống Đây cũng là khu vực chứa đựng các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh Nông thôn không chỉ là kho tàng văn hóa dân tộc mà còn là điểm đến du lịch sinh thái phong phú và hấp dẫn Khái niệm nông thôn hiện nay được quy định thống nhất theo Thông tư số
Theo Thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nông thôn được định nghĩa là khu vực lãnh thổ không nằm trong nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã và thị trấn, và được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã.
Nông thôn mới (NTM) được hiểu là sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, theo tác giả Vũ Trọng Khải trong cuốn sách "Phát triển nông thôn Việt Nam: Từ làng xã truyền thống đến văn minh thời đại" Ông nhấn mạnh rằng NTM không chỉ là nông thôn văn minh mà còn cần giữ gìn vẻ đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam Tô Văn Trường cũng khẳng định rằng NTM phải bảo tồn những giá trị truyền thống, bản sắc riêng của từng vùng, từng dân tộc, đồng thời nâng cao giá trị đoàn kết cộng đồng và cải thiện đời sống người dân.
Mô hình nông thôn tiên tiến cần dựa trên nền tảng nông dân có tri thức về thổ nhưỡng, giống cây trồng, hóa học phân bón, quản lý dịch bệnh và kinh tế nông nghiệp Để phát triển nông thôn mới (NTM), cần chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng làm đòn bẩy cho các ngành nghề khác, đồng thời đạt bộ tiêu chí 19 tiêu chí do Chính phủ ban hành NTM cũng phải cải tạo cảnh quan, bảo vệ môi trường và phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, áp dụng khoa học kỹ thuật mới nhằm nâng cao thu nhập cho người dân.
Nông thôn mới (NTM) được hiểu là khu vực nông thôn có nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện NTM có quy hoạch rõ ràng, hạ tầng hiện đại, môi trường sinh thái trong lành, dân trí cao và bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời đảm bảo an ninh chính trị ổn định.
Như vậy, công thức NTM là: Nông thôn mới = Nông dân mới + Nền nông nghiệp mới.
Các học giả đều thống nhất rằng nông thôn cần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, cải thiện dân trí và bảo tồn, tái tạo bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghị quyết 26-NQ/TƯ xác định: NTM là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng KT -
Xây dựng nông thôn hiện đại là mục tiêu quan trọng, bao gồm việc cải cách cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất hợp lý, kết nối nông nghiệp với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và dịch vụ Định hướng phát triển nông thôn phải gắn liền với đô thị theo quy hoạch, tạo ra một xã hội nông thôn dân chủ, ổn định và giàu bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái và giữ vững an ninh trật tự Đời sống vật chất và tinh thần của người dân cần được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa Để thực hiện các mục tiêu này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định quan trọng, bao gồm Quyết định số 491/QĐ-TTg và Quyết định số 1980/QĐ-TTg, cùng với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, quy định 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới được phân thành 5 nhóm nội dung chính, tập trung vào quy hoạch và hạ tầng.
KT - XH đề cập đến các khía cạnh kinh tế, tổ chức sản xuất, văn hóa, xã hội, môi trường và hệ thống chính trị Hiện tại, các xã được hướng dẫn về nhóm tiêu chí nhằm hỗ trợ từng người dân Khi một xã hoàn thành đủ 19 tiêu chí, xã đó sẽ được công nhận là xã NTM.
Mô hình NTM được xác định bởi các tiêu chí như đáp ứng nhu cầu phát triển, đổi mới tổ chức và vận hành, cải thiện cảnh quan môi trường Nó phải đạt hiệu quả cao trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, đồng thời tiến bộ hơn so với các mô hình cũ Mô hình này cũng cần có các đặc điểm chung, có khả năng được áp dụng và phổ biến trên toàn quốc.
Đặc điểm của nông thôn mới (NTM) được thể hiện qua ba điểm chính: Thứ nhất, nông thôn được xây dựng trên nền tảng làng, xã truyền thống với đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng cao Thứ hai, bên cạnh các ngành nghề truyền thống, những ngành nghề mới liên quan đến quá trình công nghiệp hóa (CNH) đang dần hình thành và phát triển Thứ ba, về văn hóa và xã hội, các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy, góp phần tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân nông thôn.
Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại đang được cải thiện và môi trường được bảo vệ, tái tạo hiệu quả Dân chủ cơ sở ở nông thôn ngày càng được phát huy, với người dân đóng vai trò quyết định trong xây dựng nông thôn mới (NTM) Chương trình NTM hiện nay thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong đó người dân chủ động tham gia, còn Nhà nước hỗ trợ, nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế.
Xây dựng NTM hiện nay chịu ảnh hưởng từ quản lý nhà nước và sự linh hoạt trong tổ chức thực hiện của địa phương Việc này bị ràng buộc bởi các tiêu chí chung của NTM, nhưng lại mang tính đặc thù cao của từng xã, do các yếu tố như đặc điểm làng xã truyền thống, tập quán và điều kiện tự nhiên Hơn nữa, cơ chế dân chủ hóa ở cơ sở cũng tạo ra nhiều ràng buộc khác cho quá trình này.
Hiệu quả là mối liên hệ giữa nguồn lực đầu vào và kết quả đạt được, bao gồm kết quả trung gian và kết quả cuối cùng Khái niệm này được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và xã hội Hiểu một cách tổng quát, hiệu quả phản ánh sự tương quan giữa các biến số đầu ra (outputs) và các biến số đầu vào đã được sử dụng để tạo ra những kết quả đó.
Sự cần thiết xây dựng nông thôn mới trong toàn quốc
1.2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn truyền thống
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vai trò quan trọng trong lịch sử và sự phát triển của Việt Nam Nông dân luôn là lực lượng chủ chốt trong các giai đoạn cách mạng, góp phần vào những thành tựu vẻ vang của dân tộc Phát triển nông thôn là một tổ hợp hoạt động đa dạng, liên quan đến cá nhân, nhóm và tổ chức, nhằm đảm bảo sự phát triển cho cộng đồng nông thôn Theo quan niệm truyền thống, phát triển nông thôn là một phần của mô hình hiện đại hóa, tập trung vào đầu tư nâng cao năng suất, ứng dụng khoa học và hình thành tổ chức quy mô lớn Mô hình cũ chủ yếu chú trọng vào phát triển sản xuất và mở rộng kinh tế thị trường, trong khi ở các nước XHCN, nhà nước kiểm soát sản xuất và dịch vụ Tuy nhiên, từ những năm 80 của thế kỷ XX, các chương trình điều chỉnh đã được áp dụng để mang lại lợi ích cho xã hội và kinh tế nông thôn Tại Việt Nam, xây dựng nông thôn mới nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử đấu tranh của dân tộc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới (NTM) tại các vùng giải phóng với ba nội dung chính: tăng gia sản xuất để chống đói, học chữ quốc ngữ để tiêu diệt nạn dốt, và hỗ trợ bộ đội, xây dựng dân quân du kích để đánh bại giặc ngoại xâm.
Sau cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng xây dựng đời sống mới nhằm xóa bỏ tàn dư lạc hậu và giáo dục nhân dân về ưu việt của chế độ xã hội mới Ủy Ban vận động đời sống mới Trung ương được thành lập vào ngày 3 tháng 4 năm 1946 với mục tiêu thúc đẩy phong trào này trên toàn quốc Để hướng dẫn nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Đời sống mới”, tạo tiền đề cho việc xây dựng nông thôn mới trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Nội dung xây dựng đời sống mới ở nông thôn gắn liền với các chính sách phát triển nông nghiệp, bắt đầu từ giai đoạn 1954 - 1958 với chính sách cải cách ruộng đất, nhằm mục tiêu "người cày có ruộng" và khuyến nông Từ năm 1958 đến 1985, mô hình hợp tác hóa nông nghiệp được triển khai rộng rãi trên toàn quốc, đặc biệt từ năm 1976 - 1980, nhiều mô hình điểm cấp huyện được đầu tư xây dựng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn chậm phát triển, đời sống của cư dân nông thôn gặp nhiều khó khăn
Từ năm 1981 đến 1985, cơ chế khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động đã được thực hiện, đánh dấu bước đột phá quan trọng trong chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn Sau đó, đường lối đổi mới kinh tế và mô hình phát triển kinh tế nhiều thành phần cùng với luật đất đai ban hành năm 1993 đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển này Nghị Quyết Trung ương VII khóa X khẳng định rõ vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn và yêu cầu xây dựng nông thôn mới (NTM).
Chủ trương xây dựng nông thôn mới (NTM) đã được triển khai từ lâu, chủ yếu tập trung vào phát triển nông nghiệp Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn chỉ dừng lại ở mức thí điểm tại một số địa phương.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn:
Kinh tế nông thôn đã chuyển mình từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN, góp phần quan trọng vào an ninh lương thực quốc gia Việt Nam hiện nay nổi bật với nhiều sản phẩm nông sản xuất khẩu hàng đầu thế giới, đồng thời hình thành những vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh quy mô lớn Sự chuyển đổi này là nền tảng vững chắc cho việc xây dựng nông thôn mới (NTM).
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn đang được đẩy mạnh nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cải thiện chất lượng dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh và đời sống của nông dân Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn được xây dựng và nâng cấp về cả số lượng lẫn chất lượng, trong khi hệ thống thủy lợi ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp Giáo dục và đào tạo ở nông thôn được chú trọng với việc mở rộng hệ thống trường học, xóa bỏ trường lớp tạm bợ Đồng thời, đầu tư vào hệ thống y tế nông thôn đã giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân Mạng lưới thông tin và văn hóa phát triển nhanh chóng, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn.
Trong quá trình đổi mới, chính sách xã hội và an sinh xã hội tập trung vào phát triển con người và hạnh phúc của nhân dân đã thúc đẩy tiềm năng sáng tạo Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách xã hội cho khu vực nông thôn, đặc biệt là những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi cao, biên giới và hải đảo Nguồn lực được đầu tư cho chương trình giảm nghèo và hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo, người gặp khó khăn đã góp phần ổn định cuộc sống và mang lại hiệu quả tích cực.
Hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng được củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở được thực hiện tốt, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững và ổn định.
Tuy nhiên, xây dựng NTM ở nước ta thời gian qua còn một số hạn chế, yếu kém cơ bản sau:
Cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn đang chuyển dịch chậm, với các hình thức sản xuất chưa đổi mới đáng kể Nhiều sản phẩm nông nghiệp vẫn có chất lượng thấp và năng lực cạnh tranh không cao Mặc dù có sự chuyển dịch nhanh hơn trong cơ cấu hộ nông thôn giai đoạn 2001, nhưng vẫn cần cải thiện để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Tính đến năm 2006, nông thôn Việt Nam vẫn giữ cấu trúc thuần nông, với nông nghiệp là nguồn việc làm và thu nhập chính cho cư dân, mặc dù tỷ trọng lao động trong lĩnh vực này đã giảm từ 72,9% năm 1985 xuống còn 46,9% hiện nay Sự phân hóa giàu nghèo gia tăng giữa các hộ gia đình trong nông thôn và giữa nông thôn với thành thị đang trở thành vấn đề nghiêm trọng Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp đối mặt với nhiều rủi ro từ thiên tai, làm tăng nguy cơ các hộ cận nghèo rơi vào tình trạng nghèo đói, và ngay cả những hộ đã thoát nghèo cũng có nguy cơ trở lại tình trạng nghèo nếu gặp phải rủi ro.
Quá trình phát triển nông thôn hiện nay gặp nhiều bất cập, chủ yếu do thiếu quy hoạch và tính tự phát Mặc dù có những cải thiện nhất định trong hạ tầng kinh tế - xã hội như điện, đường, trường, trạm, nhưng vẫn còn lạc hậu Đời sống vật chất, văn hóa, y tế và giáo dục của cư dân nông thôn đã có bước tiến nhưng vẫn ở mức thấp, đặc biệt là so với khu vực đô thị Khu vực nông thôn đang đối mặt với nguy cơ tụt hậu ngày càng nghiêm trọng, khiến người dân khó tiếp cận việc làm, thu nhập, giáo dục, y tế và các dịch vụ văn hóa.
Môi trường tự nhiên đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, với nhiều khu vực đạt mức báo động Đồng thời, môi trường văn hóa - xã hội tại một số vùng nông thôn cũng đang xuống cấp, đối mặt với nhiều yếu tố phức tạp.
Tệ nạn xã hội và tiêu cực xã hội đang gia tăng, trong khi các giá trị văn hóa ở nông thôn chưa được khẳng định rõ rệt và có xu hướng mai một Tình trạng khiếu kiện về đất đai, đền bù và giải phóng mặt bằng chậm được giải quyết đang gây bức xúc trong nhân dân.
Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế – xã hội của chương trình xây dựng nông thôn mới
Điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt ở khu vực nông thôn, nơi mà hoạt động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn Sản xuất nông nghiệp của nước ta phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên, và sự thuận lợi của chúng sẽ thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực này Ngược lại, mọi biến đổi trong môi trường tự nhiên đều có ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân nông thôn Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, dự báo rằng sản xuất nông nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức và tác động từ các yếu tố tự nhiên.
Biến đổi khí hậu đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sử dụng đất cho nông nghiệp, bao gồm mất diện tích do nước biển dâng, hạn hán, lũ lụt, sạt lở và hoang mạc hóa Những thay đổi này làm giảm tính thích hợp của nền sản xuất nông nghiệp theo cơ cấu khí hậu, với sự giảm dần cường độ lạnh trong mùa đông và gia tăng thời gian nắng nóng, dẫn đến việc mất dần hoặc triệt tiêu tính phù hợp giữa các loại cây trồng và vật nuôi trong các vùng sinh thái.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) làm chậm quá trình phát triển nông nghiệp hiện đại, ảnh hưởng đến sản xuất hàng hóa và đa dạng hóa, đồng thời làm biến dạng nền nông nghiệp truyền thống Ở một mức độ nhất định, BĐKH đã làm mất đi nhiều đặc điểm quan trọng của các vùng nông nghiệp phía Bắc.
Biến đổi khí hậu đang gây ra nhiều thách thức cho công tác thủy lợi, với khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm rõ rệt và mực nước sông tăng cao, đe dọa các tuyến đê ở miền Bắc và bờ bao ở miền Nam Diện tích ngập úng mở rộng và thời gian ngập kéo dài, trong khi nhu cầu tiêu nước và cấp nước gia tăng vượt khả năng đáp ứng của nhiều hệ thống thủy lợi Dòng chảy lũ gia tăng có thể vượt quá thông số thiết kế của hồ, đập, ảnh hưởng đến an toàn và quản lý tài nguyên nước Hơn nữa, môi trường sống bị hủy hoại khiến các hộ gia đình nông thôn chịu tác động nặng nề từ thiên tai như lũ lụt, hạn hán, và dịch bệnh, với 4-5% dân số bị tổn thương Những điều kiện tự nhiên này tác động trực tiếp và gián tiếp đến sản xuất nông nghiệp và đời sống cư dân, làm giảm lượng nước, tăng xâm nhập mặn, giảm diện tích canh tác, và ô nhiễm môi trường sống.
Việt Nam, với nền nông nghiệp phát triển và dân số chủ yếu sống ở nông thôn, có một nguồn lao động dồi dào trong lĩnh vực nông nghiệp Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là yếu tố then chốt giúp giải phóng sức lao động của nông dân, từ đó tối ưu hóa tiềm năng lao động sẵn có Việc phát huy nguồn lao động này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông thôn không chỉ giải phóng sức lao động mà còn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động Nông nghiệp và nông thôn sở hữu nguồn tài nguyên đất đai phong phú, cho phép khai thác tiềm năng này nhằm phục vụ sự phát triển đất nước Đây là khu vực cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu và nguyên liệu cho ngành công nghiệp nhẹ Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và gặp khó khăn trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ Để CNH thành công, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó có việc đầu tư vốn cho nông nghiệp thông qua xuất khẩu nông sản, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học công nghệ mạnh mẽ, nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài là rất cần thiết Nhà nước đã triển khai các chính sách hỗ trợ nông dân, bao gồm xây dựng hạ tầng và phát triển đa dạng ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn Đồng thời, việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn và tạo việc làm phi nông nghiệp cũng được chú trọng, nhằm tăng thời gian lao động và tái cấu trúc nguồn lao động Ngoài ra, việc phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi của nông dân cũng là một yếu tố quan trọng.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn đã tác động rõ rệt đến nhiều khía cạnh Đầu tiên, nó làm thay đổi cấu trúc sản xuất nông nghiệp, dẫn đến sự giảm sút tỷ trọng của ngành này Thứ hai, số lượng lao động trong các ngành phi nông nghiệp ngày càng gia tăng, khi mà sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ thu hút nhiều lao động nông thôn Thứ ba, quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã cải thiện bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống người dân thông qua đầu tư vào hạ tầng như điện, đường, trường học, trạm y tế và chợ nông thôn Tuy nhiên, CNH, HĐH cũng đặt ra nhiều thách thức về kinh tế, văn hóa và xã hội cho khu vực nông thôn.
Chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam, thể hiện qua sự chuyển mình từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu Những chính sách này không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống cư dân nông thôn mà còn góp phần xây dựng nông thôn mới (NTM) Giá trị văn hóa truyền thống, lòng yêu nước và tinh thần tự cường của người dân Việt Nam là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển bền vững Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nhanh chóng cũng đã dẫn đến sự mai một của nhiều giá trị văn hóa Đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cơ sở có vai trò quyết định trong việc thực hiện các chính sách, vì sự thành công của các chương trình xây dựng NTM phụ thuộc vào sự am hiểu và tâm huyết của họ.
Thành công của chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) phụ thuộc vào tốc độ thực hiện và khả năng huy động nguồn lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tại cơ sở Việc tuyên truyền, vận động nhân dân và tổ chức thực hiện chương trình cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu này.
Nội dung đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội trong xây dựng nông thôn mới
Nghị quyết 26/TQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã xác định mục tiêu xây dựng NTM với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, và tổ chức sản xuất gắn kết nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị Mục tiêu này hướng tới một xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí và bảo vệ môi trường sinh thái Để thực hiện các mục tiêu này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg vào ngày 16/4/2009, sau đó được thay thế bằng Quyết định số 1980/QĐ-TTg.
Vào ngày 17/10/2016, chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới được cập nhật theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, thay thế cho Quyết định số 800/QĐ-TTg Bộ tiêu chí này bao gồm 19 tiêu chí quan trọng, bao trùm các lĩnh vực như quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, hạ tầng thương mại nông thôn, thông tin và truyền thông, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, lao động có việc làm, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, môi trường và an toàn thực phẩm, hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật, cũng như quốc phòng và an ninh Những tiêu chí này được xem là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội của chương trình xây dựng nông thôn mới.
* Quy hoạch xây dựng nông thôn mới:
Mục tiêu là đạt tiêu chí số 01 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới, với mục tiêu đến năm 2018, 100% số xã sẽ đạt chuẩn tiêu chí này.
01 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch.
Quy hoạch xây dựng vùng được thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chí theo Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 05 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ, liên quan đến tiêu chí huyện nông thôn mới Đồng thời, quy hoạch cũng quy định rõ các tiêu chí cho thị xã và thành phố trực thuộc cấp tỉnh trong việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Rà soát và điều chỉnh các quy hoạch sản xuất trong đồ án quy hoạch xã nông thôn mới là cần thiết để gắn kết với tái cơ cấu nông nghiệp ở cấp huyện, vùng và tỉnh Điều này đảm bảo chất lượng quy hoạch, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và tập quán sinh hoạt của từng vùng, miền.
Rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường nông thôn là cần thiết trong đồ án quy hoạch xã nông thôn mới Mục tiêu là đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển nông thôn và đô thị, đồng thời phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã.
* Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
Mục tiêu: Đạt yêu cầu tiêu chí số 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
- Nội dung số 01 : Hoàn thiện hệ thống giao thông trên địa bàn thôn, xã Đến năm
2020, có ít nhất 55% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 2 về giao thông.
- Nội dung số 02: Hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng Đến năm 2020, có 77% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 3 về thủy lợi.
- Nội dung số 03: Cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống lưới điện nông thôn Đến năm
2020, có 100% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 4 về điện.
Đến năm 2020, 80% số xã sẽ đạt chuẩn tiêu chí số 5 về cơ sở vật chất trường học, với mục tiêu xây dựng hoàn chỉnh các công trình giáo dục mầm non và phổ thông Đặc biệt, sẽ hỗ trợ xây dựng trường mầm non tại các xã vùng khó khăn chưa có trường công lập.
Đến năm 2020, mục tiêu hoàn thiện hệ thống Trung tâm văn hóa - thể thao và Nhà văn hóa - Khu thể thao thôn, bản được đặt ra với 75% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 6 về cơ sở vật chất văn hóa Đồng thời, 80% số xã sẽ có Trung tâm văn hóa, thể thao và 70% số thôn sẽ sở hữu Nhà văn hóa - Khu thể thao.
Để nâng cao chất lượng thương mại nông thôn, cần hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn và cơ sở hạ tầng thương mại theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu của người dân Mục tiêu đến năm 2020 là có 70% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 7 về cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn.
Đến năm 2020, 90% trạm y tế xã sẽ được nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị, đặc biệt ưu tiên cho các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, cũng như các xã thuộc vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, nhằm đảm bảo đủ điều kiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Để nâng cao chất lượng hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở, cần tập trung vào việc cải thiện cơ sở vật chất Cụ thể, sẽ thiết lập mới hơn 2.000 đài truyền thanh cấp xã, nâng cấp trên 3.200 đài truyền thanh cấp xã hiện có, và cải thiện hơn 300 đài phát thanh, truyền hình cấp huyện cùng với các trạm phát lại Bên cạnh đó, sẽ thiết lập mới hơn 4.500 trạm truyền thanh tại các thôn, bản xã ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, đảm bảo thông tin được truyền tải đến mọi khu vực khó khăn.
2020, có 95% sốxã đạt chuẩn các nội dung khác của tiêu chí số 8 về Thông tin - Truyền thông.
Đến năm 2020, 95% dân số nông thôn đã được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 60% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn Bộ Y tế Tất cả các trường học và trạm y tế xã đều có công trình cấp nước và nhà tiêu hợp vệ sinh, đảm bảo điều kiện sống tốt cho người dân.
* Phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân.
Mục tiêu chính là đạt tiêu chí số 10 về thu nhập, tiêu chí số 12 về tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên, và tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới Để nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, cần tăng cường năng lực tổ chức, điều hành và kinh doanh cho các hợp tác xã và tổ hợp tác Đến năm 2020, phấn đấu có 80% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 10 và tiêu chí số 12, cùng với 85% số xã đạt tiêu chí số 13 về hình thức tổ chức sản xuất.
Triển khai hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng liên kết chuỗi giá trị là cần thiết để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững Điều này giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, tăng cường khả năng cạnh tranh và đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên trong chuỗi giá trị.
Chương trình khoa học và công nghệ nhằm xây dựng nông thôn mới sẽ tiếp tục được triển khai hiệu quả theo Quyết định số 27/QĐ-TTg, ban hành ngày 05 tháng 01 Mục tiêu của chương trình là nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững cho cộng đồng nông thôn.
Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở trong và ngoài nước
1.5.1 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới trong nước
1.5.1.1 Kinh nghiệm của tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình, tỉnh phía Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ, nổi bật với đặc điểm tự nhiên đa dạng, bao gồm đồng bằng lúa nước, đồi núi trồng cây ăn quả và vùng biển nuôi trồng thủy hải sản Thiên nhiên ban tặng cho Ninh Bình nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng, tạo tiềm năng phát triển du lịch và điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nông thôn mới.
Sau khi triển khai Chương trình MTQG xây dựng NTM, tỉnh Ninh Bình đã chọn 31 xã điểm để phát triển NTM, trong đó nhiều xã đã huy động được nguồn lực đáng kể và tạo ra phong trào thi đua sôi nổi Người dân ở nhiều địa phương phấn khởi và tích cực tham gia, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, với hình hài xã NTM ngày càng rõ nét Từ những kết quả đạt được, một số kinh nghiệm quý báu đã được rút ra.
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đến nhân dân về chủ trương, chính
Chỉ đạo và Ban quản lý
Bước 2, tổ chức tuyên truyền, học tập nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng NTM
Bước 7, giám sát, đánh giá và báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện dự án
Bước 4, lập đề án (kế hoạch) xây dựng NTM (gồm kế hoạch tổng thể đến 2020, kế hoạch 5 năm, kế hoạch từng năm
Bước 5, xây dựng quy hoạch NTM
Bước 6, tổ chức thực hiện đề án (kế hoạch)
Bước 3 trong quá trình xây dựng nông thôn mới (NTM) là khảo sát và đánh giá thực trạng nông thôn theo 19 tiêu chí của Đảng và Nhà nước Công tác tuyên truyền về NTM được kết hợp với phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và phong trào thi đua toàn quốc nhằm xây dựng NTM Qua đó, vai trò chủ động và tích cực tham gia của hệ thống chính trị và người dân tại tỉnh đã được phát huy.
Tỉnh đã xác định xây dựng kết cấu hạ tầng là khâu đột phá trong Chương trình MTQG xây dựng NTM, với sự quan tâm chỉ đạo từ các cấp, ngành để lồng ghép nguồn vốn Các địa phương đã huy động sức dân theo khả năng từng vùng, dẫn đến phong trào làm đường giao thông nông thôn được đông đảo nhân dân Ninh Bình hưởng ứng Nhiều gia đình tự nguyện hiến đất, chặt cây, phá cổng, dỡ tường rào để mở rộng mặt đường theo quy hoạch Sau khi Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 01/NQ - HĐND về cơ chế hỗ trợ xi măng cho đường thôn xóm, bà con đã tích cực tham gia góp công, góp tiền mua vật liệu để làm đường.
Tại nhiều xã điểm, các phương pháp hỗ trợ như cung cấp thêm tiền từ 100 - 300 triệu đồng cho việc làm đường đã được triển khai Ngoài việc đóng góp tiền, các hộ nghèo có thể tham gia lao động làm đường và hỗ trợ nhau trong việc cấy, gặt để quyên góp tiền cho việc xây dựng Đến tháng 3-2013, Ninh Bình đã nâng cấp hơn 464 km đường nông thôn với tổng kinh phí 179 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 111 tỷ đồng, cho thấy nguồn lực từ cộng đồng rất lớn Nhiều công trình khác như nạo vét kênh mương, xây dựng đê bao, lắp đặt điện chiếu sáng, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa và công trình cấp nước sạch chủ yếu nhờ vào sự đóng góp tự nguyện của người dân.
Ba là, tỉnh đã xây dựng các cơ chế lồng ghép và quản lý vốn phù hợp với tình hình địa phương, nhằm huy động nguồn lực và sức dân để đạt được mục tiêu xây dựng nông thôn mới (NTM) Việc xây dựng NTM được xác định là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi không chỉ nguồn vốn lớn mà còn sự tham gia tích cực của lãnh đạo và sự đồng thuận của người dân Kết quả, năm 2013, Ninh Bình đã huy động được 412 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và nguồn tín dụng, cùng với sự đóng góp của người dân.
Với tổng giá trị đầu tư 236 tỷ đồng, 192ha đất được hiến tặng và hàng nghìn hộ dân tích cực đóng góp ngày công lao động cùng nguyên vật liệu, chương trình nâng cấp hạ tầng đã tạo nên một phong trào mạnh mẽ Các công trình như đường giao thông nông thôn và nhà văn hóa không chỉ được xây dựng mà còn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ cộng đồng, thể hiện tinh thần đoàn kết và trách nhiệm của người dân trong việc phát triển địa phương.
Nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ 66.000 tấn xi măng đã giúp hoàn thành 5.350 tuyến đường dài 536km, cải thiện khả năng đi lại và thay đổi diện mạo các làng quê Bên cạnh đó, 380 cầu cống dân sinh, 117 công trình thủy lợi, 31 trường mầm non, 7 trường tiểu học, 9 nhà văn hóa đạt chuẩn và nhiều công trình khác đã được xây mới và nâng cấp, tạo động lực cho kế hoạch năm 2014 Việc huy động nguồn lực một cách cân đối không chỉ đảm bảo sự tham gia của người dân mà còn nâng cao trách nhiệm cộng đồng Đồng thời, chương trình lồng ghép các dự án ưu tiên phù hợp với điều kiện thực tế, tạo điều kiện cho các địa phương xây dựng quy chế, hương ước tương thích với phong tục tập quán, góp phần vào nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Tổ chức khảo sát và đánh giá thực trạng nông thôn là cần thiết để lập quy hoạch hiệu quả, đồng thời nhận diện những thành công, hạn chế và khó khăn trong quá trình triển khai Đến cuối năm 2012, mỗi xã điểm đã đạt thêm từ 3 - 5 tiêu chí trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) Việc lồng ghép các nguồn vốn và ưu tiên đầu tư cho các công trình cấp bách, như hệ thống thủy lợi và giao thông nội đồng, sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư Bên cạnh đó, cần bổ sung và hoàn chỉnh các cơ chế chính sách, hỗ trợ phát triển sản xuất và hạ tầng, nhằm thúc đẩy xây dựng NTM với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý Những nỗ lực này sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, bảo vệ môi trường sinh thái và duy trì an ninh trật tự.
1.5.1.2 Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương
Hải Dương, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với nhiều thành phố Những năm qua, kinh tế - xã hội của Hải Dương đã có những bước phát triển ấn tượng, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng cường công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Mục tiêu của Hải Dương là xây dựng các làng, xã văn minh, sạch đẹp; cải thiện đồng bộ hạ tầng cơ sở; phát triển cộng đồng dân cư hài hòa; gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống; và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Vào tháng 6/2007, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã phê duyệt Đề án quy hoạch phát triển NTM nhằm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới Tỉnh đã khởi xướng phong trào xây dựng NTM tập trung vào cải thiện hạ tầng điện, đường, trường, trạm, và kiên cố hóa kênh mương nội đồng, cũng như hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa Qua quá trình này, Hải Dương đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong việc phát triển NTM.
Để đảm bảo thành công của chương trình, cần huy động sự tham gia tích cực và đồng bộ từ toàn bộ hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân Vai trò lãnh đạo và chỉ đạo điều hành của các cấp ủy đảng, chính quyền là rất quan trọng, cùng với việc cụ thể hóa và hướng dẫn từ các ngành Sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể và sự chủ động tham gia của nhân dân sẽ là điều kiện then chốt cho sự thành công này.
Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, khuyến khích người dân tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Nhờ các chính sách đúng đắn, nhiều địa phương đã có sự đóng góp tích cực từ người dân, như hiến đất mở rộng đường giao thông và ủng hộ ngày công, kinh phí, nguyên vật liệu cho hạ tầng kỹ thuật nông thôn Đến ngày 31/10/2012, nhiều tiêu chí xây dựng nông thôn mới đã đạt được kết quả đáng kể, với 3.748/5.166 km đường giao thông nông thôn được nhựa hoá, bê tông hoá và 685/2.795 km đường trục chính nội đồng được cứng hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho xe cơ giới lưu thông.
Tính đến nay, trên địa bàn có 136.014 km², với 64/257 trường mầm non, 194/250 trường tiểu học, 69/246 trường trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia Ngoài ra, có 406/1.026 nhà văn hóa xã và 40/536 khu thể thao xã đạt chuẩn Số hộ còn nhà tạm là 2.704 Về điều kiện sinh hoạt, 91,5% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, 77% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh, và 60,5% hộ nông dân có chuồng trại chăn nuôi đạt tiêu chuẩn vệ sinh Kết quả huy động nguồn vốn cho chương trình xây dựng cũng đã được thực hiện.
NTM 10 tháng năm 2012 là: 3.484,996 tỷ đồng Vốn tín dụng năm 2012 nông dân vay theo Nghị định 41 của Chính phủ đầu tư cho sản xuất nông nghiệp: 3.214,507 tỷ đồng [19] Đến tháng 6/2013, toàn Tỉnh đã có 168/229 xã được phê duyệt quy hoạch chung, 119/229 xã được phê duyệt quy hoạch chi tiết 111/229 xã được phê duyệt, 24/229 xã đang chờ phê duyệt Toàn Tỉnh có 1 xã đạt 16 tiêu chí là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, 1 xã đạt 14 tiêu chí và có 74 xã đạt 9 - 13 tiêu chí, 137 xã đạt từ 5 - 8 tiêu chí [19] Về hạ tầng giao thông đã có 153 km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa, bê tông hóa; 1101 km đường trục thôn được bê tông hóa; 68 km đường xóm được cứng hóa; 216 km đường ra đồng được bê tông hóa; kiên cố hóa 137,8 km kênh mương do xã quản lý; 101km hệ thống điện được xây dựng Xây dựng 115 trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia; xây dựng 52 nhà văn hóa, khu thể thao; 13 chợ mới được xây dựng; xóa 437 căn nhà tạm, dột nát [20]