CƠ SỞ LÍ LUẬN PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA MÔ HÌNH CAMEL
Vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động của các NHTM
1.1.1 Khái niệm hiệu quả hoạt động
Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, hiệu quả hoạt động được hiểu theo nhiều cách khác nhau Theo Antonio, Ludger và Vito (2006), hiệu quả được xác định bằng cách so sánh giữa đầu vào và đầu ra, hoặc giữa lợi nhuận và chi phí Cụ thể, với cùng một mức đầu vào, hoạt động nào tạo ra đầu ra lớn hơn sẽ được coi là hiệu quả hơn.
Theo Từ điển toán kinh tế, Thống kê, kinh tế lượng Anh-Việt của PGS.TS Nguyễn Khắc Minh (2004), hiệu quả được định nghĩa là mức độ thành công mà doanh nghiệp hoặc ngân hàng đạt được trong việc phân bổ các đầu vào và đầu ra, nhằm đáp ứng các mục tiêu đã đề ra.
Như vậy, có thể hiểu hiệu quả hoạt động theo ba hướng:
- Tối thiểu hóa chi phí, tức là sử dụng ít các yếu tố đầu vào nhất như vốn, cơ sở vật chất, lao động để tạo ra thu nhập
- Giữ nguyên đầu vào nhưng tạo ra lượng đầu ra nhiều hơn
Sử dụng yếu tố đầu vào lớn hơn nhưng tạo ra lượng đầu ra tăng nhanh hơn là yếu tố quan trọng trong hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) NHTM đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế, do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng luôn được đặt lên hàng đầu Các ngân hàng cần đáp ứng yêu cầu này để củng cố tiềm lực tài chính và đảm bảo an toàn hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế mở hiện nay.
Theo giáo sư kinh tế học và tài chính Peter S.Rose từ Đại học Yale, các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể được xem như một tập đoàn kinh doanh với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong giới hạn rủi ro cho phép Mục tiêu sinh lời là ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng, giúp họ thu hút vốn đầu tư và mở rộng thị phần Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được hiểu là mức độ thành công trong việc phân bổ các yếu tố đầu vào và đầu ra, nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong khuôn khổ rủi ro đã xác định.
1.1.2 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM
Các ngân hàng thương mại (NHTM) hoạt động hiệu quả giúp giảm chi phí cung ứng vốn tín dụng và dịch vụ ngân hàng như thanh toán, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh Việc giảm chi phí này tạo điều kiện cho NHTM hạ giá dịch vụ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Khi các ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường tích lũy và đầu tư vào công nghệ, từ đó nâng cao lợi ích cho các cổ đông trong ngân hàng.
Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại
Mô hình Dupont là công cụ phân tích tài chính quan trọng cho doanh nghiệp và ngân hàng thương mại, trong đó tỉ lệ lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) được sử dụng để đánh giá khả năng sinh lời ROE không chỉ là chỉ số tổng hợp về kết quả kinh doanh của ngân hàng mà còn ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư, giúp họ xác định lợi nhuận tiềm năng từ khoản đầu tư vào ngân hàng.
„ LNST LNTT Tona thu nhập TS có sinh lời BQ
Intt Tồng thu nhập TSC sinh lời bq Tồng TSC BQ
Tông TSC BQ Vồn CSH BQ
ROE là chỉ số đánh giá hiệu quả quản trị, bao gồm hiệu quả quản trị chi phí thuế, chi phí, tài sản, cùng với hiệu suất sử dụng tài sản và số nhân đòn bẩy, theo phương pháp lập và phân tích báo cáo tài chính của NHTM (2017, học viện Ngân hàng).
Phân tích này giúp các nhà quản trị ngân hàng xác định nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu Qua đó, họ có thể đánh giá xem các tỷ lệ này đã đạt được mục tiêu mong muốn hay chưa, từ đó đưa ra các quyết định quản trị phù hợp với điều kiện của ngân hàng.
Hệ thống đánh giá CAMEL là công cụ quan trọng để đánh giá sức mạnh của các tổ chức tài chính, dựa trên năm tiêu chí chính: vốn, chất lượng tài sản, quản lý, doanh thu và thanh khoản Tên gọi CAMEL được hình thành từ chữ cái đầu của các tiêu chí này: Capital, Asset quality, Management, Earnings và Liquidity.
Hệ thống đánh giá CAMEL, được phát triển bởi Cục Quản lý các tổ hợp tín dụng Hoa Kỳ (NCUA), đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế châu Á.
Năm 1997, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Nhóm Ngân hàng Thế giới đã khuyến nghị áp dụng hệ thống đánh giá CAMEL tại các quốc gia đang trải qua khủng hoảng như một trong những biện pháp quan trọng để tái thiết khu vực tài chính.
Hệ thống đánh giá CAMEL được sử dụng như một quy tắc chuẩn trong phân tích tài chính nhằm giám sát các tổ chức tín dụng, không phải là một chuẩn mực pháp lý bắt buộc Mô hình này giúp ngân hàng tham khảo và đánh giá hiệu quả hoạt động của mình Sau khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, CAMEL được Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Nhóm Ngân hàng Thế giới khuyến nghị áp dụng để tái thiết khu vực tài chính ở các quốc gia bị ảnh hưởng.
CAMEL là một quy tắc chuẩn trong phân tích tài chính, được áp dụng để giám sát tình hình tài chính của các Tổ chức tín dụng (TCTD) Mặc dù không phải là quy định bắt buộc, CAMEL cung cấp một mô hình tham khảo hữu ích, giúp các ngân hàng đánh giá hiệu quả hoạt động của mình.
1997, các yếu tố cấu thành CAMEL được bổ sung thêm một nội dung nữa là mức độ nhạy cảm với thị trường của ngân hàng( Sensitivity).
Hầu hết các quốc gia đều áp dụng mô hình CAMEL để đánh giá ngân hàng, trong đó một số ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại còn sử dụng mô hình CAEL (Vốn, Tài sản, Lợi nhuận, Thanh khoản) Ví dụ, Nhật Bản sử dụng mô hình CAMEL, trong khi Hàn Quốc áp dụng mô hình CAMELs (Vốn, Tài sản, Quản lý, Lợi nhuận, Thanh khoản, kiểm tra căng thẳng).
Mô hình CAMEL cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình tài chính của ngân hàng, dựa trên các yếu tố như an toàn vốn, chất lượng tài sản, nguồn vốn, hiệu quả quản trị, khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời Nhà phân tích cần đánh giá các yếu tố này trong bối cảnh kinh tế, chính trị và pháp lý của từng quốc gia Mặc dù việc phân tích không hề đơn giản, nhưng việc áp dụng khung CAMEL giúp tăng tính khả thi trong việc xác định sức khỏe tài chính của ngân hàng.
Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quy định việc đánh giá và xếp hạng các ngân hàng thương mại cổ phần thông qua mô hình CAMEL, được cụ thể hóa trong Quyết định 06/2008/QĐ-NHNN Mô hình CAMEL bao gồm các tiêu chí đánh giá và xếp loại ngân hàng, giúp đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần.
4 Kết quả hoạt động kinh doanh.
5 Khả năng thanh khoản. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng trung ương Việt Nam đã sử dụng CAMEL trong công tác quản lý hệ thống tài chính ngân hàng của mình Tuy nhiên, trong số tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam, người ta chưa hề sử dụng mô hình CAMEL,Cael hay CAMELs theo đúng nghĩa thực sự của nó trong công tác phân tích tài chính phục vụ ra quyết định hoạt động hiệu quả của Ban lãnh đạo ngân hàng Ở đó,các cán bộ phân tích tài chính hay các Phòng Phân tích tài chính mới chỉ đưa ra cho mình một sổ lượng không nhiều các chỉ tiêu phục vụ cho công việc của mình, và trong số đó cũng chỉ có rất ít tiêu chuẩn của CAMEL được ứng dụng Đó là một điểm yếu rất lớn đối với các tổ chức tài chính Việt Nam cần phải được khắc phục nhanh chóng để có thể dự đoán và ừánh được nhiều hơn những rủi ro trong hoạt động tài chính ngân hàng của mình.
1.2.3 Ưu nhược điểm khi phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng qua mô hình CAMEL Ưu điểm
Mô hình CAMEL là công cụ phân tích toàn diện giúp nhà quản trị ngân hàng phát hiện thiếu sót trong kinh doanh và đưa ra biện pháp khắc phục Các chỉ tiêu trong mô hình CAMEL, như ROA và ROE, cũng được sử dụng trong các mô hình khác để phân tích khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Điểm đặc biệt của CAMEL là các nhân tố trong mô hình được gán trọng số cụ thể, với các chỉ tiêu về chất lượng nguồn vốn, tài sản, quản lý, khả năng sinh lời và thanh khoản lần lượt là 15%, 21%, 23%, 24% và 17%, điều này giúp đánh giá đúng mức độ quan trọng của từng yếu tố, khác với các mô hình phân tích tài chính khác.
Mô hình CAMEL được sử dụng để phân tích tài chính các tổ chức tín dụng nhằm đánh giá và giám sát các ngân hàng, nhưng việc áp dụng tại các nước đang phát triển như Việt Nam gặp nhiều thách thức Để đạt hiệu quả trong phân tích, cần phải có số liệu chính xác và minh bạch Tuy nhiên, tính chân thực của thông tin trên báo cáo tài chính thường gây tranh cãi, dẫn đến việc phân tích và xếp hạng ngân hàng dựa trên dữ liệu sai lệch, từ đó làm giảm độ chính xác và gây khó khăn trong việc đưa ra quyết định quản lý.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM
Hiệu quả hoạt động là yếu tố then chốt quyết định sự sống còn và phát triển của ngân hàng thương mại (NHTM) Việc nâng cao hiệu quả này không chỉ giúp NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh mà còn cải thiện hình ảnh thương hiệu Để xác định các hướng đi phù hợp, cần phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của NHTM.
Có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến ngân hàng: nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài Mức độ tác động của các nhân tố này có thể khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm riêng của từng ngân hàng.
1.3.1 Nhóm nhân tố khách quan
Môi trường về kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò là trung gian tài chính, kết nối những cá nhân và tổ chức có dư thừa vốn với những đối tượng cần vốn trong nền kinh tế Vì vậy, các biến động trong môi trường kinh tế, chính trị và xã hội có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của NHTM cũng như toàn ngành ngân hàng.
Môi trường chính trị, kinh tế và xã hội ổn định là yếu tố then chốt giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) hoạt động hiệu quả Sự ổn định này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất và kinh doanh, từ đó kích thích nhu cầu vay vốn của họ.
Khi nền kinh tế phát triển và ổn định, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh từ các thành phần kinh tế gia tăng, dẫn đến sự tăng trưởng nhu cầu vốn Điều này cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) mở rộng dư nợ tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu, nhờ vào việc nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp.
Môi trường chính trị và xã hội không ổn định dẫn đến giảm nhu cầu vay vốn và gia tăng nợ quá hạn, nợ xấu, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Gần đây, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến các doanh nghiệp, khiến nhiều ngân hàng gặp khó khăn Một số ngân hàng đã phải đưa ra phương án cắt giảm nhân sự do doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, buộc ngân hàng phải trích lập dự phòng nhiều hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận.
Môi trường pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính đồng bộ và đầy đủ của hệ thống luật và các văn bản dưới luật Nếu hệ thống văn bản pháp luật không được xây dựng một cách hợp lý và toàn diện, sẽ dẫn đến những tranh chấp gây thiệt hại cho ngân hàng, làm giảm hiệu quả hoạt động Chẳng hạn, việc thanh lý tài sản bảo đảm có thể kéo dài và tốn kém do thiếu các quy định pháp lý hoàn chỉnh.
1.3.2 Nhóm nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp, bao gồm năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng khoa học công nghệ, và trình độ, chất lượng của đội ngũ nhân sự.
Năng lực tài chính, đặc biệt là vốn chủ sở hữu, là yếu tố quyết định cho việc mở rộng kinh doanh Tăng cường vốn chủ sở hữu và vốn tự có giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro và thu hút thêm vốn Điều này tạo điều kiện cho NHTM phát triển nhân lực, đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới và cải thiện cơ sở vật chất, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ, góp phần tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động.
Năng lực quản trị điều hành bao gồm cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý và trình độ chuyên môn của nhà quản lý, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và đầy đủ của quy chế quản lý Điều này giúp ứng phó tốt với sự thay đổi của thị trường và các tình huống bất ngờ Hơn nữa, năng lực này còn thể hiện qua việc giảm thiểu chi phí hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào, từ đó tối đa hóa đầu ra.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần phải ứng dụng công nghệ mới để cạnh tranh hiệu quả Năng lực công nghệ của ngân hàng không chỉ bao gồm việc trang bị thiết bị hiện đại mà còn thể hiện qua mức độ ứng dụng công nghệ vào sản phẩm dịch vụ và tính độc đáo trong các giải pháp công nghệ.
Trình độ và chất lượng người lao động là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, bất chấp sự phát triển của công nghệ Việc sở hữu đội ngũ nhân lực có đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn cao không chỉ nâng cao hiệu suất làm việc mà còn giúp giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Chương 1 của khóa luận đã trình bày rõ ràng cơ sở lý thuyết về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM), bao gồm các phương pháp phổ biến để đánh giá hiệu quả hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả này Những nội dung này sẽ là nền tảng quan trọng cho việc phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp trong chương 3.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM VIỆT
Đánh giá tổng quan hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam thông qua mô hình CAMEL
Vốn pháp lí hay mức độ đủ vốn( Capital Adequacy) là lượng vốn ngân hàng bắt buộc phải nắm giữ theo quy định của các cơ quan quản lí.
(Xem phụ lục 1: Các chỉ số tài chính cơ bản của 10 NHTM được chọn)
Hệ số CAR của các ngân hàng thương mại (NHTM) được chọn luôn tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước, với tỷ lệ trên 9% Một số ngân hàng như VCB, VIB và MSB duy trì tỷ lệ CAR cao, ví dụ VIB đạt 19,14% vào năm 2012 và MSB đạt 24,53% vào năm 2015 Trong khi đó, các NHTM lớn như Viettinbank và MB thường có tỷ lệ CAR thấp hơn, chỉ dao động quanh mức yêu cầu 9%.
Các NHTM nói chung cần vốn vì các lí do chủ yếu sau:
- Thứ nhất là để bù đắp những tổn thất không mong muốn.
- Để bảo đảm an toàn cho khách hàng là những người gửi tiền cũng như các chủ nợ
- Bảo đảm QĐ của NHNN nhằm bảo vệ khách hàng là những người gửi tiền tại NHTM cũng như ổn định toàn hệ thống các NHTM
Vốn được xem như một tấm đệm cho các ngân hàng thương mại (NHTM) trong trường hợp xảy ra tổn thất Ngân hàng có vốn lớn hơn có thể chấp nhận rủi ro cao hơn để gia tăng lợi nhuận Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là mức vốn nào là hợp lý và an toàn, vì vốn quá nhiều có thể làm giảm tỷ lệ đòn bẩy tài chính và khả năng tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông, trong khi vốn quá ít lại làm tăng rủi ro Các NHTM thường ưa thích tỷ lệ vốn thấp để tối đa hóa lợi ích cho cổ đông, trong khi các cơ quan quản lý lại ủng hộ tỷ lệ cao để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Từ ngày 01/01/2020, thông tư 41/2016/TT-NHNN sẽ có hiệu lực, thay đổi cách tính tỉ lệ CAR bằng cách bao gồm cả rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động, thay vì chỉ tính riêng rủi ro tín dụng như trước đây.
Việc giảm tỷ lệ CAR của Ngân hàng Nhà nước từ 9% xuống 8% là bước chuẩn bị cho việc áp dụng chuẩn Basel II, theo đó tỷ lệ CAR tối thiểu yêu cầu là 8% Nguyên nhân cho sự giảm này là do công thức tính tỷ lệ CAR theo chuẩn Basel II mới phản ánh đầy đủ hơn các loại rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt trong hoạt động, dẫn đến tỷ lệ CAR giảm khoảng 1% so với cách tính cũ.
Theo báo cáo năm 2016, Ủy ban GSTCQG công bố tỷ lệ CAR của hệ thống ngân hàng đạt khoảng 11,3% Tuy nhiên, khi áp dụng tiêu chuẩn Basel II, tỷ lệ này giảm xuống còn 8,6% Sự sụt giảm này chủ yếu do tài sản có quy đổi rủi ro tăng mạnh, dẫn đến tỷ lệ CAR theo Basel II giảm đáng kể so với các ngân hàng được chọn thí điểm.
Hệ số CAR của các tổ chức tín dụng vào năm 2019 đạt 11,1%, tuy nhiên, nếu áp dụng chuẩn mới, tỷ lệ này chỉ còn 7-7,5%, thấp hơn mức bình quân khu vực khoảng 10-12%.
Để tăng tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của NHNN và Basel 2, các ngân hàng thương mại thường ưu tiên tăng vốn tự có thay vì giảm tỉ lệ tài sản có rủi ro Trong các phương án tăng vốn tự có, việc sử dụng lợi nhuận để lại là giải pháp phổ biến nhất.
Hiện nay, các tổ chức quốc tế và nhà đầu tư chú trọng đến hệ số CAR (chiếm 20% trọng số đánh giá) khi phân tích các ngân hàng thương mại Tuy nhiên, việc tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là những ngân hàng có cổ phần nhà nước chi phối, đang gặp nhiều khó khăn.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) sử dụng nguồn vốn huy động để đầu tư vào các tài sản sinh lời, nhằm tạo ra lợi nhuận và duy trì khả năng thanh khoản Tài sản chủ yếu của ngân hàng thường là danh mục dư nợ tín dụng, đây là tài sản lớn nhất và cần được giám sát chặt chẽ bởi các nhà quản trị, nhà đầu tư và cơ quan quản lý.
Việc phân tích chất lượng tài sản của các NHTM được đánh giá qua:
- Chất lượng các khoản đầu tư
- Tốc độ tăng trưởng tài sản tài chính
Nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc phân tích chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) được lựa chọn, do danh mục tín dụng là tài sản lớn nhất của các NHTM.
Tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) được chọn thường duy trì dưới 3% tổng dư nợ, đáp ứng quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ như VPB năm 2018 với tỉ lệ nợ xấu 3.2%, Techcombank năm 2013 đạt 3.65%, ACB năm 2013 là 3%, và Sacombank với tỉ lệ nợ xấu lần lượt là 5.85% vào năm 2015, 5.35% vào năm 2016, và 4.59% vào năm 2017.
Năm 2018, nợ xấu của ngân hàng VPB tăng vượt mức quy định, chủ yếu do công ty FE Credit Tỉ lệ nợ xấu của công ty tín dụng tiêu dùng này gia tăng đáng kể, chủ yếu liên quan đến các khoản vay tiêu dùng tín chấp mà không có tài sản bảo đảm.
Nợ xấu tại Techcombank và ACB chủ yếu xuất phát từ tình hình kinh doanh khó khăn, dẫn đến việc khách hàng không có khả năng trả nợ.
Còn đối với ngân hàng Sacombank thì tỉ lệ nợ xấu cao chủ yếu do sáp nhập với ngân hàng Sourthern Bank vào tháng 10/2015.
Tính đến năm 2013, tỷ lệ nợ xấu của Southern Bank theo báo cáo của kiểm toán nhà nước đạt 55,13%, tuy nhiên, con số thực tế có thể còn cao hơn nhiều.
Để giúp các ngân hàng thương mại nhanh chóng loại bỏ nợ xấu khỏi báo cáo tài chính, có hai phương án hiệu quả: bán nợ cho Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) và thu hồi nợ, cũng như thanh lý tài sản đảm bảo.
ĐÁNH GIÁ THỰC NGHIỆM HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu và mô hình lựa chọn
2.2.1.1 Phạm vi đối tượng và thời gian
Mau nghiên cứu bao gồm 10 NHTM cổ phần được thí điểm áp dụng Basels 2 từ năm 2014 bao gồm:
- Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam( VCB)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam( BIDV)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam( Viettinbank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu(ACB)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội( MBB)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín( Sacombank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Kĩ Thương Việt Nam( Techcombank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng( VP bank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam( VIB)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam( Maritime bank)
Từ năm 2009 đến 2019, nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của các biến phụ thuộc đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, với biến đại diện là EPS.
Lý do chọn 10 ngân hàng này là vì đến tháng 09/2016, tổng vốn chủ sở hữu (VCSH) của chúng chiếm gần 44% tổng vốn tự có (VTC) của toàn ngành ngân hàng So với các ngân hàng khác, VTC của 10 ngân hàng này khá lớn, dao động từ 13.616 tỉ đồng (Maritimebank) đến 61.300 tỉ đồng (Viettinbank), trong khi VIB có VTC là 8.525 tỉ đồng.
Tương tự, VĐL của 10 NH này cũng chiếm 39% tổng VĐL toàn hệ thống ngân hàng với giá trị từ 4.845 tỷ đồng đến 1,6 tỷ đồng đến 37.234 tỷ đồng
Nguồn: BizLIVE Tính đến 30/06/2019, TTS của 10 ngân hàng được chọn chiếm 49% toàn hệ thống ngân hàng.
Tổng tài sản 10 ngân hàng(tỷ đồng)
Dữ liệu được phân chia thành hai loại: dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp Dữ liệu sơ cấp, hay còn gọi là dữ liệu gốc, là thông tin thu thập trực tiếp từ đối tượng nghiên cứu mà chưa qua xử lý, giúp đảm bảo tính cập nhật và độ chính xác cao Mặc dù mang lại cái nhìn sâu sắc về đối tượng nghiên cứu, việc thu thập dữ liệu sơ cấp thường tốn kém về thời gian và chi phí.
Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu được thu thập sẵn, đã công bố nên dễ thu thập, ít tốn thời gian, chi phí trong quá trình thu thập.
Nghiên cứu này dựa trên các số liệu có sẵn từ báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại được chọn, cùng với các dữ liệu tính toán từ báo cáo của công ty chứng khoán HSC và các trang web uy tín khác.
Mô hình hồi quy trong nghiên cứu này được phát triển dựa trên nghiên cứu của Abdul Ishaq, Abdul Karim, Adnan Zaheer và Sohail Ahmed tại Army Public College of Management & Sciences vào năm 2015 Nghiên cứu áp dụng mô hình CAMEL để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Pakistan trong giai đoạn 2007-2013, tập trung vào 10 ngân hàng thương mại.
Lãi thuần-cổ tức cổ phần ưu đãi
Số cổ phiếu bình quân lưu hành tại nước này được phân tích thông qua 9 biến độc lập trong mô hình CAMEL, bao gồm tỉ lệ tiền gửi trên vốn chủ sở hữu (TDEt), tỉ lệ nợ xấu (NPLGt), tỉ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu (NPLEt), tỉ lệ chi phí quản lý trên thu nhập lãi (AEIIt), tỉ lệ huy động trên cho vay (GATDt), tỉ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROAt), tỉ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROEt), tỉ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản, và tỉ lệ khả năng thanh toán ngay (CRt) Biến phụ thuộc đại diện cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng được chọn là thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPSt) Mô hình nghiên cứu này được phát triển dựa trên các nghiên cứu trước đó của Momeni và HakimehGharibi (2012), Kouser và Saba (2012), Reddy (2012), Ifeacho và Ngalawa (2014), Jha và Hui (2012), Thirunavukkarasu và Parthiban (2015), Matthew và Esther (2012), cùng với Nagamani và Williams (2015).
EPS it = β o + β ι TDE it + β2NPLG it + β 3 ROA it + β 4 ROE it + β 5 NPLE it + βAEII it + β 7 INT it + β s GATD it + β 9 CR it +u it
Mô hình sử dụng trong nghiên cứu
Mô hình mới sẽ thay thế một số biến trong mô hình gốc để tối ưu hóa hiệu quả phân tích Cụ thể, biến TDE tỉ lệ tiền gửi trên vốn chủ sở hữu sẽ được thay thế bằng tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR Đồng thời, tỉ lệ chi phí quản lý trên thu nhập lãi AEII sẽ được thay thế bằng tỉ lệ chi phí trên thu nhập CIR Tương tự, tỉ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản INT sẽ được thay thế bằng tỉ lệ thu nhập lãi thuần NIM, và tỉ lệ huy động trên cho vay sẽ được thay thế bằng tỉ lệ LDR Việc thay thế này là cần thiết do khó khăn trong việc tiếp cận các biến trong mô hình gốc, nên sẽ sử dụng các biến có sẵn trên các báo cáo tài chính mà các ngân hàng thương mại công bố.
Mô hình được áp dụng trong khóa luận sẽ được điều chỉnh các biến để phù hợp với điều kiện của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
EPS it = β 0 + β ι CAR it + β2NPLG it + β 3 ROA it + β 4 ROE it + β 5 NPLE it + β 6 CIR it + β 7 NIM it + β s LDR it + β 9 CR it +u it
Tại sao lựa chọn EPS làm biến đại diện cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Earnings per share (EPS) hay thu nhập trên mỗi cổ phiếu là chỉ tiêu tài chính quan trọng, phản ánh lợi nhuận mà các ngân hàng phân bổ cho mỗi cổ phần thường đang lưu hành trên thị trường EPS được tính toán theo công thức cụ thể, giúp nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Tên biến trong mô CAMELhình
Tên biến chi tiết Cách tính Dấu kì vọng
Biến phụ thuộc Hiệu quả hoạt động
Thu nhập trên mỗi cổ phiếu EPS— Lãi thuần-cổ tức cổ phần ưu đãi
Số cổ phiếu bình quân đang lưu hành
V n t cóố ự W? T ng tài s n có r i roổ ả ủ
EPS, hay lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu, được chia thành hai loại: EPS cơ bản và EPS pha loãng EPS pha loãng cung cấp độ chính xác cao hơn vì nó phản ánh các sự kiện tương lai, bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và quyền mua cổ phiếu Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu, bài viết này sẽ tập trung vào chỉ số EPS cơ bản.
Khi không bị ảnh hưởng bởi các biến cố như hợp nhất hay sáp nhập, lượng cổ phiếu bình quân lưu hành của ngân hàng có thể tăng đột biến, dẫn đến việc tỉ lệ EPS giảm sâu Tuy nhiên, một ngân hàng có tỉ lệ EPS cao sẽ phản ánh sức mạnh trong năng lực kinh doanh, lợi nhuận cao và khả năng quản lý chi phí hiệu quả.
Cách tính các biến trong mô hình,và giả thuyếtBảng 2.1 Cách tính các biến trong mô hình
Tỉ lệ chi phí trên thu nhập CIR = ,ι~ , ɪ ʊTTT-
+ quản lí Tỉ lệ cho vay trên huy động LDR j j ■ ɑ = c ft động β ɪɑ^ Huy + rτ ,, ,ʌ , , ʌ , ʌ 2 ,, , , lz , „ LNST
I i ]o "trill tι∏QtΛ "tτ*4θ"ri t/vorr "tòi CQn 1/11 /1 — + lỉ lệ uiuilllập llêllioilglàl Sảll ∩D∆ — —— -—'—
Lợi Tỉ lệ thu nhập trên VCSH = VCSH LNST + nhuận
Tỉ lệ thu nhập lãi thuần NIM
Thu nh p lãi thu nậ ầ
T ng tài s n sinh / ổ ả ờỉbình qu nẫ +
Tỉ lệ dự trữ thanh khoản =
Thanh Tài sản có tính thanh khoản cao khoản Tổng nợ phải trả -
Cơ sở pháp lí cho các biến tiêu biểu trong mô hình
Văn bản hợp nhất 26/VBHN-NHNN năm 2016 quy định các giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Một trong những nội dung quan trọng của thông tư này là quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn cho hệ thống tài chính.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là chỉ số quan trọng phản ánh khả năng đảm bảo vốn của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Chỉ số này được tính dựa trên giá trị vốn tự có và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, giúp đánh giá khả năng ổn định và an toàn tài chính của tổ chức.
Tỷ lệ an toàn vốn được tính cho cả tài sản nội bảng và tài sản ngoại bảng
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng bao gồm hai loại: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ: Từng tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ 9%.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ Vốn tự có riêng lẻ
TTS Có rủi ro riêng lẻ x 100%
Tổ chức tín dụng có công ty con phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất là 9%, bên cạnh việc đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ theo quy định.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất được xác định bằng công thức sau:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (%) Vốn tự có hợp nhất x100%
TTS có rủi ro hợp nhất
- Vốn tự có hợp nhất được xác định bằng