NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng (TTTTLNH) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ cấu và thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam Sự phát triển của TTTTLNH là yếu tố then chốt trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, với lãi suất trên thị trường này ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất cho vay và tiền gửi trong dân cư Những biến động về lãi suất có thể tác động đến hành vi vay vốn của doanh nghiệp và cá nhân, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng Hơn nữa, TTTTLNH còn giúp các tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn và khả năng thanh toán lẫn nhau Chính vì những ý nghĩa quan trọng này, thị trường liên ngân hàng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau.
Nghiên cứu của Đoàn Phương Thảo (2006) chỉ ra rằng, mặc dù thị trường TTTTLNH đã đạt được một số kết quả nhất định từ khi ra đời đến năm 2006, nhưng vẫn còn nhiều bất cập tồn tại Quy mô giao dịch trên thị trường còn hạn chế và tính phổ biến chưa cao, với phần lớn các giao dịch liên ngân hàng tập trung tại hai trung tâm tài chính lớn.
Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh đang chứng kiến sự phát triển hạn chế của Thị Trường Tài Chính Tiền Tệ Liên Ngân Hàng (TTTTLNH) Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhu cầu phát triển TTTTLNH trở nên cấp thiết, nhưng thị trường này ở Việt Nam vẫn chưa đủ mạnh để hỗ trợ các Tổ chức tín dụng (TCTD) Từ năm 2007 đến 2013, TTTTLNH đã trải qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế nhưng đã có những bước phục hồi, với quy mô giao dịch và công nghệ thanh toán được cải thiện Tuy nhiên, sự thiếu hụt yếu tố môi giới, quy tắc ứng xử chưa được ban hành và các chính sách điều chỉnh lãi suất, tỷ giá vẫn là những rào cản lớn Để khắc phục các hạn chế này, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường, đặc biệt là áp dụng Quy tắc ứng xử tham khảo từ các quốc gia như Hồng Kông và Mỹ.
- Các chuẩn mực đạo đức: nguyên tắc bảo mật; tin đồn, thông tin sai lệch và các hành vi lừa đảo, quà tặng hoặc hình thức khác.
Các nguyên tắc giao dịch bao gồm việc đảm bảo báo giá rõ ràng và thận trọng, thực hiện giao dịch đúng quy định, xác định ngày giá trị và giờ giao dịch chính xác Ngoài ra, việc đặt và nhận lệnh giao dịch cần được thực hiện một cách minh bạch, và ghi âm điện thoại khi giao dịch là cần thiết để đảm bảo tính chính xác Cuối cùng, giao dịch sau giờ làm việc hoặc giao dịch ngoài trụ sở cũng cần tuân thủ các quy tắc đã đề ra.
Các nguyên tắc quản lý rủi ro bao gồm việc thiết lập chính sách quản lý rủi ro bằng văn bản, xác định phòng ban chịu trách nhiệm xây dựng báo cáo và phân chia chức năng giữa các bộ phận giao dịch, back office, thanh toán và quản lý rủi ro Ngoài ra, cần áp dụng các phương pháp xác định mức độ và giảm thiểu rủi ro, theo dõi và báo cáo rủi ro thường xuyên, và có bộ phận kiểm toán độc lập để đảm bảo tính minh bạch Cuối cùng, việc xây dựng kế hoạch kinh doanh dự phòng cho các tình huống khẩn cấp là rất cần thiết để ứng phó hiệu quả.
Hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo và thông tin thị trường là nhiệm vụ cấp thiết cần được ưu tiên thực hiện Ở các nước có thị trường tài chính phát triển, việc chú trọng vào hệ thống thông tin thị trường rất quan trọng, vì thông tin minh bạch và đầy đủ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của thị trường Tại Việt Nam, cần tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành, đặc biệt là Tổng cục Thống kê, nhằm phục vụ cho phân tích và dự báo tiền tệ, lạm phát Đầu tư vào trang thiết bị và hệ thống phần mềm để thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu là cần thiết Những yếu tố này có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của thị trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế, nhưng vẫn chưa được quan tâm đúng mức Hơn nữa, cần khuyến khích sự hình thành và phát triển của các nhà môi giới tiền tệ và các nhà giao dịch sơ cấp trong thị trường tài chính.
Nhiều nghiên cứu thị trường đã được thực hiện từ các góc độ khác nhau, trong đó cung cấp một hệ thống chỉ tiêu đánh giá cả định lượng và định tính, nhằm phản ánh sức khỏe của thị trường liên ngân hàng (Đỗ Văn Độ, 2013) Các chỉ tiêu đánh giá này đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và hiểu rõ hơn về tình hình thị trường.
Chỉ tiêu phản ánh quy mô và cơ cấu giao dịch trong hệ thống ngân hàng bao gồm hệ số tăng trưởng quy mô bình quân, tỷ trọng doanh số giao dịch liên ngân hàng so với tổng quy mô tín dụng của nền kinh tế, và tỷ trọng doanh số tiền gửi trên doanh số cho vay liên ngân hàng Những chỉ tiêu này giúp đánh giá hiệu quả hoạt động và sự phát triển của thị trường tài chính.
Chỉ tiêu phản ánh phương thức giao dịch thể hiện mức độ đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD) và sự phù hợp của các cơ chế tác động trên thị trường.
Chỉ tiêu phản ánh hàng hóa và giá cả thị trường bao gồm sự đa dạng của hàng hóa theo thời gian, độ lệch về giá cả giao dịch và mức độ minh bạch của thị trường Những yếu tố này không chỉ giúp đánh giá tình hình thị trường mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự biến động của giá cả và sự phong phú của các sản phẩm hiện có.
Chỉ tiêu liên quan đến ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm mức độ tham gia của các NHTM, các chỉ tiêu phản ánh sự lành mạnh về tài chính, cũng như năng lực quản lý thanh khoản và ngân quỹ Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Chỉ tiêu phản ánh cơ sở vật chất của thị trường bao gồm mức độ trang thiết bị và phạm vi bảo phủ thị trường, mức đầu tư cho hệ thống giám sát, cùng với độ nhạy của thời gian Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển và hiệu quả hoạt động của thị trường.
Nghiên cứu sự phát triển của thị trường liên ngân hàng ở các nước phát triển mang lại nhiều bài học quý giá cho Việt Nam Qua việc phân tích thực trạng và quá trình phát triển của thị trường tài chính liên ngân hàng, Việt Nam có thể nhận diện những vướng mắc hiện tại và tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng thị trường Một số bài học quan trọng bao gồm: tăng cường minh bạch thông tin thị trường, thiết lập hệ thống pháp luật và quy tắc ứng xử hợp lý, thực hiện nghiêm túc các quy tắc này bởi các chủ thể tham gia; nâng cao công tác giám sát và kỷ luật; đảm bảo an toàn trong giao dịch và thanh toán thông qua hệ thống cơ sở vật chất hiện đại và mở rộng; và không ngừng cải thiện năng lực của các chủ thể trong thị trường.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, mặc dù đã có nhiều chuyển biến lớn và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vẫn chưa phát triển mạnh mẽ Hiện tại, thị trường này còn hạn chế về mặt nghiệp vụ, chủ yếu tập trung vào giao dịch giao ngay với số lượng giao dịch thấp, trong khi các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới Các nghiên cứu và chuyên gia đồng thuận về quan điểm giá cả giao dịch, nhấn mạnh sự cần thiết phải cải thiện và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực này.
Tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng hiện chưa phản ánh đầy đủ thực trạng quan hệ cung-cầu ngoại tệ tại Việt Nam.
TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) gia tăng cả về số lượng và chất lượng, với mỗi TCTD sở hữu những thế mạnh riêng trong các lĩnh vực kinh doanh Trong quá trình hoạt động, một số TCTD gặp phải tình trạng cho vay quá nhiều hoặc nhu cầu tài chính cao, dẫn đến thiếu hụt dự trữ, trong khi những TCTD khác lại thừa vốn Việc huy động vốn từ tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá không đủ đáp ứng nhu cầu vốn của ngân hàng Để khắc phục tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời, các ngân hàng có thể vay vốn từ các TCTD khác, giúp duy trì hoạt động tín dụng và thanh toán kịp thời Kênh huy động này không chỉ hỗ trợ thanh khoản giữa các TCTD mà còn giảm áp lực tăng lãi suất huy động vốn Từ đó, một thị trường đặc biệt - thị trường liên ngân hàng đã hình thành.
Thị trường tiền tệ là một phần của thị trường tài chính, chuyên giao dịch các công cụ tài chính ngắn hạn với thời gian đáo hạn thường dưới một năm Tại đây, các ngân hàng và tổ chức tín dụng thực hiện các giao dịch vay mượn nhằm bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời trong ngân quỹ của mình.
1.2.2: Chủ thể tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng a) Tổ chức tín dụng:
Các tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, có quyền thực hiện các hoạt động ngân hàng như ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân Trong đó, ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng nhất trong thị trường tiền tệ liên ngân hàng TCTD cung cấp vốn khi ngân quỹ dư thừa và vay mượn khi ngân quỹ thiếu hụt, đồng thời tạo lập thị trường thông qua việc hình thành cung-cầu và giá cả hàng hóa, nhằm quản lý dự trữ một cách hiệu quả.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò quan trọng trong thị trường tài chính, với mức độ tham gia khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng luôn chịu sự giám sát của NHTW NHTW thiết lập chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền và duy trì một thị trường hoạt động hiệu quả NHTW cũng điều tiết thị trường liên ngân hàng để đảm bảo các điều kiện phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia Qua việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, NHTW tác động đến cung-cầu ngân quỹ của các tổ chức tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của các chủ thể trên thị trường.
Trung gian giao dịch là những cá nhân hoặc tổ chức tham gia mua bán các khoản ngân quỹ, với một số chuyên môn hóa vào các công cụ tài chính nhất định, trong khi những người khác lại kinh doanh đa dạng hơn Lợi nhuận của họ chủ yếu đến từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán, cùng với tiền hoa hồng từ môi giới Đối với những giao dịch lớn, tiền hoa hồng có thể tăng theo tỷ lệ thuận với khối lượng giao dịch, tuy nhiên, nhìn chung, nó chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thu nhập mà họ kiếm được.
Người môi giới tiền tệ kết nối người mua và người bán để nhận hoa hồng, thay vì sử dụng vốn của chính họ Chức năng chính của họ là tạo ra thị trường cho các nhà đầu tư Khối lượng giao dịch hàng ngày của người môi giới thường không đồng nhất, vì số liệu thống kê về hoạt động mua bán của họ không phản ánh phần lớn các khu vực thị trường.
1.2.3: Phương thức giao dịch a) Phương thức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đối với cả nội tệ và ngoại tệ:
Gửi và nhận tiền gửi giữa các TCTD:
Các tổ chức tín dụng (TCTD) có khả năng gửi hoặc nhận tiền gửi từ các TCTD khác, trong đó một TCTD có thể thay mặt cho TCTD khác thực hiện giao dịch này Khoản tiền gửi này thường có kỳ hạn ngắn.
12 tháng với mức lãi suất tùy thuộc vào mối quan hệ cung-cầu vốn của các TCTD.
Có hai loại tiền gửi chính: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền gửi với thời hạn và lãi suất cố định, thường áp dụng cho các khoản tiền tối thiểu và không quá 12 tháng Trong khi đó, tiền gửi không kỳ hạn không có thời hạn cố định, cho phép khách hàng có thể gửi thêm hoặc rút vốn bất cứ lúc nào trong suốt thời gian gửi.
Vay và đi vay giữa các TCTD:
Huy động vốn là hoạt động cơ bản của các tổ chức tín dụng (TCTD), có thể thực hiện qua việc nhận tiền gửi, vay mượn hoặc phát hành giấy tờ có giá Trong đó, hình thức vay mượn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì tính ổn định của nguồn vốn lưu động Ngoài việc huy động vốn từ cá nhân và tổ chức, pháp luật cho phép TCTD vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các TCTD khác, tức là vay trên thị trường liên ngân hàng Hoạt động vay vốn này được thực hiện thông qua nhiều loại hình giao dịch khác nhau, tùy thuộc vào các bên tham gia và đối tượng bảo đảm.
Các TCTD không chỉ thực hiện cho vay và nhận tiền gửi liên ngân hàng mà còn tham gia vào việc mua-bán GTCG Có hai hình thức mua-bán GTCG: mua-bán hẳn và mua-bán kỳ hạn, trong đó hợp đồng Repo và Reverse Repo được sử dụng phổ biến Hợp đồng Repo cho phép các thành viên bán GTCG để nhận vốn ngay lập tức và cam kết mua lại sau một thời gian với giá cao hơn Trong khi đó, hợp đồng Reverse Repo là khi người mua GTCG sau đó bán lại Các NHTW thường gọi chung các giao dịch này là giao dịch Repo, giúp hỗ trợ thanh khoản cho các thành viên trên thị trường tiền tệ.
Thị trường ngoại hối (Forex) bao gồm nhiều giao dịch kinh doanh cơ bản, trong đó có giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch tương lai, hợp đồng quyền chọn và giao dịch hoán đổi, tất cả đều được thực hiện đầy đủ trong hệ thống tài chính ngân hàng.
Thị trường giao ngay bao gồm cả thị trường bán buôn (liên ngân hàng) và thị trường bán lẻ (giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng phi ngân hàng), nhưng chủ yếu được coi là thị trường liên ngân hàng Giao dịch ngoại hối giao ngay là việc mua-bán các đồng tiền khác nhau trên tài khoản ngân hàng với thanh toán diễn ra ngay sau khi thỏa thuận, trong đó ngày giao ngay là ngày làm việc thứ hai sau ngày ký kết Nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối, với tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ cung-cầu trong thị trường liên ngân hàng Tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền sẽ được sử dụng để tính toán tỷ giá cho các nghiệp vụ khác.
Giao dịch kỳ hạn là thỏa thuận giữa người mua và người bán về việc trao đổi một lượng ngoại tệ nhất định tại một thời điểm trong tương lai với tỷ giá đã được thỏa thuận Đặc điểm nổi bật của giao dịch này là sự đồng thuận giữa hai bên về khối lượng, loại ngoại tệ, tỷ giá và thời gian thực hiện Giao dịch diễn ra trên thị trường phi tập trung, cho phép bất kỳ chủ thể nào tham gia và các bên giữ thỏa thuận cho đến khi đáo hạn Tỷ giá kỳ hạn được xác định dựa trên tỷ giá giao ngay và sẽ được sử dụng làm cơ sở cho thanh toán trong tương lai.
Giao dịch tương lai tương tự như giao dịch kỳ hạn, là thỏa thuận giữa bên mua và bên bán về khối lượng ngoại hối nhất định tại một thời điểm trong tương lai với tỷ giá đã được xác định Tuy nhiên, giao dịch tương lai được chuẩn hóa và thực hiện qua sở giao dịch, cho phép các bên có thể chấm dứt hợp đồng vào bất kỳ thời điểm nào thông qua sở giao dịch.
Hợp đồng quyền chọn là công cụ tài chính cho phép người mua có quyền, không phải nghĩa vụ, mua hoặc bán một loại tiền tệ với một loại tiền tệ khác vào một thời điểm xác định trong tương lai với tỷ giá đã thỏa thuận Có hai loại hợp đồng quyền chọn: quyền chọn mua, cho phép người mua quyền mua một đồng tiền nhất định với phí trả cho bên bán, và quyền chọn bán, cho phép người bán quyền bán một đồng tiền nhất định và thu phí khi hợp đồng được thực hiện Hợp đồng quyền chọn có thể được giao dịch trên thị trường phi tập trung hoặc tại sở giao dịch.
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng Mỹ
Ngành ngân hàng Mỹ có bề dày lịch sử từ cuối thế kỷ 18 và đã vượt qua nhiều khủng hoảng lớn, hiện nay phát triển mạnh mẽ về quy mô và chất lượng Các ngân hàng thương mại Mỹ sở hữu kinh nghiệm phong phú trong việc sử dụng linh hoạt các công cụ kinh doanh ngoại hối, dẫn đầu trong việc áp dụng các công cụ tài chính hiện đại như giao dịch quyền chọn và tương lai Sự linh hoạt này không chỉ giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại hối mà còn mang lại lợi ích cho khách hàng Đối tượng khách hàng của các ngân hàng Mỹ trên thị trường ngoại hối rất đa dạng, từ ngoại tệ truyền thống đến các công cụ tài chính như trái phiếu và cổ phiếu dành cho nhà đầu tư nước ngoài Sau khủng hoảng, các ngân hàng Mỹ đã hoàn toàn phục hồi và đang hoạt động trong trạng thái tốt.
Ký thác Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) năm 2018 nhận định rằng: “Ngành ngân hàng
Năm 2018, ngành ngân hàng Mỹ ghi nhận lợi nhuận kỷ lục với tỷ suất lợi nhuận ròng và cho vay số dư đều tăng, đồng thời hiệu suất cho vay cũng được cải thiện Không có ngân hàng nào thất bại trong năm này, và số lượng ngân hàng trong danh sách có vấn đề của FDIC đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ quý 3 năm 2007 Mặc dù cơ chế giám sát ngân hàng tại Mỹ khá chặt chẽ, điều này đã giúp các ngân hàng tránh được nhiều khủng hoảng tiềm ẩn Kể từ khi đạo luật Dodd-Frank được ký thành luật vào tháng 7/2010, lợi nhuận của ngành ngân hàng đã tăng 135% tính đến giữa năm 2018.
Một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng Mỹ là sự hỗ trợ từ các tổ chức thông tin tín dụng như Equifax, Experian và TransUnion.
Hệ thống thanh toán ở Mỹ rất đa dạng và tiên tiến, với hầu hết các tổ chức tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại, áp dụng hệ thống thanh toán tập trung Luật pháp Mỹ khá chặt chẽ, đầy đủ và ổn định, với nhiều bộ luật về tài chính-tiền tệ, giúp hệ thị trường hoạt động liên tục và hiệu quả Cơ chế giám sát thực thi hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định này.
Mỹ áp dụng các tiêu chí giám sát và đo lường hoạt động của thị trường một cách chặt chẽ và thông minh, đồng thời theo dõi và giám sát các hoạt động này một cách triệt để.
Biểu đồ 1.1: Khối lượng giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ Mỹ 9 từ năm 2010-2018: Đơn vị (triệu USD)
Theo dữ liệu từ FED, khối lượng giao dịch trong các năm có sự biến động không đều nhưng nhìn chung có xu hướng tăng chậm Nghiệp vụ giao ngay chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt gần 13.127 tỷ USD vào năm 2014, tương đương khoảng 48% tổng khối lượng giao dịch Nghiệp vụ hoán đổi và kỳ hạn cũng phát triển, lần lượt chiếm khoảng 28% và 19% trong tổng doanh số giao dịch Mặc dù nghiệp vụ quyền chọn có khối lượng giao dịch và tỷ trọng thấp hơn, chỉ khoảng 6%, nhưng vẫn đóng góp một con số không nhỏ trong tổng thể.
TTTTLNH ở Mỹ đã thay đổi đáng kể kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2007-
Từ năm 2008, thị trường liên ngân hàng đã chứng kiến sự giảm quy mô đáng kể, với khối lượng giao dịch giảm từ khoảng 17,6 nghìn tỷ USD vào năm 2009 xuống chỉ còn 3,8 nghìn tỷ USD vào năm 2018 Sự suy giảm này có thể được lý giải một phần do các biện pháp chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang nhằm kích thích nền kinh tế và các yêu cầu mới được đặt ra.
Basel III đã được áp đặt cho các ngân hàng Những lý do làm cơ sở cho sự sụt giảm đáng kể về quy mô của thị trường liên ngân hàng Mỹ.
1.3.2: Thị trường liên ngân hàng Anh :
Thị trường liên ngân hàng Anh (TTTTLNH) có tính quốc tế cao, với sự nổi bật của thị trường Euro Dollar giữa các ngân hàng, đồng thời phát triển đồng bộ với các thị trường khác, đặc biệt là thị trường ngoại tệ Các thành viên tham gia bao gồm Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại và công ty môi giới Một đặc điểm nổi bật của thị trường này là không có sự phân biệt giữa quản lý ngoại hối, thị trường nội tệ và thị trường tiền tệ quốc tế, tất cả được gộp chung.
Ngân hàng Trung ương Anh, được thành lập vào năm 1694, đã phát triển từ một ngân hàng tư nhân cho chính phủ vay tiền thành Ngân hàng Trung ương chính thức của Vương quốc Anh vào năm 1946 Trong bối cảnh kinh tế khó khăn và nợ quốc gia gia tăng, NHTW Anh thực hiện các chức năng quan trọng như duy trì ổn định giá cả và hỗ trợ chính sách kinh tế của Chính phủ NHTW Anh còn quản lý tài khoản quỹ chung của chính phủ, thị trường ngoại hối và dự trữ vàng Ngoài ra, ngân hàng cũng cung cấp dịch vụ ngân hàng thương mại và ngân hàng bán lẻ cho một số cá nhân và tổ chức, đồng thời giữ vai trò là ngân hàng của các ngân hàng và độc quyền phát hành tiền tệ.
NHTM Anh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, mở rộng tín dụng Các ngân hàng trung gian ở Anh tham gia thị trường nhằm duy trì khả năng thanh toán và huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với chi phí thấp nhất để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, từ đó đạt được mục tiêu lợi nhuận Thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nói chung chủ yếu bị chi phối bởi các ngân hàng lớn như HSBC, Royal Bank of Scotland Group, Barclays, Lloyds Banking Group và Standard Chartered.
NHTM có nhu cầu vay hay cho vay sẽ sử dụng thông tin từ các hãng thông tin nổi tiếng để theo dõi thị trường liên ngân hàng Mặc dù không có luật riêng cho thị trường này, các ngân hàng vẫn tuân thủ luật ngân hàng và các dịch vụ tài chính của Anh Giao dịch chủ yếu diễn ra dưới hình thức chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, hợp đồng repo và vay tín chấp Thị trường liên ngân hàng Anh hoạt động theo cơ chế điều hòa vốn, trong đó quan hệ cung-cầu quyết định hoàn toàn việc vận động của vốn, và NHTW cùng chính phủ chỉ can thiệp trong những trường hợp đặc biệt.
Các nhà môi giới đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường tiền tệ Anh, hoạt động như cầu nối giữa người mua và người bán, giúp quá trình giao dịch diễn ra nhanh chóng Doanh số giao dịch của họ, theo Ngân hàng Anh, lên đến hàng trăm tỷ bảng Anh Hiện nay, thị trường tiền tệ London có 28 nhà môi giới chính thức, bao gồm cả các đơn vị trực thuộc.
London là một trong những trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu, với khoảng 400 ngân hàng hoạt động tại Anh Trong đó, 70% giao dịch được thực hiện giữa 15 ngân hàng lớn, bao gồm Ngân hàng Anh, thông qua hệ thống CHAPS Đáng chú ý, có 2 ngân hàng thuộc sở hữu nước ngoài trong số này Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, thị trường tài chính và thị trường liên ngân hàng đã chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về doanh số giao dịch.
Lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng London, hay còn gọi là LIBOR (London Inter-bank Overnight Rate), là lãi suất trung bình dựa trên các mức lãi suất mà các ngân hàng hàng đầu tại London chào cho các khoản vay bằng đô-la Mỹ LIBOR không chỉ là một tiêu chuẩn tham chiếu quan trọng trong thị trường tài chính toàn cầu mà còn được niêm yết bằng năm loại tiền tệ: USD, EUR, GBP, JPY và CHF Tổng giá trị các hợp đồng sử dụng LIBOR làm tham chiếu lên tới 350 nghìn tỷ USD, gấp ba lần so với thị trường cổ phiếu toàn cầu, vì vậy, LIBOR được theo dõi chặt chẽ để đánh giá sức khỏe tài chính của hệ thống ngân hàng.
1.3.3: Một số bài học kinh nghiệm cho thị trường liên ngân hàng Việt Nam
Thứ nhất, thành lập công ty môi giới tiền tệ, chuyên môn hóa chức năng môi giới tiền tệ trên thị trường.
Thứ hai, sử dụng hệ thống thanh toán hiện đại, tạo điều kiện để các thành viên chủ động và linh hoạt trong trao đổi vốn.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG VIỆT NAM
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG
2.1.1: Sự ra đời của thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Thị trường tiền tệ Việt Nam được hình thành vào những năm 90 của thế kỷ XX, với thị trường nội tệ liên ngân hàng hoạt động từ năm 1993 và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ năm 1994, theo Chỉ thị 07/CT-NH1 và Quyết định số 132/QĐ-NH14 Sự ra đời của các quy định này đã đánh dấu những thay đổi quan trọng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cấp các sản phẩm giao dịch và tăng số lượng giao dịch cũng như thành viên tham gia Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định nhằm quy định tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, bao gồm Quyết định số 114/QĐ-NH14 và Quyết định số 203/QĐ-NH, giúp thị trường hoạt động hiệu quả ngay từ những ngày đầu.
Trong những ngày đầu, thị trường liên ngân hàng hoạt động tập trung qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN), với các ngân hàng thương mại Nhà nước chi phối hoạt động huy động và cho vay nhờ uy tín và tài chính mạnh Đến năm 1997, các ngân hàng bắt đầu thực hiện giao dịch trực tiếp mà không cần qua NHNN, với các hình thức giao dịch ngoại tệ như giao ngay, giao kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi Các giao dịch được thực hiện qua điện thoại, fax và mạng Swift, và thanh toán được thực hiện thông qua tài khoản tại NHNN khi các bên đồng ý.
Thị trường liên ngân hàng Việt Nam gặp nhiều hạn chế, bao gồm số lượng thành viên và khối lượng giao dịch thấp Các ngân hàng chưa khai thác hết nguồn vốn dư thừa, dẫn đến việc chức năng điều hòa vốn không được phát huy hiệu quả do sự phụ thuộc vào Ngân hàng Nhà nước Thêm vào đó, thị trường thiếu công ty môi giới, thông tin thị trường thường chậm trễ và phương pháp xác định lãi suất chưa khoa học Công nghệ thanh toán và phương tiện giao dịch cũng chủ yếu là thủ công, tạo ra nhiều bất cập cho thị trường.
Biểu đồ 2.1: Mô hình thị trường tiền tiền tệ Việt Nam:
2.1.2: Lịch sử các tổ chức tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tiền thân là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, được thành lập theo Sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh chiến tranh chống thực dân đang diễn ra Giai đoạn này đòi hỏi sự phát triển mạnh mẽ của công tác tài chính, kinh tế, với Ngân hàng Quốc gia tập trung vào quản lý và điều hòa lưu thông tiền tệ theo nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa Ngân hàng cũng chú trọng xây dựng chế độ tín dụng phục vụ phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể, cải tiến thanh toán không dùng tiền mặt, và thiết lập vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế Mặc dù có những định hướng đúng đắn, việc thực hiện các hoạt động này gặp nhiều khó khăn do sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước vào đời sống xã hội và kinh tế.
Sau năm 1975, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến hành thanh lý hệ thống ngân hàng cũ, thu hồi tiền cũ và phát hành đồng tiền chung mới Tuy nhiên, chỉ đến năm 1986, khi đất nước thực hiện đổi mới toàn diện và chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế mới thực sự phát triển Sự ra đời của các Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và chuyển từ hệ thống ngân hàng 1 cấp sang 2 cấp theo Nghị định số 53/HĐBT đã tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường liên ngân hàng, đánh dấu những thay đổi quan trọng trong phát triển kinh tế và hệ thống ngân hàng.
Chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã trải qua nhiều điều chỉnh và bổ sung theo từng giai đoạn phát triển của đất nước, được quy định trong các văn bản pháp lý như Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003), Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và các nghị định của Chính phủ liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam cũng được xây dựng và phát triển phù hợp với các quy định này.
Hoạt động của hệ thống các TCTD Việt Nam trước những năm 80 của thế kỷ
XX không có nhiều đặc sắc, chưa hoạt động được theo nguyên tắc thị trường Sau
Năm 1985 đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong nhận diện chức năng và vai trò của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trên thị trường, đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động của các Ngân hàng Thương mại (NHTM) Trong giai đoạn này, nhiều NHTM mới được thành lập, tiêu biểu là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) vào năm 1988.
Cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank) được thành lập vào năm 1988, trong khi NHTM Cổ phần Công thương Việt Nam (Techcombank) ra đời năm 1989 Xuất phát từ giai đoạn kinh tế khó khăn, đến nay, các ngân hàng này đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, khẳng định vị thế vững chắc trên thị trường và đóng góp quan trọng cho nền kinh tế.
2.2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG VIỆT NAM TỪ NĂM 2010-NAY
2.2.1: Nguồn vốn liên ngân hàng trong tổng nguồn vốn của các TCTD
Biều đồ 2.2: Tỷ trọng nguồn vốn liên ngân hàng trong nguồn vốn của các
(Nguồn: Báo cáo tổng quan TTTC của Uỷ bán giám sát tài chính Quốc gia)
Tỷ trọng vốn vay liên ngân hàng trong tổng nguồn vốn vay của các TCTD đang giảm dần, với nhiều TCTD phụ thuộc vào thị trường này, dẫn đến lãi suất tăng cao Theo số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tỷ lệ huy động liên ngân hàng tăng từ 16,1% năm 2010 lên 21,3% năm 2011 Khi hệ thống tín dụng thiếu vốn, các TCTD buộc phải vay với lãi suất cao, trong khi thanh khoản thị trường bị ngưng trệ vào quý 4/2011 Các NHTM yếu kém gặp khó khăn trong việc vay mượn do không thể trả nợ cũ và phải có tài sản thế chấp để vay Nợ xấu gia tăng và việc huy động vốn từ thị trường dân cư bị hạn chế do quy định của NHNN đã làm giảm khả năng thanh khoản của các ngân hàng này Đến năm 2012, thị trường liên ngân hàng có nhiều thay đổi, với hoạt động giảm đáng kể nhờ vào tiền gửi khách hàng tăng lên và sự ra đời của Thông tư 21/2012/TT-NHNN, quy định về các khoản nợ quá hạn Các khoản vay liên ngân hàng trở nên kém ổn định hơn so với tiền gửi, khiến ngân hàng trở nên cẩn trọng hơn trong việc cho vay, dẫn đến giảm hoạt động trên thị trường này.
2.2.2: Thị trường tiền tệ nội tệ liên ngân hàng a) Doanh số giao dịch:
Thị trường nội tệ liên ngân hàng từ năm 2010 đến nay đã có sự phát triển mạnh mẽ, với số lượng giao dịch tăng trưởng đáng kể, góp phần đáp ứng nhu cầu và nâng cao hiệu quả trong việc luân chuyển vốn giữa các chủ thể Lãi suất giao dịch cũng đã được điều chỉnh phù hợp với từng kỳ hạn.
Biểu đồ 2.3 thể hiện tổng khối lượng cho vay và tiền gửi liên ngân hàng hàng năm, cùng với khối lượng giao dịch liên ngân hàng trung bình mỗi ngày từ năm 2010 đến tháng 4 năm 2019, được đo bằng đơn vị nghìn tỷ đồng.
^MTổng khối lượng giao dịch Khối lượng giao dịch trung bình ngành
Theo báo cáo của NHNN, tổng khối lượng giao dịch nội tệ liên ngân hàng có xu hướng tăng trong những năm qua Cụ thể, năm 2011, tổng khối lượng giao dịch tăng khoảng 1860 nghìn tỷ đồng (tương đương 36,9%) so với năm 2010 Tuy nhiên, vào năm 2012 và 2013, khối lượng giao dịch giảm, với năm 2013 giảm khoảng 2300 nghìn tỷ đồng (khoảng 33,4%) so với năm 2011 Nguyên nhân chính cho sự giảm sút này là do thanh khoản của hệ thống các TCTD khá dồi dào, cùng với việc quản lý hoạt động ngân hàng nhằm giải quyết tình trạng nợ xấu cao vào thời điểm đó Từ năm 2014, xu hướng giao dịch bắt đầu có sự thay đổi.
Năm 2018, khối lượng giao dịch trên thị trường tài chính tăng mạnh, đạt 7863 và 8772 nghìn tỷ đồng trong các năm 2017 và 2018 Sự gia tăng này được lý giải bởi những điều chỉnh trong chính sách quản lý của các ngân hàng thương mại, phù hợp với xu hướng phục hồi của nền kinh tế và thương mại toàn cầu Trong đó, khối lượng giao dịch qua đêm và 1 tuần chiếm tỷ trọng lớn, với kỳ hạn qua đêm khoảng 50% và kỳ hạn 1 tuần khoảng 27% Tỷ trọng giao dịch nội tệ trên thị trường tài chính tiền tệ ngân hàng (TTTTLNH) duy trì ở mức 60-73% trong tổng khối lượng giao dịch hàng năm.
Năm 2012, NHNN đã ban hành thông tư số 21/2012/TT-NHNN, quy định về hoạt động cho vay, đi vay và giao dịch giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thay thế Quy chế vay vốn cũ Thông tư này thiết lập các quy định chặt chẽ về điều kiện vay vốn, nguyên tắc cho vay, thời hạn giao dịch, lãi suất và hình thức thanh toán, đồng thời yêu cầu dự phòng rủi ro Những quy định này đã tác động tích cực đến thị trường liên ngân hàng, giúp giảm lãi suất, nâng cao tính quy củ, an toàn và lành mạnh của thị trường, đồng thời giảm thiểu nợ xấu và rủi ro.
(Nguồn: Tổng hợp Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam từ năm 2010-2017)
Từ năm 2012 đến 2017, doanh số giao dịch có kỳ hạn GTCD liên ngân hàng đã tăng trưởng mạnh mẽ, từ 72,15 nghìn tỷ đồng lên 1047 tỷ đồng, gấp gần 15 lần so với năm 2012 Tuy nhiên, năm 2013 ghi nhận sự giảm sút, với doanh số chỉ đạt 28,041 tỷ đồng, giảm 55% so với năm trước, do thanh khoản dồi dào và các TCTD chú trọng vào quản trị rủi ro Kể từ năm 2014, tốc độ tăng trưởng trung bình duy trì trên 50% Mặc dù doanh số giao dịch chỉ chiếm khoảng 1% tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường, nhưng hoạt động này đã góp phần quan trọng vào sự đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả của các TCTD trên thị trường.
Biểu đồ 2.5: Lãi suất bình quân liên ngân hàng bằng VNĐ năm 2010-2012:
(Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam năm 2010)
Các biểu đồ trên cho thấy lãi suất trung bình liên ngân hàng bằng VNĐ trong
3 năm 2010, 2011, 2012 giao động khá mạnh.
Năm 2010, các mức lãi suất ở các kỳ hạn có xu hướng biến động giống nhau.
Trong hai tháng đầu năm, trong thời gian Tết cổ truyền, lãi suất dao động từ 9-11%/năm Tuy nhiên, sau đó, xu hướng giảm lãi suất đã diễn ra và tiếp tục duy trì trong quý 2.
Vào ba tháng cuối năm, lãi suất có xu hướng tăng trở lại, với mức lãi suất vào cuối tháng 12 dao động từ 11-13%/năm Nhìn chung, lãi suất liên ngân hàng trong năm 2010 vẫn duy trì ở mức cao do những khó khăn và thách thức chung của nền kinh tế.
Năm 2011, lãi suất liên ngân hàng dao động từ 10,9% đến 14,1%/năm, với một số thời điểm ghi nhận mức cao bất thường lên tới 37,5%/năm, vượt xa lãi suất huy động trên thị trường dân cư Nguyên nhân được chỉ ra là do rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tài chính ngân hàng và việc không thực hiện nghiêm Nghị quyết số 11 của Chính phủ về hạn chế đầu tư vào bất động sản và chứng khoán Trong bối cảnh lạm phát cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, dẫn đến tình trạng khan hiếm tiền và cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng Đến năm 2012, lãi suất cho vay liên ngân hàng giảm mạnh nhờ sự định hướng của NHNN, với mức lãi suất giảm từ khoảng 14%/năm đầu năm xuống còn 4-6%/năm vào tháng 12, mặc dù có sự tăng nhẹ vào hai tháng cuối năm do yếu tố mùa vụ.
Biểu đồ 2.6: Lãi suất bình quân liên ngân hàng bằng VNĐ năm 2013-2017. Đơn vị (%/năm)
(Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam năm 2017)
Bảng 2.1: Lãi suất liên ngân hàng bình quân cả năm từ năm 2013-4/2019:
(Nguôn: Tông hợp Báo cáo