1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nợ xấu tại hệ thống NHTM việt nam giai đoạn 2014 2018 khoá luận tốt nghiệp 469

67 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 67
Dung lượng 548,99 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (10)
  • 2. Tổng quan nghiên cứu (10)
  • 3. Mục tiêu nghiên cứu (12)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
  • 5. Kết cấu của nghiên cứu (0)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU (12)
    • 1.1. Cơ sở lí luận về tín dụng ngân hàng (13)
      • 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại (13)
      • 1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng (14)
      • 1.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng (16)
    • 1.2. Cơ sở lí luận về nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (18)
      • 1.2.1. Khái niệm nợ xấu (18)
      • 1.2.2. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro (19)
      • 1.2.3. Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền (20)
      • 1.3.1. Xử lý nợ xấu trên góc độ ngân hàng thương mại (21)
      • 1.3.2. Xử lý nợ xấu trên góc độ Ngân hàng Nhà Nước (23)
  • CHƯƠNG 2: NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT (25)
    • 2.1. Mô tả số liệu và phương pháp nghiên cứu (25)
    • 2.2. Hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2014-2018 (25)
      • 2.2.1. Số luợng các NHTM (25)
      • 2.2.2. Phát triển tín dụng và huy động vốn (25)
      • 2.2.3. Môi trường pháp lý (29)
    • 2.3. Diễn biến nợ xấu trong hệ thống NHTM từ 2014-2018 (32)
    • 2.4. Xử lí nợ xấu của hệ thống NHTM của Việt Nam (42)
      • 2.4.1. Xử lý nợ xấu thông qua cơ cấu lại các khoản nợ hoặc giãn nợ (42)
      • 2.4.2. Xử lý nợ xấu bằng chuyển nợ xấu thành vốn góp, vốn cổ phần (43)
      • 2.4.3. Xử lý nợ xấu thông qua thị trường mua bán nợ (45)
      • 2.4.4. Xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ (47)
      • 2.4.5. Xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro (48)
    • 2.5. Kết quả xử lý nợ xấu giai õoạn 2014-2018 (0)
      • 2.5.1. Những thành tựu đạt được (50)
      • 2.5.2. Những hạn chế (52)
      • 2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế (52)
      • 2.5.4 Hạn chế trong giải quyết của chính phủ về xử lý (54)
  • CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM XỬ LÝ TỐT NỢ XẤU (12)
    • 3.1. Một số kiến nghị xử lí vấn đề nợ xấu (58)
      • 3.1.1. Giải pháp có tính phòng ngừa (58)
      • 3.1.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu (61)
    • 3.2. Kiến nghị với Ngân hang Nhà nước và Chính phủ (63)
      • 3.2.1. Một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (63)
      • 3.2.2. Một số kiến nghị với Chính phủ (65)
  • KẾT LUẬN (67)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ, nhưng đi kèm với đó là những rủi ro tiềm ẩn và khả năng xảy ra khủng hoảng bất cứ lúc nào, đặc biệt là những tác động còn sót lại từ cuộc khủng hoảng kinh tế trước đây.

Năm 2009, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với khủng hoảng và những thách thức hậu khủng hoảng, buộc Chính phủ phải triển khai nhiều chính sách nhằm khắc phục tình hình Tuy nhiên, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và lạm phát, nền kinh tế vẫn chưa ổn định và tồn tại nhiều vấn đề Đặc biệt, năm 2014 chứng kiến lạm phát tăng cao đến 18%, thị trường bất động sản đóng băng, và giá vàng, dầu mỏ tăng kỷ lục, gây khó khăn cho các doanh nghiệp Trong bối cảnh phức tạp này, hệ thống ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải nghiên cứu và hoạch định chiến lược một cách tỉ mỉ và sáng suốt.

Giai đoạn hậu khủng hoảng, vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng trở thành một yêu cầu cấp thiết cần được giải quyết để lành mạnh hóa nền kinh tế Để phát triển tín dụng và giảm thiểu nợ xấu, hệ thống ngân hàng cần thực hiện các nghiên cứu nhằm đưa ra chính sách mới khắc phục những khó khăn còn tồn tại Chính vì lý do này, tôi đã chọn đề tài “NỢ XẤU TẠI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2018”, nhằm cung cấp cái nhìn khái quát về vấn đề nợ xấu của Việt Nam trong giai đoạn này và đưa ra các kiến nghị giúp cải thiện tình hình của hệ thống ngân hàng.

Tổng quan nghiên cứu

Nợ xấu là một vấn đề quan trọng và được quan tâm đặc biệt trong ngành ngân hàng, dẫn đến việc nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về chủ đề này Dưới đây là thống kê một số vấn đề chính từ các đề tài nghiên cứu liên quan đến nợ xấu.

PGS.TS Tô Ngọc Hưng đã thực hiện nghiên cứu vào năm 2013 về việc "Xử lý nợ xấu trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam" Đây là đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành được tiến hành trong năm 2012, nhằm tìm ra các giải pháp hiệu quả để cải thiện tình hình nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Đề tài này đã hệ thống hóa lý luận về nợ xấu và cách xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm từ các quốc gia khác để rút ra bài học cho Việt Nam Nghiên cứu đánh giá toàn diện tình hình nợ xấu tại ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2015, giúp người đọc hình dung rõ nét về bức tranh nợ xấu trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở giai đoạn 2008-2015 và chưa phản ánh thực trạng hiện tại Bài nghiên cứu của tôi sẽ tiếp tục phân tích thực trạng nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng từ 2014-2018.

Châu Đình Linh (2017) đã thực hiện nghiên cứu mang tên “Mức độ ảnh hưởng của nợ xấu đến hiệu quả ngân hàng tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam” trong khuôn khổ luận án tiến sĩ tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này phân tích tác động của nợ xấu đối với hoạt động và hiệu quả của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề nợ xấu trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay.

Nguyễn Đình Hảo (2012) đã nghiên cứu về các giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong luận văn thạc sĩ của mình tại Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình nợ xấu và đưa ra các biện pháp khả thi nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại.

Th.s Lê Thị Duyên, 2014, “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam”.

Nghiên cứu về quản lý và xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại cho thấy tầm quan trọng sống còn của vấn đề này đối với toàn bộ hệ thống Các nghiên cứu thường tiếp cận từ các khía cạnh lý thuyết như khái niệm, nguyên nhân, thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu Mặc dù có sự đồng thuận về tính cấp thiết của việc này, nhưng vẫn tồn tại những hạn chế trong khả năng xử lý nợ xấu của các ngân hàng Các nghiên cứu cũng chỉ ra những vấn đề ưu tiên và đưa ra kiến nghị, tuy nhiên, nhiều bài nghiên cứu chỉ tập trung vào một ngân hàng cụ thể hoặc dữ liệu đã cũ, dẫn đến thiếu sót trong việc đánh giá tổng thể và đề xuất giải pháp phù hợp với tình hình hiện tại.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã thu thập được thông tin về thực trạng nợ xấu trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt tập trung vào 10 ngân hàng tham gia thí điểm Basel.

Trong giai đoạn 2014-2018, bài viết phân tích bối cảnh nợ xấu, đưa ra dự đoán cho tương lai và kiến nghị giải pháp khắc phục các tồn tại Đồng thời, bài viết cũng nhấn mạnh tác động của hành lang pháp lý mới đến việc xử lý nợ xấu, một khía cạnh ít được đề cập trong các nghiên cứu trước đây.

Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã gặp phải nhiều vấn đề lý luận liên quan đến nợ xấu và quy trình xử lý nợ xấu trong giai đoạn 2014-2018 Bài viết này đánh giá hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu, phân tích thực trạng nợ xấu tại hệ thống ngân hàng, và đưa ra các kiến nghị cùng giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại Việc cải thiện quy trình xử lý nợ xấu là cần thiết để nâng cao sự ổn định và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Cơ sở lí luận về tín dụng ngân hàng

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, phân loại tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại.

❖Khái niệm, đặc điểm tín dụng.

Tín dụng là một khái niệm kinh tế quan trọng, hình thành và phát triển song song với nền kinh tế hàng hóa Hoạt động vay mượn đã tồn tại từ lâu, đóng vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy giao dịch và phát triển kinh tế.

Vào khoảng 2000 - 1500 năm trước công nguyên, hoạt động tín dụng đã xuất hiện trước khi các ngân hàng ra đời Thuật ngữ “tín dụng” có nguồn gốc từ từ La tinh “crediltum”, có nghĩa là sự tin tưởng và tín nhiệm Nhiều quan điểm khác nhau đã được đưa ra để định nghĩa về khái niệm tín dụng.

Theo Các-Mác, tín dụng là sự tín nhiệm có căn cứ, cho phép một người giao cho người khác một lượng tư bản dưới hình thức hàng hóa hoặc tiền tệ Số tiền này cần được hoàn trả trong khoảng thời gian đã thỏa thuận.

Tín dụng, theo Bách Khoa toàn thư Việt Nam, là mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, trong đó người cho vay chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hóa cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định Khi đến hạn, người đi vay có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền hoặc hàng hóa đã vay, có thể kèm theo lãi suất.

Tín dụng là hình thức chuyển giao quyền sử dụng tài sản mà không chuyển nhượng quyền sở hữu, với thời hạn xác định Khi đến hạn, người vay phải hoàn trả gốc và lãi cho người cho vay Cụ thể, người cho vay cung cấp giá trị cho người vay, cho phép họ sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định Sau khi hết thời gian vay, người vay phải trả lại số tiền gốc cộng với phí cơ hội mà người cho vay đã mất Do đó, tổng giá trị hoàn trả thường cao hơn so với lúc ký hợp đồng tín dụng.

1.1.2 Phân loại tín dụng ngân hàng

Tín dụng là một bộ phận trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại.

Tín dụng ngân hàng được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu Các phân loại này thường bao gồm nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yếu được chia thành một số nhóm tiêu thức chính.

❖ Căn cứ vào thời hạn cho vay: Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

Tín dụng ngắn hạn là hình thức tín dụng có thời gian vay tối đa 12 tháng, thường được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp và chi tiêu ngắn hạn của cá nhân Loại tín dụng này thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng.

Tín dụng trung hạn là loại hình tín dụng có thời gian từ 12 đến 60 tháng, thường được các doanh nghiệp sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định, cải tiến thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, và xây dựng các dự án quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh.

Tín dụng dài hạn là hình thức cho vay với thời gian trên 60 tháng, nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính lâu dài của doanh nghiệp Loại tín dụng này thường được sử dụng cho các dự án lớn như xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị vận tải, cũng như các công trình hạ tầng như nhà ở, sân bay và cầu đường.

Phân loại tín dụng theo thời hạn tín dụng có tính chất tương đối, do nhiều khoản tín dụng có thể được cơ cấu lại, gia hạn hoặc trả trước hạn Dù vậy, việc phân loại này hỗ trợ ngân hàng trong việc cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn và tài sản, từ đó giúp ngân hàng chủ động hơn trong kế hoạch kinh doanh.

❖ Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng: Theo hình thức cấp tín dụng có thể chia thành chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.

Cho vay là hoạt động ngân hàng cung cấp tiền cho khách hàng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định Đây là tài sản lớn nhất trong lĩnh vực tín dụng Thời gian khoản vay được tính từ khi khách hàng nhận tiền cho đến khi hoàn tất việc trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Chiết khấu là quá trình mà ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng dựa trên giá trị của thương phiếu, sau khi trừ đi phần thu nhập của ngân hàng, nhằm sở hữu thương phiếu chưa đến hạn hoặc một giấy nợ.

Cho thuê tài sản là hình thức ngân hàng đầu tư tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê, với điều kiện khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau một khoảng thời gian nhất định Hình thức cho thuê này thường thuộc tín dụng trung và dài hạn, cho phép khách hàng có cơ hội mua lại tài sản sau thời gian thuê Các ngân hàng thương mại có thể thực hiện hoạt động cho thuê tài chính, nhưng cần thành lập công ty cho thuê tài chính riêng biệt Việc thành lập và hoạt động của công ty cho thuê tài chính phải tuân theo nghị định của chính phủ liên quan đến tổ chức và hoạt động của các công ty này.

Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài chính cho khách hàng mà không cần phải xuất tiền ngay lập tức Thông qua bảo lãnh, ngân hàng sử dụng uy tín và khả năng tài chính của mình để mang lại lợi ích cho khách hàng Các hình thức bảo lãnh bao gồm bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, và bảo lãnh đấu thầu Tuy nhiên, mức bảo lãnh cho từng khách hàng và tổng mức bảo lãnh của ngân hàng thương mại phải tuân thủ tỷ lệ vốn tự có của ngân hàng.

Sự đảm bảo trong các khoản cấp tín dụng cho khách hàng là yếu tố quan trọng nhằm giảm thiểu rủi ro mất mát khi người vay không trả nợ Đảm bảo này có thể được thực hiện thông qua tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh từ bên thứ ba Có hai loại hình thức đảm bảo chính trong tín dụng.

Cơ sở lí luận về nợ xấu tại các ngân hàng thương mại

Theo hiệp ước Basle I năm 1988, Ủy ban Basle đã định nghĩa rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện nghĩa vụ theo các điều khoản đã thỏa thuận.

Theo định nghĩa của IMF, nợ xấu được xác định khi khoản thanh toán nợ gốc và lãi đã quá hạn 90 ngày hoặc khi khoản thanh toán lãi đã quá hạn 90 ngày và được vốn hóa, tái cơ cấu hoặc đảo nợ Ngân hàng trung ương Châu Âu mở rộng khái niệm nợ xấu không chỉ bao gồm các khoản vay quá hạn mà còn cả những khoản nợ chưa quá hạn nhưng có rủi ro không thanh toán Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, rủi ro tín dụng trong ngân hàng là tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ Mặc dù có sự khác biệt trong cách diễn đạt, tất cả các định nghĩa đều nhấn mạnh rằng rủi ro tín dụng liên quan đến khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không trả nợ đúng hạn hoặc không trả đủ vốn và lãi.

Rủi ro tín dụng doanh nghiệp là rủi ro tín dụng liên quan đến khách hàng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng Khi rủi ro này xảy ra, ngân hàng có thể không thu hồi đủ vốn và lãi đúng hạn, dẫn đến chi phí phát sinh lớn và lãi suất thu được thấp hơn dự kiến Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và tính ổn định trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

1.2.2 Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.

IMF và WB phân loại nợ dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng Nợ được coi là an toàn khi khách hàng có khả năng trả nợ rõ ràng và tài sản đảm bảo hoàn toàn bằng tiền hoặc tương đương tiền không quá hạn dưới 90 ngày Nợ cần theo dõi khi có những yếu điểm tiềm tàng có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, với thời gian quá hạn dưới 90 ngày Nợ dưới chuẩn có các yếu điểm tín dụng rõ rệt, thời gian quá hạn từ 90-180 ngày Nợ nghi ngờ là những khoản nợ không chắc chắn có thể thu hồi, với thời gian quá hạn từ 180-360 ngày Cuối cùng, nợ mất vốn là các khoản vay không thể thu hồi, thường quá hạn hơn 360 ngày nhưng vẫn có khả năng thu hồi một phần.

Quan điểm thứ hai, theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39 phân loại vào năm nhóm “Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn, standard); Nhóm 2 (nợ cần chú ý, watch); Nhóm

Nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) là những khoản nợ có khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn bị nghi ngờ do thiếu điều kiện bảo đảm hoặc đã quá hạn trên 90 ngày Những khoản nợ này có các yếu kém rõ ràng, nếu không được khắc phục sẽ dẫn đến mất mát Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) có tất cả nhược điểm của nhóm 3, cùng với những yếu điểm khác khiến khả năng thu hồi nợ trở nên rất không chắc chắn, với nợ gốc hoặc lãi đã chậm thanh toán quá 180 ngày, được đánh giá là suy giảm nhưng chưa mất toàn bộ Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) là những khoản nợ không có khả năng thu hồi gốc và/hoặc lãi đã chậm thanh toán quá một năm Nợ xấu được phân loại từ nhóm 3 trở đi.

Việc phân loại nợ xấu trong ngân hàng phụ thuộc vào nhiều quan điểm và phương pháp khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong quy mô nợ xấu theo cách tính của cơ quan quản lý Chất lượng tín dụng của ngân hàng được thể hiện qua chỉ số nợ xấu, phản ánh sức khỏe của nền kinh tế Nợ xấu có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân, bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan Do đó, việc phân loại nợ xấu cần phải nhất quán để đánh giá một cách toàn diện, từ đó có thể chia nợ xấu thành hai nhóm: nhóm 1 là nợ quá hạn từ nhóm 3 đến 5 nhưng vẫn có khả năng thu hồi.

Việc phân loại nợ xấu thành "10 hồi" và "nhóm 2 nợ khó có khả năng thu hồi" giúp đánh giá chính xác thực trạng nợ xấu và trách nhiệm của các bên liên quan Điều này tạo điều kiện cho việc đưa ra các giải pháp hiệu quả và triệt để nhằm xử lý nợ xấu.

1.2.3 Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế.

❖ Đối với bản thân ngân hàng:

Ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi đúng hạn và đủ số tiền gốc lẫn lãi từ các khoản tín dụng, dẫn đến doanh thu không đạt dự kiến Trong khi đó, nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu được huy động từ bên ngoài và vẫn phải chịu chi phí, điều này ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng.

Rủi ro tín dụng tạm thời có thể ảnh hưởng đến khả năng quay vòng vốn của ngân hàng, dẫn đến sự suy giảm tính thanh khoản và uy tín của tổ chức tài chính này.

Rủi ro tín dụng là một yếu tố thường xuyên xảy ra trong hoạt động ngân hàng, và nếu không có khả năng thu hồi, nó có thể làm mất vốn kinh doanh Điều này không chỉ đe dọa sự ổn định và an toàn trong hoạt động của ngân hàng mà còn có thể dẫn đến nguy cơ phá sản.

❖ Đối với nền kinh tế:

Hoạt động ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với toàn bộ nền kinh tế, tạo ra sự tương tác hai chiều Sự không ổn định kinh tế dẫn đến rủi ro tín dụng, và ngược lại, rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế Khi rủi ro tín dụng xảy ra, tác động đầu tiên sẽ đến chính các ngân hàng thương mại, những chủ thể quan trọng trong nền kinh tế.

Nếu xảy ra sự cố trên diện rộng, an toàn của hệ thống ngân hàng sẽ bị đe dọa, dẫn đến tình trạng đình trệ trong nền kinh tế do kênh dẫn vốn chính bị tắc nghẽn Vốn dư thừa không được phân bổ đến các khu vực có nhu cầu, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh và làm chậm lại sự phát triển kinh tế.

1.3 Vấn đề cơ bản về xử lý nợ xấu.

1.3.1 Xử lý nợ xấu trên góc độ ngân hàng thương mại.

Nợ xấu trong ngân hàng thương mại luôn là vấn đề được quan tâm, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế Nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, trong đó có trách nhiệm của ngân hàng Để xử lý nợ xấu hiệu quả, các ngân hàng cần chủ động thực hiện các biện pháp nhằm đưa nợ xấu về mức an toàn và chấp nhận được Cách xử lý nợ xấu sẽ phụ thuộc vào từng đối tượng khách hàng cụ thể.

Cơ cấu lại khoản nợ là quá trình ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn và thời gian trả nợ, miễn giảm lãi đã quá hạn, và điều chỉnh lãi suất phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng trong bối cảnh kinh tế hiện tại Việc này thường áp dụng cho các khách hàng gặp khó khăn tạm thời trong sản xuất kinh doanh nhưng có khả năng phục hồi Mặc dù cơ cấu lại nợ giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn và ổn định hoạt động, nó cũng làm tăng rủi ro cho ngân hàng do thời gian thu hồi nợ kéo dài Ngân hàng cần thiết lập tiêu chí rõ ràng để lựa chọn các khoản nợ phù hợp cho việc tái cơ cấu, nhằm đảm bảo hiệu quả và bền vững trong quản lý rủi ro.

Chuyển nợ thành vốn góp là hình thức mà ngân hàng sử dụng khoản nợ để "mua" cổ phần của doanh nghiệp, giúp ngân hàng tham gia vào quản lý và định hướng doanh nghiệp vượt qua khó khăn Doanh nghiệp sẽ không còn gánh nặng trả nợ và dễ dàng tiếp cận nguồn vốn mới Phương án này giúp doanh nghiệp thoát khỏi nợ nần và ngân hàng giảm nợ xấu, tuy nhiên, rủi ro cho ngân hàng tăng cao nếu doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, có thể dẫn đến mất vốn Phương pháp này thường áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc những doanh nghiệp có triển vọng phát triển.

NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT

Mô tả số liệu và phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu trong bài viết được thu thập từ các nguồn uy tín như Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính, cùng với số liệu thực tế từ môi trường thực tập của sinh viên.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã lựa chọn phương pháp tiếp cận trực tiếp, chủ yếu sử dụng phương pháp định tính để thu thập dữ liệu từ các nguồn tin cậy Dữ liệu này được phân tích nhằm so sánh thực trạng nợ xấu trong nền kinh tế, từ đó đưa ra những đánh giá và phân tích theo chuỗi thời gian, cho thấy sự biến đổi qua các năm Ngoài ra, nghiên cứu cũng áp dụng các phương pháp thống kê, so sánh tổng hợp và phân tích chuỗi số liệu thời gian để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả.

Hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2014-2018

Giai đoạn 2014-2018 chứng kiến sự giảm sút số lượng ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, từ 40 NHTM vào năm 2014 xuống còn 35 NHTM vào năm 2018, tương ứng với tỷ lệ giảm 12,5% Nguyên nhân chính của sự thay đổi này là do chính sách tái cơ cấu mạnh mẽ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm cải tổ hệ thống NHTM sau các khủng hoảng và đại án Để tránh tình trạng NHTM phá sản dẫn đến khủng hoảng dây chuyền, NHNN đã thực hiện các phương án M&A, bao gồm việc mua lại các NHTM với giá 0 đồng như CBBank, Oceanbank, GPBank và sáp nhập các NHTM yếu kém vào những NHTM mạnh hơn để quản lý và tái cơ cấu hiệu quả.

2.2.2 Phát triển tín dụng và huy động vốn.

Từ năm 2014 đến 2018, ngành ngân hàng Việt Nam trải qua nhiều biến động lớn, bao gồm các vụ đại án nghìn tỷ và việc mua lại ngân hàng thương mại với giá 0 đồng từ Ngân hàng Nhà nước Trong bối cảnh khó khăn này, các ngân hàng thương mại đã áp dụng chiến lược thận trọng, siết chặt tín dụng và chuyển hướng phát triển toàn diện Họ tập trung vào các dịch vụ phi tín dụng để gia tăng lợi nhuận thay vì chỉ dựa vào nguồn lợi nhuận từ dư nợ tín dụng.

Bảng 1: Tăng trưởng tín dụng hệ thống NHTM Việt Nam từ 2014-2018.

Nguôn: Tông cục thông kê.

Tăng trưởng dư nợ của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) giai đoạn 2014-2018 ổn định, với sự phục hồi rõ nét từ năm 2014 đến 2016, đạt 18,9% vào năm 2016 Tuy nhiên, từ năm 2017 trở đi, tăng trưởng tín dụng chững lại do chính sách của Ngân hàng Nhà nước và sự thận trọng của các NHTM, tập trung vào dịch vụ phi tài chính như đầu tư và bảo hiểm, nhằm giảm thiểu rủi ro từ nợ xấu Năm 2018, tổng dư nợ của ba NHTM lớn là Vietcombank, BIDV, và Vietinbank đạt gần 3 triệu tỷ đồng, nhưng lợi nhuận của các ngân hàng này ngày càng giảm sự phụ thuộc vào dư nợ, với Vietcombank ghi nhận khoảng 35% lợi nhuận từ dịch vụ phi tài chính Điều này phản ánh xu hướng nền kinh tế giảm bớt phụ thuộc vào tín dụng, mặc dù mức tăng trưởng tín dụng không cao.

Trong 5 năm trở lại đây mức tăng trưởng tín dụng của năm 2018 là thấp nhất, thế nhưng theo số liệu từ Tổng cục Thống kê thì GDP lại tăng cao nhất Trong thời gian tới của các NHTM vẫn sẽ là giảm sự phụ thuộc vào dư nợ tín dụng, đẩy mạnh thu lợi nhuận từ các dịch vụ phi tài chính Điều này vừa tránh được rủi ro cho các NHTM nhưng vẫn đảm bảo được lợi nhuận và tăng trưởng cho NHTM, vừa cắt giảm được những chi phí không cần thiết Nếu NHTM không mặn mà việc cho vay và thắt chặt hơn tín dụng sẽ làm cho tình trạng các cá nhân tổ chức không tiếp cận được nguồn vốn phát triển kinh doanh, dẫn tới tăng trưởng kinh tế giảm sút Chính vì thế cần cân đối hài hòa giữa các mục tiêu trên để tránh lâm vào tình trạng mất cân bằng lợi ích của các chủ thể Quan điểm cân đối mức tăng trưởng GDP và tăng trưởng tín dụng được xem như một cách đánh giá hiệu quả tín dụng của nền kinh tế. Năm 2018 tín dụng đã có sự cải thiện hơn nhiều nhưng mức độ tăng trưởng tín dụng chỉ tương đương với giai đoạn 2013-2014 Đây là điều điều tất yếu bới sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà Nước Các ngân hàng tạo được một mức tăng trưởng lớn hơn so với các năm trước đây nhưng mức tăng trưởng lại thấp hơn Đây là tín hiệu tốt cho thấy chất lượng hoạt động của ngân hàng được cải thiện, nợ xấu giảm đáng kể sơ với trước, các nguồn thu ngoài tín dụng tăng lên, thể hiện xu thế chuyển dịch cơ cấu tài sản sang các mảng sinh lời cao hơn.

❖ Phát triển huy động vốn.

Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút tiền nhàn rỗi từ nhà đầu tư, cá nhân và tổ chức để cho vay cho những đối tượng thiếu vốn Trong giai đoạn 2014-2018, mặc dù ngành ngân hàng gặp nhiều khó khăn do tác động của nền kinh tế toàn cầu, hoạt động huy động vốn vẫn duy trì sự ổn định.

Bảng 2: Tăng trưởng huy động vốn hệ thống NHTM từ 2014-2018

Nguồn: Tổng cục thống kê

Từ năm 2014 đến 2018, tăng trưởng huy động vốn đã có sự gia tăng đều đặn, bất chấp nền kinh tế vừa mới phục hồi Nguyên nhân của hiện tượng này là do nhà đầu tư và người dân cảm thấy lo ngại về những rủi ro tiềm ẩn, dẫn đến xu hướng gửi tiền vào ngân hàng ngày càng cao.

Hàng 18 là kênh đầu tư hiệu quả, giảm rủi ro, đặc biệt tại các ngân hàng thương mại lớn có vốn Nhà nước Theo "Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2017" của Ủy ban giám sát, thanh khoản của hệ thống ngân hàng không có nhiều thay đổi trong năm 2017 Huy động vốn năm 2016 chỉ tăng 16,9%, thấp hơn so với mức 19,3% của năm 2016, trong khi tín dụng toàn hệ thống giữ nguyên mức tăng khoảng 19,3% Hệ số dư nợ trên vốn huy động (LDR) cũng tăng nhẹ từ 85,6% vào cuối năm 2016 lên 87,3% vào cuối năm 2017.

Năm 2017, huy động tiền gửi tăng khoảng 19%, trong đó huy động qua phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh 38% Vốn huy động chủ yếu bằng VND, chiếm 90.5%, trong khi ngoại tệ chỉ chiếm 9.5% Vốn huy động không thời hạn chỉ chiếm 9.1%, cho thấy sự ổn định của nguồn vốn Lãi suất huy động ổn định, với lãi suất 12 tháng của VND dao động từ 6.4-7.2%/năm Mặc dù có sự chênh lệch giữa tăng trưởng huy động và tín dụng, thanh khoản vẫn ổn định nhờ chính sách tiền tệ lỏng của Ngân hàng Nhà nước Trong năm, NHNN đã mua vào 7.5 tỷ USD và bơm ra thị trường 110 nghìn tỷ đồng Thị phần của các nhóm TCTD duy trì ổn định, với NHTM quốc doanh chiếm 51.8% cho vay và 49% huy động, trong khi NHTM cổ phần chiếm 41.3% cho vay và 42.4% huy động.

Huy động vốn của hệ thống NHTM thời kỳ này khá khả quan và ổn định, nguyên nhân là bởi:

Để thu hút khách hàng hiệu quả, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần triển khai chính sách linh hoạt, tận dụng lợi thế am hiểu thị trường và tâm lý khách hàng trong nước Trong bối cảnh cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, NHTM nên áp dụng các chiến lược như marketing, điều chỉnh lãi suất, đa dạng hóa danh mục dịch vụ và cung cấp các ưu đãi hấp dẫn Chính sách huy động vốn cần được điều chỉnh theo sự thay đổi của nền kinh tế, đồng thời NHTM cũng cần tư vấn và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, từ đó tạo sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa khách hàng và ngân hàng.

Lãi suất hợp lý đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn hiệu quả cho ngân hàng Mỗi thời kỳ, ngân hàng điều chỉnh lãi suất để đảm bảo sức hấp dẫn với khách hàng Tại Việt Nam, chính sách lãi suất là công cụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, các ngân hàng nhỏ thường phải đưa ra lãi suất cao hơn để cạnh tranh Cuộc đua lãi suất có thể dẫn đến nhiều rủi ro cho các ngân hàng Do đó, trong tương lai, lãi suất có thể không còn là yếu tố quyết định, mà chất lượng dịch vụ sẽ trở thành nhân tố hàng đầu.

Ba là, thực hiện phát triển kinh doanh ngân hàng thông qua quan hệ đối tác.

Thông qua quan hệ đối tác ngân hàng, các tổ chức tài chính có thể nâng cao khả năng huy động vốn và tìm kiếm khách hàng tiềm năng Hợp tác với các tổ chức tín dụng, cá nhân và tổ chức xã hội giúp ngân hàng xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả Đặc biệt, các mối quan hệ trực tiếp với cá nhân và tổ chức sẽ hỗ trợ ngân hàng thương mại trong việc dự báo sự thay đổi của dòng tiền.

Ngân hàng thương mại cần đẩy mạnh chính sách marketing để nâng cao hình ảnh và sức cạnh tranh Trong thời gian qua, sự quan tâm đến marketing đã gia tăng, và trong tương lai, các ngân hàng cần triển khai chiến lược marketing một cách khoa học với lộ trình chặt chẽ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu.

Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đang đối mặt với thách thức trong việc duy trì sự tăng trưởng và phát triển, đồng thời quản trị rủi ro hiệu quả Để hỗ trợ NHTM, Ngân hàng Nhà Nước đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm định hướng và thiết lập khuôn khổ pháp lý phù hợp.

Thông tư số 13 về kiểm soát nội bộ đã thu hút sự chú ý và lo ngại của các ngân hàng trong 6 tháng cuối năm 2018 Mặc dù được ban hành từ tháng 5, nhưng từ tháng 8 đến tháng 10/2018, đã diễn ra 3 buổi tọa đàm giữa các tổ chức hội viên của Hiệp hội Ngân Hàng Việt Nam và cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng tại Hà Nội và TP.

Hồ Chí Minh, mặc dù các ngân hàng vẫn tiếp tục kiến nghị về một số nội dung của Thông tư số 13, nhưng ý nghĩa của thông tư này là rất quan trọng Nó từng bước tiệm cận các thông lệ quốc tế, thiết lập những chuẩn mực mới cao hơn và chặt chẽ hơn trong quản trị rủi ro Thông tư này đặt ra những yêu cầu cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý và giảm thiểu rủi ro trong hệ thống ngân hàng.

Diễn biến nợ xấu trong hệ thống NHTM từ 2014-2018

Sau khủng hoảng kinh tế 2009, Việt Nam bắt đầu chịu tác động nặng nề từ cuối năm 2010, ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh tế và xuất nhập khẩu Hệ thống tài chính cũng gặp nhiều khó khăn, với nhiều ngân hàng thương mại báo cáo tín hiệu không khả quan Nhiều ngân hàng yếu kém đã phải sáp nhập hoặc bị mua lại với giá 0 đồng Bài nghiên cứu này sẽ trình bày tỷ lệ nợ xấu trong các năm 2012 và 2013, nhằm cung cấp cái nhìn rõ nét hơn về nguyên nhân và thực trạng của vấn đề Bảng tổng hợp tỷ lệ nợ xấu từ 2012-2018 sẽ được đưa ra để minh họa.

Biểu đồ 1: Tỷ lệ nợ xấu từ 2012-2018

Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước

Theo số liệu từ NHNN, nợ xấu đã có sự cải thiện đáng kể sau giai đoạn khủng hoảng, giảm từ 17,3% trong năm trước.

Từ năm 2012 đến 2018, tỷ lệ nợ xấu của nền kinh tế Việt Nam đã giảm mạnh từ 1.95% Biểu đồ cho thấy sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đã được NHNH và các cơ quan liên quan kịp thời xử lý, giúp quản lý nợ xấu một cách hiệu quả Kết quả là tỷ lệ nợ xấu liên tục được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 2%.

Năm 2013, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam đã gia tăng đáng kể, đạt 23,73% so với năm 2012, trở thành mối đe dọa lớn đối với hệ thống ngân hàng và tài chính quốc gia Để đối phó với tình hình này, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp và sáng kiến nhằm xử lý nợ xấu, bao gồm Đề án 254 nhằm cải thiện tài chính toàn hệ thống và thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) để quản lý rủi ro Ngày 21/10/2013, Ngân hàng Nhà Nước đã ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN, quy định về phân loại tài sản và trích lập dự phòng rủi ro, theo chuẩn mực Basel II Đồng thời, Nghị định 53/2013/NĐ-CP cũng được ban hành nhằm tổ chức và hoạt động của VAMC, góp phần vào việc xử lý nợ xấu hiệu quả hơn.

Mặc dù tình hình kinh tế năm 2014 chưa có nhiều cải thiện và nợ xấu vẫn có xu hướng tăng, nhưng nhờ vào những nỗ lực chủ động trong việc xử lý nợ xấu, đến cuối tháng 7, tổng nợ xấu nội bảng đã giảm xuống còn 162,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,11% tổng dư nợ.

Biểu đồ 2: Tỷ lệ nợ xấu và tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng năm 2014

Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước

Nhóm ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ xấu, với dư nợ tín dụng lớn nhưng tỷ lệ nợ xấu luôn ở mức thấp nhất Điều này cho thấy năng lực quản trị, thẩm định và sàng lọc khách hàng của nhóm ngân hàng này rất hiệu quả Thông tư 09/2014/TT-NHNN, ban hành ngày 18/03/2014, đã sửa đổi và bổ sung một số điều của Thông tư 02/2014/TT-NHNN nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho các ngân hàng.

Ngân hàng Nhà Nước đã cho phép các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ từ 20/03/2014 đến 01/04/2015, với quy định chặt chẽ để ngăn chặn việc lợi dụng nhằm che giấu nợ xấu Trong 7 tháng, tổng số nợ được xử lý đạt 40,8 nghìn tỷ đồng, bao gồm 14,3 nghìn tỷ đồng từ nguồn khách tự trả nợ, 1,56 nghìn tỷ đồng từ phát mại tài sản đảm bảo, 14,49 nghìn tỷ đồng bán cho tổ chức cá nhân và 8,3 nghìn tỷ đồng từ xử lý dự phòng Tính đến 21/12/2014, VAMC đã mua 133.555 tỷ đồng nợ xấu với giá 108.652 tỷ đồng từ 39 tổ chức tín dụng Trong năm 2015, NHNH yêu cầu VAMC lập kế hoạch xử lý 70.000-100.000 tỷ đồng nợ xấu, trong khi các tổ chức tín dụng phải giải quyết 60% số nợ xấu.

Năm 2015, 46% lợi nhuận của 12 ngân hàng thương mại đã bị hao mòn do chi phí dự phòng, với chi phí này tăng 20% mỗi năm khi thực hiện bán nợ xấu cho VAMC Đến tháng 7/2015, VAMC đã mua nợ xấu trị giá 59.000 tỷ đồng với giá 54.000 tỷ đồng và phát hành 51.300 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt, đồng thời thu hồi được 6.513 tỷ đồng từ việc xử lý tài sản và bán nợ Ngày 03/01/2015, Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, nhằm kiểm soát và trích lập dự phòng rủi ro.

Đến năm 2016, tình hình nợ xấu đã được xử lý hiệu quả, với tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng tiêu biểu tham gia thí điểm chuẩn Basel II được ghi nhận.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ nợ xấu và tăng trưởng tín dung của 10 ngân hàng.

Nguồn: Tổng cục thống kê

Dư nở ( tr.đ) Nợ xấu (tr.đ) Nợ xấu/Dư nợ

Có thể thấy rõ, NHTM nào có dư nợ nhiều thì tổng nợ xấu sẽ nhiều hơn nhóm

Các ngân hàng thương mại (NHTM) hiện đang duy trì mức dư nợ thấp, với nhóm NHTM lớn như VCB, BIDV, CTG có tỷ lệ nợ xấu và tổng dư nợ được quản lý hiệu quả Đặc biệt, ACB nổi bật với tỷ lệ nợ xấu thấp nhất, chỉ đạt 0,87% trong số 10 NHTM được đánh giá, cho thấy khả năng quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng này rất tốt.

Cuối năm 2016, tổng nợ xấu của các ngân hàng ghi nhận nhiều biến động, trong đó BIDV có nợ xấu lớn nhất với 14.175 tỷ đồng, tăng 41% so với đầu năm nhưng tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 1,95%, vẫn được xem là an toàn VietinBank cũng ghi nhận nợ xấu tăng 1.800 tỷ đồng, đạt 6.741 tỷ đồng, tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm 1,01% tổng dư nợ cho vay, cho thấy ngân hàng đã chủ động quản lý rủi ro Tương tự, VIB có tổng nợ xấu 1.548 tỷ đồng, tăng 56% so với đầu năm, chiếm 2,57% tổng dư nợ, chủ yếu do việc mua lại 30% nợ bán cho VAMC trong quý IV Những con số này cho thấy các ngân hàng đang nỗ lực cải thiện chất lượng tài sản và đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh.

Năm 2017 đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của ngành ngân hàng Việt Nam với những tín hiệu tích cực như nợ xấu giảm và được kiểm soát hiệu quả, cùng với lợi nhuận của hầu hết các ngân hàng thương mại tăng trưởng mạnh mẽ.

Biểu đồ 4: Tỷ lệ nợ xấu và tăng trưởng tín dụng hệ thống NHTM năm 2017

Nguồn: Tổng cục thống kê

Theo Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 10/01/2017, hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM) duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3% Tuy nhiên, vẫn có một số ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng đang trong quá trình tái cơ cấu, có tỷ lệ nợ xấu vượt quá 3% vào năm 2017 Trong giai đoạn 2017-2022, các tổ chức tín dụng lớn như BIDV, VietinBank, Agribank, Sacombank, ACB và Techcombank đã tích cực triển khai Nghị quyết thí điểm xử lý nợ xấu.

Bảng 3: Tương quan giữa nợ xấu và dư nợ của hệ thống NHTM giai đoạn

Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước

Xét về giá trị tuyệt đối, tính đến cuối năm 2017, có tơi 4/10 ngân hàng trong

Theo báo cáo, 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng cao so với năm 2016, trong đó VPBank ghi nhận mức nợ xấu gần gấp rưỡi năm trước Dù BIDV dẫn đầu trong nhóm ngân hàng nhà nước với nợ xấu cao nhất đạt 13,950 tỷ đồng, tình hình nợ xấu vẫn đáng lo ngại trên toàn hệ thống.

Năm 2016, BIDV đã giảm nợ xấu xuống 3.3% và tăng trưởng cho vay gần 20%, giúp tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1.99% xuống 1.61% vào năm 2017 Trong khi đó, VietinBank ghi nhận nợ xấu tăng 33%, đạt gần 9,000 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1.02% lên 1.13% Vietcombank giảm tỷ lệ nợ xấu từ 1.5% xuống 1.14% nhờ xử lý 10% nợ xấu và tăng trưởng tín dụng gần 18% Sacombank đứng đầu trong nhóm ngân hàng cổ phần tư nhân, xử lý hơn 19,660 tỷ đồng nợ xấu trong năm 2017 Toàn hệ thống tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu 9.5% vào năm 2017, cải thiện từ 11.9% cuối năm 2016, nhờ xử lý khoảng 70,000 tỷ đồng nợ xấu, chủ yếu qua thu hồi nợ và bán đấu giá tài sản ACB đã xử lý gần như dứt điểm khoản nợ liên quan đến nhóm công ty của “bầu Kiên”, chủ yếu từ dự phòng rủi ro tín dụng Ngân hàng Nhà nước cũng tích cực triển khai Basel II và tham mưu Chính phủ ban hành văn bản pháp luật về Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng.

Dư nợ ( tỷ đồng) Nợ xấu (tỷ đồng) Nợ xấu/dư nợ

Xử lí nợ xấu của hệ thống NHTM của Việt Nam

2.4.1 Xử lý nợ xấu thông qua cơ cấu lại các khoản nợ hoặc giãn nợ

Theo Thông tư 39 của NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể điều chỉnh khoản nợ dựa trên đề nghị của khách hàng và khả năng tài chính của họ Nếu khách hàng không thể trả nợ đúng hạn nhưng được TCTD đánh giá có khả năng trả nợ trong thời gian điều chỉnh, TCTD có thể thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và lãi Trong trường hợp khách hàng không thể trả hết nợ đúng hạn nhưng có khả năng hoàn trả trong một khoảng thời gian nhất định, TCTD sẽ xem xét gia hạn nợ phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng.

Theo Thông tư 39/2016/TT-NHNN, các Tổ chức tín dụng (TCTD) phải chuyển nhóm nợ quá hạn khi khách hàng không trả nợ gốc đúng hạn và không được TCTD chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ TCTD phải thông báo cho khách hàng về việc chuyển nhóm nợ quá hạn, bao gồm số dư nợ gốc quá hạn, thời điểm chuyển nợ và lãi suất áp dụng Trong giai đoạn 2014-2018, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã phải cơ cấu lại các khoản nợ lớn do sai phạm trong cho vay doanh nghiệp thua lỗ, nhằm bảo vệ vốn Tuy nhiên, số lượng nợ và tổng dư nợ cần cơ cấu vẫn còn cao.

32 cấu lại của hệ thống NHTM đã có những dấu hiệu tích cực và giảm đáng kể trong giai đoạn 2014-2018.

Bảng 5: Tỷ lệ cơ cấu nợ tổng hợp hệ thống NHTM 2014-2018

Nguôn: Tông cục thông kê

2.4.2 Xử lý nợ xấu bằng chuyển nợ xấu thành vốn góp, vốn cổ phần

Trong giai đoạn 2014-2018, phương pháp chuyển nợ thành vốn góp ít được áp dụng mặc dù có nhiều ưu điểm Nguy cơ sở hữu chéo và chi phí gia tăng khiến ngân hàng thương mại (NHTM) e ngại khi thực hiện phương pháp này Đến quý đầu năm 2018, chưa có trường hợp nào chuyển nợ thành góp vốn, cho thấy quá trình tái cơ cấu của các ngân hàng đang diễn ra chậm Dù vậy, một số NHTM vẫn lựa chọn phương án này và đạt được kết quả tích cực Tuy nhiên, do chi phí và thời gian lớn, cùng với quy định ngày càng nghiêm ngặt về sở hữu chéo, phương pháp này hiện nay ít được sử dụng Theo Tổng giám đốc một NHTMCP, chuyển nợ thành khoản góp vốn là giải pháp hiệu quả để xử lý nợ xấu, giúp NHTM có thêm thời gian và nguồn lực để cải thiện cấu trúc nợ, từ đó tăng khả năng thu hồi nợ.

Năm 2017, nhiều NHTM đã nghiên cứu phương án chuyển nợ xấu thành vốn góp, nhưng lãnh đạo các ngân hàng nhận thấy giải pháp này gặp nhiều khó khăn và không phù hợp với thực tế Để thực hiện, NHTM cần có năng lực tài chính lớn, và nếu nợ xấu quá lớn, cổ đông sẽ không đồng ý đầu tư vào doanh nghiệp đó Hiện nay, NHTM đã có nhiều giải pháp tối ưu hơn, đặc biệt là sau khi Nghị quyết 42 cho phép VAMC và các NHTM thu hồi, bán tài sản đảm bảo đối với nợ xấu, được coi là phương án khả thi và dễ thực hiện hơn Việc chuyển nợ thành vốn góp đang khiến cả NHTM nhỏ và lớn thận trọng, trong khi môi trường kinh doanh không thuận lợi cũng khiến các ngân hàng xem xét kỹ lưỡng việc mở rộng sang lĩnh vực khác.

Trong mùa đại hội đồng cổ đông năm 2018, SCB đã xem xét giải pháp chuyển nợ thành vốn góp nhưng vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện Mặc dù Nghị quyết 42 cung cấp các giải pháp xử lý nợ mạnh mẽ hơn, SCB vẫn đang cân nhắc lựa chọn giải pháp mới VietinBank là một ngân hàng thực hiện thành công việc chuyển nợ thành vốn góp thông qua việc tham gia vào các cảng lớn Tuy nhiên, hiện tại chỉ một số ngân hàng thành công trong việc này, và nhiều ngân hàng đang chuyển hướng tập trung vào việc tìm kiếm nguồn tăng vốn thay vì đầu tư vào doanh nghiệp có nợ xấu Kinh doanh ngày càng khó khăn khiến ngân hàng không còn tin tưởng vào khả năng phục hồi của các doanh nghiệp nợ xấu, dẫn đến việc hoãn kế hoạch chuyển nợ và tìm kiếm giải pháp mới để bảo vệ lợi ích của cổ đông và nhà đầu tư.

2.4.3 Xử lý nợ xấu thông qua thị trường mua bán nợ

Cơ chế chính sách xử lý nợ xấu của Việt Nam từ năm 2014 đến nay đã được xác lập rõ ràng và mở rộng theo hướng thị trường, với sự tham gia của Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) và Công ty Quản lý Tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) DATC chủ yếu tập trung vào việc mua nợ và tái cấu trúc doanh nghiệp, trong khi VAMC xử lý nợ xấu tại hệ thống tổ chức tín dụng Chất lượng xử lý nợ xấu đã cải thiện, với giá giao dịch đạt từ 50% đến 70% nợ gốc Các biện pháp như mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt, bán nợ, và tái cấu trúc nợ đã được áp dụng hiệu quả Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, năm 2018, hoạt động xử lý nợ xấu diễn ra tích cực nhờ vào sự ổn định của các yếu tố vĩ mô và sự cải thiện trong tình hình doanh nghiệp và thị trường Hầu hết các tổ chức tín dụng đã xây dựng kế hoạch xử lý nợ xấu cho giai đoạn 2017-2020, với dự kiến xử lý khoảng 20% đến 30% nợ xấu theo Nghị quyết 42 và mục tiêu đưa nợ xấu xuống dưới 3% vào cuối năm 2020.

Tại Hội nghị Diễn đàn các công ty quản lý tài sản công quốc tế (IPAF) lần thứ

Mặc dù châu Á được dự báo là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhưng rủi ro gia tăng do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và chính sách thắt chặt của các ngân hàng trung ương lớn, khiến dòng vốn dịch chuyển đến nơi an toàn hơn Để giảm thiểu bất lợi và ngăn chặn hiệu ứng lây lan, các quốc gia châu Á cần xây dựng bộ đệm tài chính và tăng cường tính bền vững của nợ, đặc biệt là xử lý nợ xấu Tại Việt Nam, việc xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn, với điểm nghẽn lớn nhất là thiếu thị trường mua bán nợ, bao gồm các sàn giao dịch nợ, điều này cản trở quá trình xử lý nợ xấu Quy mô và tính chất nợ xấu ngày càng gia tăng, không chỉ trong nước mà còn mang tính liên quốc gia do nhiều doanh nghiệp vay nợ cho các dự án lớn.

Nợ xấu đang tạo ra gánh nặng lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh tài chính quốc gia Sự gia tăng nợ xấu dẫn đến lãi suất cho vay cao hơn và làm giảm nguồn vốn tín dụng, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế.

Mặc dù DATC mới được thành lập và chưa phát huy hết hiệu quả trong việc xử lý nợ qua thị trường, nhưng VAMC đã chứng tỏ được vai trò quan trọng và hiệu quả của mình trong lĩnh vực này từ lâu.

Biểu đồ 6: Dư nợ VAMC đã mua của hệ thống NHTM từ 2014-2017 Đơn vị: tỳ đóng

VAMC đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ xấu từ khi thành lập vào tháng 6/2014, với số dư nợ gốc chuyển thành nợ xấu ngày càng tăng, cho thấy hiệu quả của nó đối với nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) Trong năm 2018, VAMC đã mua lại 233.568 tỷ đồng nợ xấu từ các NHTM, nhờ vào việc xử lý nợ xấu hiệu quả trước đó và việc một số NHTM như Vietcombank, ACB chủ động mua lại nợ xấu đã bán cho VAMC Tuy nhiên, VAMC vẫn gặp phải những hạn chế do không có nhiều quyền lực thực sự khi chỉ là công ty trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Đại diện VAMC đã đề xuất cần chuyển đổi thành thuộc Chính phủ để có thể cải thiện tình hình, trong khi việc này chưa thể thực hiện, việc thành lập Tổ công tác là giải pháp tạm thời nhằm hỗ trợ VAMC trong việc xử lý các vấn đề phát sinh Tổ công tác này bao gồm đại diện từ các bộ, ngành liên quan, nằm trong Đề án nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2017-2020.

Tổ công tác 36 tập trung chỉ đạo xử lý nợ xấu của khách hàng tại các TCTD và VAMC với dư nợ lớn theo từng thời kỳ Họ phối hợp chặt chẽ với VAMC và TCTD để hoàn thiện hồ sơ pháp lý, thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), cũng như thực hiện các thủ tục chuyển nhượng và thuế liên quan Các biện pháp thu hồi nợ bao gồm đôn đốc, thu giữ, phát mại TSBĐ và bán nợ thông qua đấu giá công khai, minh bạch Tổ công tác sẽ không xem xét cơ cấu nợ hay tái cấu trúc doanh nghiệp, mà hoạt động với tinh thần rằng nợ xấu VAMC đã mua là tài sản của Nhà nước; mọi tổ chức, cá nhân không hợp tác sẽ bị xử lý hình sự vì tội chiếm đoạt tài sản nhà nước.

2.4.4 Xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ

Phương pháp xử lý nợ xấu thông qua tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, khi việc thu hồi nợ phụ thuộc vào xử lý tài sản bảo đảm Quá trình này thường yêu cầu khởi kiện ra tòa án, và ngay cả khi có phán quyết, việc phát mại tài sản cũng không dễ dàng Ví dụ, Saigon One Tower, tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu đã được bán cho VAMC từ lâu, vẫn chưa thể phát mại để thu hồi nợ Mặc dù VAMC đã tổ chức đấu giá công khai theo Nghị quyết 42, nhưng không thành công do sự không đồng ý của một cổ đông và tình trạng chưa hoàn thiện của tòa tháp Ông Nguyễn Tiến Đông, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC, cho biết trong tương lai sẽ còn nhiều tài sản lớn cần xử lý nợ xấu tương tự như Saigon One Tower và khách sạn Bavico, do chủ đầu tư ban đầu đã không còn nguồn lực để tiếp tục triển khai dự án, dẫn đến phát sinh nợ xấu.

37 này sẽ nằm im, gây lãng phí nguồn lực Nhưng thực tế, ngân hàng vẫn khó bán tài sản.

Ngân hàng Quốc Dân (NCB) đã quyết định giữ tài sản của Công ty Hữu Liên Á Châu do khoản nợ gần 360 tỷ đồng mà công ty này không trả đúng hạn Mặc dù NCB đã cho Hữu Liên Á Châu thêm thời gian để tự thanh lý tài sản, công ty vẫn chây ỳ và không có thiện chí xử lý Hiện tại, Hữu Liên Á Châu còn đang nợ hàng trăm tỷ đồng tại nhiều ngân hàng lớn khác như BIDV, Sacombank và SCB Áp lực xử lý nợ xấu đang gia tăng, buộc các ngân hàng phải đẩy mạnh thu hồi tài sản đảm bảo Tuy nhiên, việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi các tài sản không đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thu giữ và bán nợ Quá trình khởi kiện để xử lý tài sản thường mất nhiều thời gian, và trong một số trường hợp, khách hàng liên quan đến các nghi án pháp lý còn phải xin sự đồng ý từ cơ quan chức năng Lãnh đạo ngân hàng cho biết, việc xử lý tài sản trong các vụ án phức tạp thường kéo dài và khó dự đoán, đặc biệt khi có nhiều tình tiết phát sinh hoặc một bên tuyên bố phá sản.

Một trong những điều kiện để tài sản đảm bảo (TSĐB) được xử lý là tài sản đó không được coi là tài sản có tranh chấp Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa có quy định rõ ràng về khái niệm tài sản đang bị tranh chấp, dẫn đến sự hiểu sai khác nhau giữa các cơ quan và bên tố tụng Tình trạng này đã gây ra nhiều rào cản và khó khăn trong việc xử lý tài sản theo Nghị quyết 42.

2.4.5 Xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro Đây là phương pháp xử lí nợ xấu truyền thống của hầu như các NHTM ở Việt Nam Nguyên tắc các NHTM sẽ giữ lại một phần lợi nhuận của kì kinh doanh liền

CÁC GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM XỬ LÝ TỐT NỢ XẤU

Ngày đăng: 29/03/2022, 23:12

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w