1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu về đòn bẩy tài chính trong hệ thống NHTM việt nam trong giai đoạn 2009 2015 khoá luận tốt nghiệp 332

85 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Về Đòn Bẩy Tài Chính Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Giai Đoạn 2009-2015
Tác giả Đỗ Cảm Nhung
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thùy Dương
Trường học Học Viện Ngân Hàng
Chuyên ngành Ngân Hàng
Thể loại khoá luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2016
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 749,88 KB

Cấu trúc

  • KHOA LUAN TOT NGHIỆP

    • NGHIÊN CỨU VỀ ĐÒN BẢY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2015

  • KHOA LUAN TOT NGHIỆP

    • NGHIÊN CỨU VỀ ĐÒN BẢY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2015

      • LỜI CAM ĐOAN

      • DANH MỤC BẢNG BIỂU

      • LỜI MỞ ĐẦU

      • 1.1.2. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại

      • 1.2. Mục tiêu nghiên cứu

      • 1.3. Câu hỏi nghiên cứu

      • 1.4. Phương pháp nghiên cứu

      • 1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

      • 1.6. Ý nghĩa của đề tài

      • 1.7. Ket cấu của đề tài

      • 2.1. Khái quát về đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại

      • 2.1.1. Khái quát chung về cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại

      • 2.1.2. Khái niệm đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại.

      • 2.1.3. Đặc điểm của đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại

      • 2.1.4. Các chỉ tiêu xác định đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại

      • 2.1.4.1. Đòn bẩy dạng giản đơn FL - Financial Leverage

      • 2.1.4.2. Hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR.

      • 2.1.4.3. Kết hợp Đòn bẩy tài chính giản đơn và hế số an toàn vốn tối thiểu CAR

      • 2.1.5. Vai trò của đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại

      • 2.1.6. Những rủi ro trong ngân hàng thương mại liên quan đến đòn bẩy tài chính

      • 2.2.2. Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

      • 2.3. Quy định về đòn bẩy tài chính theo hiệp ước Basel III

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG II

      • 3.1. Khái quát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

      • 3.1.1. Số lượng các ngân hàng thương mại

      • 3.1.2. Vốn chủ sở hữu

      • Biều đồ 3.1: Mức gia tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại từ 2009 đến 2015

      • 3.1.3. Tổng tài sản

      • Biều đồ 3.2: Mức gia tăng tổng tài sản của các ngân hàng thương mại từ năm 2009 đến 2015

      • 3.1.4. Lợi nhuận

      • 3.1.5. Huy động vốn

      • 3.2. Một số chỉ tiêu an toàn vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại

      • 3.2.1. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR trong ngân hàng

      • Biểu đồ 3.4: CAR của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam từ 2009 đến 2014

      • 3.2.2. Thực trạng tỷ lệ đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại từ 2009 đến 2015

      • 3.2.3. Nghiên cứu định lượng các nhân tố tác động đến đòn bẩy tài chính.

      • Biểu đồ 3.8: Quy mô tổng tài sản và đòn bẩy tài chính của NHTM

      • 3.3.2. Những tác động tiêu cực và nguyên nhân

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG III

      • 4.1.2. Các giải pháp quản lý đòn bẩy tài chính ứng dụng từ kết quả mô hình kinh tế lượng

      • 4.1.3. Các giải pháp về tái cơ cấu ngân hàng thương mại

      • 4.2. Khuyến nghị về quản lý rủi ro đối với đòn bẩy tài chính

      • 4.3. Khuyến nghị về quản lý đòn bẩy tài chính tại các NHTM

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG IV

      • KẾT LUẬN

      • PHỤ LỤC: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐÒN BẦY TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

      • 2. Kết quả định lượng

      • Kết quả kiểm định Hausman

Nội dung

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Các nghiên cứu trên thế giới liên quan đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại

Đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại đã được nghiên cứu từ lâu, đặc biệt từ các cơ quan giám sát Trước những năm 1980, quản lý định lượng về đòn bẩy tài chính chưa được chú trọng, với một số quốc gia chỉ quy định an toàn vốn tối thiểu mà không có yêu cầu cụ thể về đòn bẩy Sự ra đời của Hiệp ước Basel I vào năm 1988 đã ghi nhận nỗ lực quản lý tỷ lệ đòn bẩy, nhưng không trực tiếp quy định tỷ lệ này, dẫn đến việc không phản ánh đúng mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng Sau cuộc khủng hoảng những năm 90, Basel I trở nên không phù hợp, và Basel II được ban hành vào năm 2004, có hiệu lực từ tháng 1/2007 với ba trụ cột chính: yêu cầu vốn tối thiểu, công tác kiểm tra rà soát, và thông tin thị trường Basel II đã cải tiến cách xác định tỷ trọng vốn tối thiểu, cho phép ngân hàng lựa chọn phương pháp xác định trọng số rủi ro và đưa ra yêu cầu tăng vốn điều lệ để đối phó với rủi ro vận hành và rủi ro thị trường, mặc dù tỷ lệ đòn bẩy tài chính vẫn chưa được quy định trực tiếp.

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính 2007-2009, quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu của hệ thống ngân hàng đã bộc lộ những hạn chế, dẫn đến việc Ủy ban Basel ban hành Basel III để cải thiện mức độ an toàn Basel III không chỉ thắt chặt quy định về hệ số an toàn vốn CAR mà còn bổ sung quy định về đòn bẩy tài chính, yêu cầu mức vốn tối thiểu dựa trên giá trị tài sản không phân theo trọng số rủi ro Mục tiêu của quy định này là hạn chế việc sử dụng đòn bẩy quá mức trong ngân hàng, nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực đến hệ thống tài chính.

Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, bên cạnh hiệp ước tiêu chuẩn vốn của Ủy ban Basel, đòn bẩy tài chính cần được áp dụng như một tỷ lệ phụ thêm cho các tỷ lệ an toàn vốn dựa trên rủi ro, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của việc giảm trọng số rủi ro trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế Trong giai đoạn này, điều kiện kinh tế thuận lợi và lãi suất thấp sẽ làm gia tăng cầu tín dụng, dẫn đến việc các ngân hàng thương mại mở rộng cho vay và tăng cường sử dụng đòn bẩy tài chính Tuy nhiên, với mức vốn thấp, ngân hàng sẽ phải tăng vốn hoặc hạn chế cấp tín dụng Nghiên cứu của Brei và Gambarcota cũng khẳng định rằng kiểm soát tỷ lệ đòn bẩy tài chính là biện pháp cần thiết trong thời kỳ tăng trưởng để hạn chế rủi ro hệ thống của ngân hàng thương mại, đồng thời là công cụ hỗ trợ khi nền kinh tế suy thoái.

Đòn bẩy tài chính tại các ngân hàng thương mại (NHTM) đang trở thành chủ đề nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp Nghiên cứu của Umar (2011) chỉ ra rằng cơ cấu quản trị tốt có thể dẫn đến tỷ lệ đòn bẩy cao ở các công ty Gunaratha (2013) cho thấy rằng mức độ đòn bẩy tài chính có mối tương quan tích cực với các loại rủi ro tài chính Trong khi đó, Alcock và cộng sự (2013) kết luận rằng mặc dù đòn bẩy tài chính có thể giúp nâng cao lợi nhuận trong ngắn hạn, việc sử dụng nó trong dài hạn có thể gây ra tác động tiêu cực đến tình hình tài chính của công ty.

Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) thường liên quan đến việc phân tích cấu trúc vốn, cụ thể là tỷ lệ phần trăm vốn được tài trợ bởi nợ so với vốn chủ sở hữu Nhiều nghiên cứu quốc tế đã thực hiện việc định lượng các yếu tố tác động đến đòn bẩy tài chính, trong đó có công trình của Rient Gropp và Florian Heider (2009) cũng như nghiên cứu của Monica Octavia và Rayna Brown.

Nghiên cứu của Ebru Caglayan (2010) cho thấy các yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại bao gồm quy mô ngân hàng, khả năng sinh lợi, khả năng tăng trưởng, rủi ro và thuế thu nhập doanh nghiệp, cùng với tăng trưởng kinh tế.

Công trình nghiên cứu của Rient Gropp và Florian Heider (2009) trong báo cáo của NHTW Châu Âu đã phân tích "Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn ngân hàng" dựa trên mẫu hơn 200 ngân hàng từ 15 quốc gia phát triển, bao gồm Liên Minh Châu Âu và Mỹ, trong giai đoạn 1991-2004 Nghiên cứu sử dụng đòn bẩy tài chính làm biến đại diện cho cấu trúc vốn ngân hàng, được đo lường bằng công thức: Đòn bẩy tài chính = 1 - VCSH/Tổng tài sản, với đòn bẩy tính theo giá trị sổ sách và giá trị thị trường.

Công trình nghiên cứu sử dụng các nhân tố tác động lên cấu trúc vốn ngân hàng (biến độc lập) là:

- Biến tỷ số giá trị thị trường so với giá trị sổ sách (MTB) = giá trị tài sản thị trường/giá trị trên sổ sách của tài sản.

- Biến Lợi nhuận (Profits) tính bằng tỷ suất lợi nhuận = lợi nhuận/tổng tài sản.

- Biến Quy mô (Size) = Logarit của tổng tài sản.

Biến tài sản thế chấp (Collateral) được tính bằng cách chia tổng giá trị các loại tài sản như chứng khoán, tín phiếu kho bạc, tín phiếu khác, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, đất đai và nhà cửa, cùng với các tài sản hữu hình khác cho giá trị sổ sách của tổng tài sản.

- Biến Cổ tức (Dividends) là một biến giả bằng 1 nếu trong năm các ngân hàng có chia cổ tức, ngược lại bằng không nếu không chia cổ tức

Biến rủi ro được xác định bằng độ lệch chuẩn hàng năm của lợi nhuận giá chứng khoán hàng ngày, nhân với tỷ lệ giữa giá trị thị trường của VCSH và giá trị thị trường của ngân hàng Để đánh giá tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc, nghiên cứu này áp dụng mô hình hồi quy tuyến tính.

L c = β 0 + β 1 MlT⅛ -1 + βjrof ιct - γ + β 3 Ln ( Size 1ct ^) + β i Coll^ ct 1 + /í Div ιt + e c + C t + U ict (1)

L ict = β 0 + / MV1 + β 2 Prof 1ct 1 + β 3 Ln(Size tct -β + βColl 1ct 1 + β 5 Div ict + β 6 Ln(Risk tct -β + c c + c t + U ict (1)

(Trong đó: i là ngân hàng, c là quốc gia, t thời gian)

Trong nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp phân tích mô hình tuyến tính bình phương nhỏ nhất kết hợp với đánh giá tác động của các nhân tố cố định lên các biến thời gian và quốc gia Kết quả cho thấy các biến độc lập ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của ngân hàng, với cổ tức và rủi ro tác động ngược chiều lên đòn bẩy tài chính, trong khi quy mô và tài sản thế chấp có tác động cùng chiều Tuy nhiên, biến lợi nhuận và tỷ số giá trị thị trường không cho thấy ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu đã mở rộng bằng cách bổ sung các biến vĩ mô như tăng trưởng, GDP, lạm phát và rủi ro thị trường chứng khoán vào mô hình Kết quả cho thấy rằng tăng trưởng GDP và lạm phát có tác động cùng chiều đến đòn bẩy tài chính, trong khi rủi ro thị trường chứng khoán lại ảnh hưởng ngược chiều đến đòn bẩy tài chính.

Nghiên cứu của Monica Octavia và Rayna Brown (2008) tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển Các tác giả đã áp dụng mô hình tương tự như nghiên cứu của Rient Gropp và Florian Heider (2009), sử dụng các biến độc lập và biến phụ thuộc Nghiên cứu này xem xét 56 ngân hàng từ 10 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2005.

Nghiên cứu cho thấy rằng các biến độc lập như Quy mô (Size) và giá trị sổ sách (MTB) có tác động đồng biến đến Đòn bẩy tài chính của ngân hàng, trong khi đó, các biến Lợi nhuận (Profits), tài sản thế chấp (Collateral), cổ tức (Dividends) và Rủi ro (Risk) lại có tác động nghịch biến.

Nghiên cứu của Ebru Qaglayan (2010) tập trung vào "Các nhân tố tác động đến Cấu trúc vốn" tại các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ, sử dụng dữ liệu từ 25 ngân hàng Biến phụ thuộc trong nghiên cứu là Đòn bẩy tài chính, trong khi các biến độc lập bao gồm Tỷ số giá trị thị trường so với giá trị sổ sách (MTB), lợi nhuận (PROF), quy mô (SIZE), và tài sản hữu hình (TANG).

Và kết quả nghiên cứu của tác giả cũng khẳng định các nhân tố trên có ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng.

Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết các biến trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê rõ ràng Cụ thể, tỷ số giá trị thị trường so với giá trị sổ sách (MTB) và quy mô (SIZE) có tác động tích cực đến đòn bẩy tài chính, trong khi lợi nhuận (PROF) và tài sản hữu hình (TANG) lại có tác động tiêu cực đến biến đòn bẩy tài chính.

Các nghiên cứu trong nước liên quan đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại

Trong các nghiên cứu trong nước về thương mại, vấn đề đòn bẩy tài chính tại các ngân hàng thương mại (NHTM) chưa được đề cập nhiều Tuy nhiên, việc quy định tỷ lệ đòn bẩy như một tiêu chí an toàn cho NHTM đã trở thành một vấn đề cấp thiết trong một số nghiên cứu tại Việt Nam.

Trong báo cáo “Hoạt động ngân hàng Việt Nam: Bức tranh toàn cảnh 2012 và dự báo 2013”, nhóm nghiên cứu Học viện Ngân hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR và hệ số đòn bẩy tài chính trong việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng Việt Nam Mặc dù hệ số CAR của các NHTM cao hơn quy định của NHNN, nhưng theo khuyến nghị của Basel III, tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao có thể chỉ ra những rủi ro tiềm ẩn Việc xác định chính xác giá trị của các tỷ lệ này hiện đang gặp khó khăn Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất bổ sung yêu cầu về tỷ lệ đòn bẩy tài chính bên cạnh quy định về hệ số an toàn vốn tối thiểu để nâng cao mức độ an toàn vốn của các NHTM.

Năm 2015, tiến sĩ Lê Thị Tuấn Nghĩa từ Học viện Ngân hàng đã thực hiện nghiên cứu “Vấn đề đòn bẩy tài chính trong hệ thống NHTM Việt Nam- Thực trạng và khuyến nghị”, phân tích hệ thống các vấn đề liên quan đến đòn bẩy tài chính và các yếu tố ảnh hưởng đến nó Nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết có quy định về đòn bẩy tài chính, dựa trên các tiêu chuẩn an toàn vốn theo hiệp ước Basel trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu Đề tài cũng đã khảo sát kinh nghiệm quốc tế, đề xuất thành lập đơn vị quản lý chuyên trách về đòn bẩy tài chính và an toàn vốn, cùng lộ trình tăng yêu cầu vốn tối thiểu giai đoạn 2015-2020 Ngoài ra, bài nghiên cứu còn phân tích chi tiết thực trạng đòn bẩy tài chính của hệ thống NHTM Việt Nam, sử dụng phân tích định lượng để đo lường tác động của các yếu tố đến tỷ lệ đòn bẩy tài chính.

- Nghiên cứu lý luận cơ sở về vấn đề đòn bẩy tài chính trong hệ thống NHTM Việt Nam

Sau khủng hoảng kinh tế, nhiều quốc gia đã áp dụng quy định về đòn bẩy tài chính trong hoạt động ngân hàng nhằm tăng cường ổn định tài chính Các kinh nghiệm từ các nước này cho thấy việc quản lý đòn bẩy tài chính không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro mà còn cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống ngân hàng Xu hướng hiện nay là hướng tới việc thiết lập các tiêu chuẩn cao hơn về vốn và minh bạch trong hoạt động cho vay, từ đó nâng cao niềm tin của nhà đầu tư và khách hàng Việc áp dụng quy định này đã trở thành một phần quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của ngành ngân hàng toàn cầu.

- Nghiên cứu thực trạng tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009-2015

- Đưa ra những đánh giá và khuyến nghị về mức đòn bẩy tài chính hợp lý cần duy trì bởi NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2015 - 2020

Cơ sở lý luận cho việc áp dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính như một giới hạn an toàn cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tăng cường ổn định tài chính và giảm thiểu rủi ro Các bài học kinh nghiệm từ nhiều quốc gia cho thấy việc thiết lập quy định này giúp cải thiện khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng trước các cú sốc kinh tế, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và nhà đầu tư Việc áp dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Thực trạng tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cho thấy sự tiệm cận với các quy định an toàn vốn quốc tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức Các yếu tố như chính sách tài chính, quản lý rủi ro và môi trường kinh doanh ảnh hưởng đáng kể đến đòn bẩy tài chính tại Việt Nam Việc nâng cao nhận thức về quy định an toàn vốn và cải thiện các yếu tố này là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng.

1.4 Phương pháp nghiên cứu Để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng họp, phân tích, thống kê có chọn lọc kết họp với so sánh kết quả trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Trong quá trình phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn, đề tài có sử dụng các các bảng biểu và hình vẽ để chứng minh và rút ra những kết luận cần thiết.

1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Vấn đề đòn bẩy tài chính tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Các tổ chức tín dụng Việt Nam trong giai đoạn từ

1.6 Ý nghĩa của đề tài về mặt lý luận: Phân tích ý nghĩa quan trọng của tỷ lệ đòn bẩy tài chính đối với việc dự báo rủi ro và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. về mặt thực tiễn: Luận văn tổng hợp, phân tích, đánh giá một cách tổng quan về vấn đề đòn bẩy tài chính tại các NHTM Việt Nam Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn, luận văn đề xuất giải pháp và kiến nghị thay đổi chính sách quản lý của ngân hàng trung ương để đảm bảo an toàn của hệ thống NHTM Việt Nam.

1.7 Ket cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết còn bao gồm danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu, và danh mục tài liệu tham khảo, được tổ chức thành 4 chương chính.

- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về đòn bẩy tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại

- Chương 2: Cơ sở lý luận về đòn bẩy tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại

- Chương 3: Thực trạng đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

- Chương 4: Khuyến nghị về vấn đề đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Khái quát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong thập kỷ qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi quan trọng nhờ vào quá trình đổi mới và hội nhập Sự xuất hiện của ngân hàng 100% vốn nước ngoài và việc dỡ bỏ các hạn chế đối với chi nhánh ngân hàng đã làm tăng mức độ cạnh tranh, buộc các ngân hàng Việt Nam phải tái cấu trúc để phát triển bền vững Năm ngân hàng thương mại Nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa và hoạt động theo mô hình đa sở hữu, trong khi các ngân hàng cổ phần đang thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và nâng vốn điều lệ lên tối thiểu 3.000 tỉ VND theo quy định của Chính phủ Những động thái này đều hướng tới việc phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

38 ngân hàng gấp 6 lần con số vào năm 1990, trong đó có 5 NHTM cổ phần nhà nước,

Bảng 3.1: Số lượng các NHTM Việt Nam qua các năm

Số lượng ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, tuy nhiên, về quy mô vốn chủ sở hữu (VCSH) và tổng tài sản, các NHTM Việt Nam vẫn còn ở vị trí tương đối thấp so với các nước trong khu vực.

Theo nghị định 141/2006 NĐ-TP, đến hết năm 2010, các ngân hàng thương mại tại Việt Nam phải đạt vốn pháp định 3000 tỉ đồng, dẫn đến việc tăng vốn ồ ạt trong những năm gần đây Đến cuối năm 2014, tổng vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng đạt hơn 428,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2.21% so với năm 2013 Trong đó, nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước có vốn điều lệ 130,634 tỷ đồng, trong khi ngân hàng TMCP đạt 190,314 tỷ đồng, tổng cộng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong hệ thống ngân hàng.

75% vốn của toàn hệ thống ngân hàng đang gia tăng, cùng với sự tăng trưởng đáng kể của vốn điều lệ và tốc độ tăng vốn chủ sở hữu qua các năm.

Theo khảo sát 25 ngân hàng thương mại Việt Nam, vốn chủ sở hữu (VCSH) trung bình đã tăng từ 5.977 tỷ đồng vào năm 2009 lên 17.562 tỷ đồng vào năm 2015, tương ứng với mức tăng gấp 3 lần so với năm 2009 Đặc biệt, một số ngân hàng như Vietinbank, Vietcombank và BIDV đã có sự tăng trưởng vốn cao và luôn duy trì vị trí dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng.

Biều đồ 3.1: Mức gia tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại từ 2009 đến 2015

Nguồn: Đề tài tự thống kê từ 25 NHTM

Vốn điều lệ và vốn tự có là chỉ số quan trọng phản ánh sức mạnh của ngân hàng thương mại, đồng thời là yếu tố bảo vệ người gửi tiền và hỗ trợ mở rộng hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, năm 2014 ghi nhận mức tăng trưởng thấp nhất trong nhiều năm, với tổng vốn tự có chỉ tăng 4,36% và vốn điều lệ tăng 3,29% Sự tăng trưởng chậm này phản ánh khó khăn trong hoạt động của các ngân hàng và sự thiếu hấp dẫn trong thu hút đầu tư Năm 2015, thông tư 36/2014/TT-NHNN đã tác động tích cực đến vốn tự có khi cho phép tính dự phòng chung cho rủi ro tín dụng vào vốn cấp 2, dẫn đến tổng vốn tự có toàn hệ thống tăng 7,02%, mặc dù vốn chủ sở hữu chỉ tăng nhẹ 0,73%.

Giữa giai đoạn 2007 đến 2010, tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng kỷ lục, từ 1.097 nghìn tỷ VND lên 2.690 nghìn tỷ VND, theo số liệu của IMF Đến cuối năm 2014, tổng tài sản hệ thống ngân hàng đạt 6.514,9 nghìn tỷ đồng, tăng 12,2% so với năm 2013 và gần 60% so với năm 2009 Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tổng tài sản đã giảm dần, từ 40% vào năm 2010 xuống còn 3,74% vào năm 2014 Nguyên nhân chính cho xu hướng này là quá trình tái cấu trúc của các ngân hàng thương mại, với việc thực hiện đề án “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”, dẫn đến nhiều ngân hàng chủ động sáp nhập để nâng cao quy mô và vị thế trên thị trường.

Biều đồ 3.2: Mức gia tăng tổng tài sản của các ngân hàng thương mại từ năm 2009 đến 2015

Nguồn: Nhóm nghiên cứu thống kê từ 25 NHTM

Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam rất ấn tượng, nhưng có sự chênh lệch rõ rệt giữa các ngân hàng lớn và nhỏ Trong số 25 NHTM được khảo sát, 10 ngân hàng lớn nhất chiếm tới 72% tổng tài sản, trong khi 15 ngân hàng còn lại chỉ chiếm 28% Độ lệch chuẩn tổng tài sản giữa các ngân hàng này khá cao, với giá trị trung bình vượt xa trung vị, cho thấy sự phân phối không đồng đều trong hệ thống ngân hàng, nghiêng về phía các ngân hàng nhỏ.

Vào đầu năm 2009, thị trường tài chính toàn cầu và Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính, nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam vẫn ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận ấn tượng, với 59% trong năm 2009 và 31% trong năm 2010 Lợi nhuận ngành tiếp tục tăng trưởng tốt đến cuối năm 2011 Tuy nhiên, từ năm 2012, lợi nhuận của các NHTM bắt đầu có xu hướng giảm, phản ánh thực trạng ngành ngân hàng với tăng trưởng tín dụng thấp do cầu nền kinh tế yếu Nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn, làm giảm khả năng tiêu thụ sản phẩm Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nỗ lực giải quyết vấn đề thanh khoản cho các NHTM nhỏ, nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn thị trường liên ngân hàng, dẫn đến giảm thu nhập từ lãi, đặc biệt là từ hoạt động liên ngân hàng.

Mức lợi suất ROE toàn ngành duy trì ở mức cao, trung bình trên 10%, ngay cả trong điều kiện kinh tế khó khăn, và vẫn vượt trội so với các ngành khác.

Bảng 3.2: ROE trung bình ngành và nhóm ngân hàng đại diện

Nguồn: Bloomberg, VCBS tổng hợp

Năm 2015, ngành ngân hàng ghi nhận sự phân hóa rõ rệt về lợi nhuận, với nhiều ngân hàng gặp khó khăn do áp lực trích lập dự phòng tăng cao từ thông tư 36/2014/TT-NHNN và việc bán nợ cho VAMC gia tăng Biên lãi thuần NIM cũng giảm do phải tuân thủ các mức trần về tỷ lệ cho vay/huy động và tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn Ngược lại, những ngân hàng thương mại tích cực tái cấu trúc và quản lý chất lượng tài sản đã đạt được lợi nhuận khả quan.

Tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng thương mại (NHTM) luôn duy trì ổn định trên 20%, ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007 - 2009 Trong thời gian này, mặc dù nguồn tiền gửi từ các tổ chức kinh tế giảm, nhưng tiền gửi từ khu vực dân cư vẫn ổn định, cho thấy niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng Sau khủng hoảng, mặc dù các ngân hàng cố gắng duy trì lãi suất huy động cao, nhưng vốn huy động vẫn sụt giảm nhanh chóng, chỉ tăng trở lại khi quá trình tái cấu trúc hệ thống năm 2012 bắt đầu có hiệu quả Theo số liệu năm 2014, tổng vốn huy động của nền kinh tế tăng 17% so với năm 2013, và đến cuối năm 2015, tổng vốn huy động tăng 13,49% so với năm 2014.

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ cho vay/ huy động vốn của các ngân hàng cuối năm 2014

Nguồn: Đề tài tự thống kê từ báo cáo tài chính các ngân hàng

Tỷ lệ tín dụng cho vay so với vốn huy động là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự an toàn và hiệu quả hoạt động của ngân hàng Cuối năm 2014, tỷ lệ này của các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm xuống còn 83,67%, tiếp tục xu hướng giảm trong những năm gần đây Điều này cho thấy các ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đầu ra cho tín dụng, trong khi tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn vẫn chỉ đạt 20,15%.

Cuối năm 2014, một số ngân hàng như BIDV (102%), Vietinbank (100%) và Eximbank (104%) có tỷ lệ cho vay/huy động vượt 100%, tuy nhiên, thanh khoản của hệ thống ngân hàng lúc bấy giờ khá dồi dào Mặc dù tỷ lệ này không gây lo ngại ngay lập tức, nhưng việc duy trì lâu dài có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản cho nhiều ngân hàng thương mại, do hoạt động cho vay trung và dài hạn thường phụ thuộc vào nguồn vốn huy động ngắn hạn Đến quý 2 năm 2015, tăng trưởng huy động chững lại và thấp hơn mức tăng của tín dụng, tạo ra áp lực thanh khoản Nguyên nhân chính là lãi suất tiền gửi thấp so với các kênh đầu tư khác, trong khi nhu cầu chi tiêu và đầu tư tăng lên trong bối cảnh kinh tế phục hồi, làm giảm động lực gửi tiền của người dân và tổ chức kinh tế.

3.2 Một số chỉ tiêu an toàn vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại

An toàn vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) là một vấn đề quan trọng trong quản trị ngân hàng, đặc biệt sau các khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm lộ rõ các lỗ hổng Cuối những năm 1980, các cơ quan quản lý bắt đầu áp dụng yêu cầu vốn tối thiểu chính thức Hiệp ước Basel I đã phân loại tài sản thành năm nhóm rủi ro và đặt ra yêu cầu về vốn tối thiểu cho từng loại rủi ro, giúp hạn chế đòn bẩy kế toán của các ngân hàng thương mại Theo Basel I, các ngân hàng cần duy trì vốn tối thiểu 8% so với tài sản, tương đương với việc giới hạn đòn bẩy kế toán ở mức 12,5 lần.

Ngày đăng: 29/03/2022, 23:03

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Tran Dinh Khoi Nguyen (2006) “Capital structure in small and medium-sized enterprises: the case of Vietnam”, ASEAN Economic Bulletin, 23, 192-211 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Capital structure in small and medium-sizedenterprises: the case of Vietnam
1. Tài liệu đọc chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright (Niên khóa 2010-2012), Xinh Xinh (biên dịch). Trọng Hoài (Hiệu đính, Môn học các phương pháp định lượng,chương 16: Các mô hình hồi quy dữ liệu bảng Khác
2. Huỳnh Hữu Mạnh (2010), Bằng Chứng Thực nghiệm về những nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoánViệt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM Khác
3. Đoàn Ngọc Phi Anh (2010), Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính và hiệu quả tài chính: tiếp cận theo phương pháp phân tích đường dẫn, Tạp chíkhoa họcvà công nghệ, Trường Đại học kinh tế Đà Nang - số 5(40).2010 Khác
4. Lê Hoàng Vinh (2008), Xây dựng mô hình cơ cấu vốn hợp lý cho doanh nghiệp Việt Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường đại học kinh tế TP.HCM Khác
5. Lê Trọng Thuần (2010), nghiên cứu cấu trúc vốn của các công ty đang niêm yết ngành thực phẩm giai đoạn 2005-2009, luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinhtế TP.HCM Khác
6. Lê Thị Tuấn Nghĩa (2014), Vấn đề đòn bẩy tài chính trong hệ thống NHTM Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Khác
7. Nguyễn Đức Trung (2011) An toàn vốn của các NHTM - Thực trang Việt Nam và giải pháp cho việc áp dụng hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel II & III Khác
8. Nguyễn Hoàng Châu (2011), Nhân tố tác động đến cấu trúc vốn tại các NHTM Việt Nam, luận văn thạc sỹ kinh tế Khác
9. Báo cáo thường niên các Ngân hàng 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014.• Tiếng anh Khác
3. Rient Gropp and Florian Heider (2009), The determinants of bank capital Khác
5. Diamond, D. and Rajan, R. (2000) A theory of bank capital, Joural of Finance 55, 2431-2465.• Tài liệu web Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w